R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,149 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
|
THÔNG TIN Y HỌC VỀ UNG THƯ DẠ DÀY
(STOMACH CANCER / GASTRIC CANCER)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về thông tin về Ung Thư Dạ Dày
(Stomach Cancer / Gastric Cancer)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 13- BS NGUYỄN VĂN THỊNH (10/2/2007)
6/ NGUYÊN NHÂN VẼ CÁI CHẾT CỦA NAPOLEON
« Bài phân tích này chỉ rơ rằng dầu cho Napoléon có được giải thoát hoặc thoát khỏi đảo Sainte-Hélène, t́nh trạng sức khỏe suy kém của ông sẽ ngăn cản ông đóng trở lại một vai tṛ quan trọng trên sân khấu của lịch sử châu Âu. ». Gần 2 thế kỷ đă trôi qua từ ngày ông mất (5/5/1821), nhưng cái chết của Napoléon Bonaparte vẫn c̣n làm tuôn chảy không biết bao nhiều là ḍng mực và các nhà nghiên cứu điều tra vẫn luôn luôn quan tam đến trường hợp của ông
Công tŕnh nghiên cứu được đăng tải cách nay vài tuần đă được công bố trong Nature Clinical Practice Gastroenterology and Hepatology, dưới sự chỉ đạo của BS Genta, thuộc UT Southwestern Medical Center de Dallas. Đây là công tŕnh được thực hiện bởi một nhóm các nhà giải phẫu bệnh học quốc tế, Hoa kỳ, Thụy sĩ và Gia Nă đại. Các nhà nghiên cứu này đă xem xét lại một cách tỉ mĩ tất cả các tài liệu lịch sử dưới ánh sáng của các kiến thức y học hiện nay.
Các kết luận đánh giá rằng nếu một trường hợp lâm sàng như vậy xảy ra ngày nay, thi dự hậu y khoa sẽ rất là dè dặt và khả năng để sống c̣n rất mong manh.Ngay sau khi Hoàng đế mất,các tin đồn lan truyền rằng đó là do một cuộc âm mưu hoặc là do bị đầu độc bởi arsenic.Các tin đồn này lại càng rơ nét hơn vào năm 1961 sau xét nghiệm một mớ tóc của Napoléon:một nồng độ arsenic khá cao được t́m thấy trên mẫu nghiệm.Các xet nghiệm sau này cũng xác nhận sự hiện diện với nồng độ quan trọng của chất độc này.Thế là kẻ sát nhan được truy t́m.Ngón tay buộc tội trỏ vào không thương tiếc bá tước Charles Tristan de Montholon,một trong 4 người cuối cùng lúc cùng bị lưu đày với Napoléon.Quả thật viên bá tước này,là vi tướng của Để Chế,đă có một cuộc đời ít b́nh hường.Các động cơ ám hại Napoléon của Montholon không thiếu ǵ, theo lời những kẻ dèm pha.
Ḷng ghen tuông là nguyên nhân đâu tiên:người đẹp Albine,vợ ông,da dành cho Napoléon sự quư mến của ḿnh.
Nguyên nhân thứ hai là sự tham lam : bị nợ nặng chồng chất,vị bá tước này đă dùng thủ đoạn để chiếm lấy một phần của cải của Hoàng Đế. Luôn luôn mong muốn kiếm tiền để sống một cuộc sống xa hoa.Và vài tháng trước khi Hoàng Đế qua đời, Montholon trở nên người thực hiện chủ yếu di chúc của Napoléon, thừa hưởng khoảng 2 triệu francs, điều này dấy lên những chỉ trích và tạo nên mối nghi ngờ về sự thực tâm của viên bá tước này. Nguyên nhân thứ ba là chính trị : Montholon hành động v́ lợi ích của những người theo chủ nghĩa quân chủ, tức là những người Anh. Bố vợ cua Montholon là một người thân thuộc của bá tước Artois, một trong những người âm mưu chính theo chủ nghĩa quan chủ.
Thật vậy,công tŕnh nghiên cứu khoa học mới đây về các nguyên nhân gây nên cái chết của Napoléon chứng tỏ rằng ông mất vào tuổi 51 vi ung thư dạ dày ở giai đoạn cuối.Ung thư này được gây nên bởi một loét dạ dày nguồn gốc vi khuẩn.Mặc dầu vào đầu thế kỷ 19,các khối u dạ dày đă được biết đến,nhưng nguồn gốc vi khuẩn th́ không.
Việc làm sáng tỏ vai tṛ của vi khuẩn Helicobacter pylori trong sự xuất hiện các loét dạ dày đă được thực hiện bởi hai BS người Úc Đại Lợi trong những năm 1980 và do đó đă nhận giải Nobel Y Học năm 2005.
Trong trường hợp Napoléon, đă được xem xét : báo cáo giải phẫu tử th́ năm 1821, báo cáo khai quật năm 1840 trước khi thi hài của ông được đưa về Pháp để được mang đặt vào Điện Invalides, cac hồi kư của các y sĩ đă săn sóc ông,hồi kư của những người thân cũng như các tiền sử về gia đ́nh của ông.
Quan trọng nhất trong các tiền sử gia đ́nh là cha ông có lẽ chết v́ ung thư dạ dày. Báo cáo giải phẫu tử thi và các mô tả lâm sàng chứng tỏ rằng không có một dấu chứng nào về một ngộ độc bởi arsenic.Về các phân tích được thực hiện trên tóc Napoleon, các nghiên cứu mới nhất cho thấy rằng arsenic đă không bị uống vào mà đến từ bên ngoài, nhưng không thể nói một cách chính xác đến như thế nào. Nhưng đó không phải là do đầu độc.
Các BS thời đó đă kết luận đó là một ung thư dạ dày. Mặt khác, các vị thầy thuốc thời đó đă mô tả các thương tổn dạ dày của Napoléon rơ ràng đến độ các nhà nghiên cứu ngày nay da có thể minh họa chúng và so sánh chúng với các h́nh ảnh của 50 loét lành tính và 50 ung thư dạ dày. Sự tái tạo chứng tỏ rằng các thương tổn cua Napoléon không phải là lành tính mà đúng là ung thư. Các nhà nghiên đă có the xác định được giai đoạn của ung thư này. Đó là giai đoạn 3, tức là giai đoạn trầm trọng. Ngày nay, chỉ 20% các bệnh nhân với bối cảnh lâm sàng này, được điều trị với những kỷ thuật hiện đại nhất, là có thể sống sót sau 5 năm.
Yếu tố khác hổ trợ cho giả thuyết này : mới đây người ta đă chúng minh rằng, trái với điều mà người ta hằng tưởng, Napoléon đă mất 12 kg thể trọng trong 6 tháng cuối cùng của đời ông.
Sau cùng, một kết luận khác của công tŕnh nghiên cứu này : bệnh ung thư dạ dày của Napoléon và những thương tổn khác được nêu lên làm liên tưởng đến nguồn gốc vi khuẩn của ung thư. Hélicobacter Pylori đă làm phát sinh một thương tổn loét, sau đó thoái hoá thành ung thư. Cách ăn uống của binh sĩ lúc hành quân, nhiều thực phẩm ngấm nước muối (aliments saumurés) và it trái cây và rau xanh, đúng là đă làm gia tăng nguy cơ mắc phải bệnh ung thư dạ dày.
(LE FIGARO 7/2/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 72 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/4/2008 )
6/ MUỐI : KỂ THÙ LỚN CỦA UNG THƯ DẠ DÀY
Ung thư dạ dày : 870.000 trường hợp mới mỗi năm trên thế giới. 7000 trường hợp mới ở Pháp. Ở Pháp, tỷ lệ tử vong của ung thư dạ dày đă được chia 4 từ năm 1950, và tỷ lệ mắc bệnh này cũng thụt lùi rơ rệt. Nhiều thủ phạm đă được nhận diện, như việc tiêu thụ nhiều muối, ăn các thức ăn được hun khói hay ngâm nước muối. Việc giảm rơ rệt tỷ lệ mắc phải ung thư dạ dày, một phần, thường được gán cho sự xuất hiện của tủ lạnh, đă làm cho việc hun khói (fumage) và ướp muối (salage) để bảo quản thức ăn trở thành vô ích. Ở Nhật Bản, nơi cá sống và rau ngâm muối rất được tiêu thụ, nên tỷ lệ ung thư dạ dày vẫn cao. Dẫu sao, mối liên hệ giữa ung thư dạ dày với việc tiêu thụ quá nhiều muối là không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Người ta đă có thể ước tính rằng nguy cơ bị ung thư dạ dày được nhân lên 1,5 đến 6,2 lần đối với những người tiêu thụ quá nhiều muối. Mặc dầu nước muối đă không c̣n được dùng nữa, nhưng đôi khi vẫn khó có thể thoát khỏi NaCl, được chứa trong nhiều thức ăn (các món ăn được nấu...) Và các thịt rất mặn như thịt lợn nhân gấp đôi nguy cơ bị ung thư dạ dày. Ở Pháp, mặc dầu mức độ trung b́nh tiêu thụ muối đă giảm 5% trong 6 năm, nhưng sự tiêu thụ vẫn c̣n cao : gần 8g mỗi ngày, trong khi lượng muối được khuyến nghị là 5g.
Về mặt pḥng ngừa, người ta biết rằng các trái cây (tất cả nhưng đặc biệt là cam quưt) và các loại rau (tất cả nhưng tốt hơn là tỏi tây, hành) đều có một tác dụng bảo vệ. Trong những năm qua, vai tṛ của một vi khuẩn, Helicobacter pylori, cũng đă được nhận diện. “ Không có vi khuẩn, không có ung thư ”, Groupe d’études françaises des Helicobacter (GEFH) đă xác nhận như thế, bởi v́ ung thư chỉ phát triển với sự hiện diện của vi khuẩn này. Một trị liệu bằng kháng sinh đơn giản và nhanh chóng trong ṿng 7 ngày cho phép làm biến mất vi khuẩn Helicobacter. GEFH chủ trương thực hiện các sinh thiết một cách có hệ thống trong khi thực hiện nội soi dạ dày và không chỉ, như những khuyến nghị chính thức chủ trương, nơi những người được gọi là có nguy cơ bởi v́ có một tiền sử gia đ́nh.
SCIENCES ET AVENIR 4/2008
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 105 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/12/2008 )
10/ MỐI LIÊN HỆ GIỮA H. PYLORI VÀ UNG THƯ DẠ DÀY SAU CÙNG ĐƯỢC PHÁT HIỆN
Trong khi Helicobacter pylori hiện diện nơi hầu hết các cá thể, nhưng tại sao chỉ có một số nhỏ phát triển bệnh loét mà thôi ? Để trả lời câu hỏi này, những nhà nghiên cứu người Anh gợi ư rằng, nơi những người không có triệu chứng, vi khuẩn gây nên một đáp ứng thích đáng của những tế bào miễn dịch hủy diệt loại T (cellules immunitaires de type T suppressives) ; đáp ứng này góp phần mang lại sự chung sống ḥa b́nh của kư chủ và vi khuẩn. Luôn luôn theo giả thuyết này, bệnh loét (maladie ulcéreuse), trái lại, là kết quả của sự bất túc hay sự vắng mặt của cơ chế miễn dịch b́nh định (mécanisme immunitaire pacificateur) này.
Cách nay hơn 25 năm, Warren và Marshall, hai nhà nghiên cứu người Úc được giải Nobel năm 2005, đă khám phá trong niêm mạc dạ dày sự hiện diện của một vi khuẩn kháng acide, H.pylori, và đă phát hiện vai tṛ trung tâm của nó trong sự phát sinh và duy tŕ những thương tổn loét của dạ dày. Nhờ những nghiên cứu cơ bản này, những điều trị kháng sinh và các inhibiteurs de la pompe à protons đă cho phép chữa lành bệnh loét dạ dày. Tuy nhiên vẫn c̣n một câu hỏi chưa được giải đáp : tại sao phần lớn những người bị nhiễm trùng bởi Helicobacter pylori vẫn không có triệu chứng ? Câu trả lời dường như là loại và chất lượng của đáp ứng miễn dịch giữa kư chủ và vi trùng.
PHÂN TÍCH ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH
V́ nhu cầu của công tŕnh nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đă tiến hành một nội soi dạ dày với lấy mẫu sinh thiết nơi niêm mạc vùng hang (antrum) dạ dày của 82 bệnh nhân, trong số đó 32 dương tính đối với H.pylori và 44 không mang vi khuẩn. Sau đó, họ kích thích các tế bào của những bệnh nhân không mang vi khuẩn với những kháng nguyên vi khuẩn, rồi phân tích và định lượng đáp ứng miễn dịch bảo vệ. Họ đă so sánh đáp ứng này với đáp ứng được t́m thấy nơi những người bị nhiễm khuẩn và bị loét. Phân tích này phát hiện sự hiện diện, nơi những người dương tính đối với H.pylori và có các vết loét, một số lượng cao hơn một cách đáng kể các tế bào phụ trợ (T auxillaires hay T helper) Th1 và Th2 và một số lượng ít hơn nhiều các tế bào hủy bỏ (cellules suppressives), so sánh với những bệnh nhân không có triệu chứng.
VAI TR̉ THIẾU HỤT CỦA CÁC TẾ BÀO MIỄN DỊCH B̀NH ĐỊNH
Trên cơ sở những điều chứng thực này, các nhà nghiên cứu sau đó đă thiết lập một sơ đồ lư thuyết về những cơ chế cho phép giải thích tại sao một vài bệnh nhân bị loét trong khi những bệnh nhân khác th́ không có triệu chứng. Nơi những người bị loét dạ dày, số lượng những tế bào phụ trợ Th1 và Th2 cao hơn gây nên một phản ứng viêm mạnh mẽ hơn nhiều, mặc dầu cho phép chống lại tốt hơn tác nhân vi khuẩn nhưng, bù lại, cũng gây nên những thương tổn mô quan trọng hơn. Tuy nhiên, yếu tố sẽ làm các loét dạ dày phát triển là ở sự việc rằng các tế bào miễn dịch huỷ diệt loại T (cellules suppressives), mà vai tṛ là dập tắt đám cháy, có số lượng và hiệu quả ít hơn nhiều nơi những bệnh nhân bị loét so với những bệnh nhân không có triệu chứng.
NHỮNG KẾT QUẢ CỦA NHỮNG KHÁM PHÁ NÀY
Như vậy, những triển vọng điều trị mới được mở ra, với hy vọng ngăn chặn tốt hơn bệnh loét dạ dày tá tràng. Thí dụ, người ta hy vọng một ngày nào đó có thể đánh giá mức độ hoạt tính của các tế bào hủy bỏ (cellules suppressives) để xác định xem những người nào bị nhiễm trùng bởi H.pylori là có nguy cơ nhất phát triển các loét dạ dày. Điều này cho phép gia tăng hiệu năng của công tác điều tra phát hiện và tránh được những điều trị kháng sinh vô ích. Ngoài ra, nếu người ta hiểu được những cơ chế gây nên sự gia tăng các tế bào hủy bỏ sau nhiễm trùng bởi H.pylori, người ta sẽ có thể hiệu chính các vaccin mà mục đích sẽ là làm gia tăng trong niêm mạc dạ dày, số lượng những tế bào b́nh định (cellules pacificatrices).
(LE GENERALISTE 13/11/2008).
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 117 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 6/3/2009 )
1/ MỘT CUỘC SỐNG LÀNH MẠNH ĐỂ TRÁNH HÀNG TRIỆU UNG THƯ
Epidémiologie : Những thay đổi nhỏ trong chế độ ăn uống có thể làm giảm 30% nguy cơ bị ung thư đại tràng và vú.
“ Phải thôi nghĩ rằng ung thư là do sự kém may mắn, hoặc là một hành động của ông trời ”, Giáo sư Martin Wiseman, thuộc Quỹ nghiên cứu thế giới chống ung thư đă nhấn mạnh như vậy. Thật vậy, những thay đổi đơn giản như đi làm việc bằng xe đạp hay giảm một ít sự tiêu thụ thịt đỏ, có thể làm giảm rất nhiều những nguy cơ phát triển những bệnh chết người như các ung thư vú và tụy tạng, báo cáo mà ông đă tŕnh bày tuần vừa qua ở Londres đă giải thích như vậy.
Những hiệu quả có lợi của một chế độ ăn uống lành mạnh và đa dạng, của một hoạt động thể dục đều đặn và của một sự kiểm soát thể trọng, đă được chứng tỏ từ một báo cáo đầu tiên, được công bố bởi Quỹ quốc tế chống ung thư năm 2007, nhưng những công tŕnh bổ sung, được thực hiện bởi nhiều nhà dịch tễ học, đă cho phép đánh giá bao nhiêu mạng người có thể được cứu thoát bằng những thay đổi khiêm tốn của hành vi. Sau thuốc lá, vẫn là yếu tố nguy cơ chủ yếu nhất, sự dinh dưỡng, sự tập thể dục và cuộc đấu tranh chống lại béo ph́ là những yếu tố quan trọng nhất để làm giảm xác suất bị ung thư.
“ Những kết quả rất là đáng phấn khởi, giáo sư Sir Michael Marmot, nhà dịch tễ học của University College de Londres và người lănh đạo của nhóm thực hiện công tŕnh, đă đánh giá như vậy. 1/3 của 12 ung thư thông thường nhất trong những nước phát triển, và ¼ trong những nước đang phát triển, có thể tránh được. ” Trong số những ung thư thông thường này là những ung thư họng, phổi và đại tràng. Trên 10 triệu trường hợp ung thư mới mỗi năm trên thế giới, từ ¼ đến 1/3 có thể tránh được với những lối sống lành mạnh hơn.
“ Để đo lường những hiệu quả của những biện pháp mà chúng tôi đề nghị, chúng tôi không cho rằng mỗi người sẽ có những lối sống hoàn toàn lành mạnh, giáo sư Elio Riboli, nhà dịch tễ học của Imperial College de Londres. đă đảm bảo như vậy, chúng tôi đưa ra những giả thuyết về những thay đổi nhỏ, như đối với người nào đó giảm một ít sự tiêu thụ hàng ngày thịt đỏ và đồ thịt lợn, ăn trái cây và rau xanh hơi nhiều hơn hay tập một ít thể dục như dạo bước mỗi ngày. ” Với những giả thuyết như vậy, những tiến bộ sẽ có thể đáng kể.
Trong những nước phát triển như Hoa Kỳ hay Vương Quốc Anh, được giữ trong công tŕnh nghiên cứu, hơn 63% các ung thư miệng sẽ có thể biến mất. Đối với ung thư dạ dày, sự thu giảm ít nhất sẽ là 45%. Nhưng hiệu quả hơi thấp trong những nước như Trung Quốc và Brésil, bởi v́ họ đuổi theo các lối sống của chúng ta và những thói quen ăn uống xấu của chúng ta, nhưng hơi bị chậm trễ và những hậu quả chưa nghiêm trọng như trong các nước giàu.
NHỮNG LỜI KHUYẾN NGHỊ CHO CÁC NGƯỜI LÀM CÔNG TÁC Y TẾ
Để cho những lời khuyến nghị của ḿnh có hiệu lực, những tác giả của báo cáo đă đưa ra những lời khuyên cụ thể cho tất cả các người chủ chốt của y tế công cộng, của các xí nghiệp nông phẩm cũng như chính quyền, đồng thời không quên các tư nhân. “ Sau cùng, chính mỗi cá nhân và không ai khác, phải chọn cho ḿnh một lối sống lành mạnh, Sir Michael Marmot xác nhận như vậy. “ Nhưng cái thế giới, trong đó mỗi cá nhân sống, phải kích thích và cho phép anh ta thực hiện những thay đổi này. Sáng nay, lúc đến Luân Đôn, tôi đă chỉ lợi dụng một đoạn đường đi dành cho xe đạp trên vài trăm mét, và sau đó mạnh ai nấy đi trên đường giao thông. Và nếu tôi muốn dừng lại dọc đường để ăn lấy lại sức, th́ tôi sẽ t́m thấy vô số các cửa hàng ăn, các tiệm bán pizzas và những fast-foods khác, nhưng rất ít nơi có thể t́m thấy một thức ăn lành mạnh.”
(LE FIGARO 2/3/2009)
2/ LƯ THUYẾT VỀ NHỮNG TẾ BÀO GỐC UNG THƯ
Khả năng gây ung thư không chỉ dành cho vài tế bào hiếm hoi của cơ thể, như một vài công tŕnh nghiên cứu trước đây đă cho biết như vậy, mà trái lại, khả năng này chung cho nhiều tế bào. Tuy vậy, nhiều công tŕnh, được tiến hành trong những năm qua, gợi ư rằng chỉ có một tế bào trong số một triệu tế bào được t́m thấy trong các ung thư da, vú hay ruột, là có thể sinh ra một ung thư mới nơi những chú chuột có hệ miễn dịch bị suy yếu. Lư thuyết những tế bào gốc ung thư (théorie des cellules souches cancéreuses), những tế bào hiếm của cơ thể có khả năng tạo ung thư, đă ra đời. Thế mà một công tŕnh nghiên cứu mới của Hoa Kỳ đă xét lại lư thuyết này. Lần này, lúc nghiên cứu trên các chú chuột không có hệ pḥng thủ miễn dịch, các nhà nghiên cứu đă cho thấy rằng khoảng ¼ các tế bào được lấy trên một u hắc tố người, rồi được ghép lên động vật, đă sinh ra một ung thư mới. “ Công tŕnh của chúng tôi gợi ư rằng vài ung thư chứa một lượng quan trọng các tế bào sinh ung thư, điều này là cơ bản để phát triển những điều trị thích ứng. Không ích lợi ǵ khi chỉ nhắm vào một nhóm các tế bào hiếm trong u sắc tố. Phải tiệt trừ tất cả các tế bào của khối u ”, Sean Morrison, đại học Michigan đă giải thích như vậy.
(SCIENCE ET VIE 2/2009)
10/ VITAMINE C : NHỮNG TÁC DỤNG CHỐNG UNG THƯ
Những thử nghiệm khác nhau trên động vật, nhất là được thực hiện ở Viện Ung Thư Quốc Gia, Bethesda (Hoa Kỳ), đă cho thấy rằng vitamine C, cho với liều lượng mạnh, làm giảm kích thước của những loại ung thư khác nhau và kềm hăm sự phát triển của chúng. Những công tŕnh nghiên cứu trên người, trong đó vitamine C được cho bằng đường tĩnh mạch, liên kết với hóa học liệu pháp, đang được tiến hành. Vitamine C ức chế các gène cần thiết cho sự tăng sinh của những tế bào ung thư.
(PARIS MATCH5/3-11/3/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 151 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 7/12/2009 )
6/ DÙNG KHÁNG SINH SẼ TRÁNH UNG THƯ DẠ DÀY.
Thanh toán một vi khuẩn nơi những người trưởng thành trẻ tuổi sẽ bảo vệ họ khỏi bị ung thư dạ dày. Thật vậy, Helicobacter pylori, nguồn gốc của các loét dạ dày, cũng có thể đóng một vai tṛ trong sự xuất hiện của các ung thư dạ dày ; loại ung thư này gây bệnh cho 9000 người Pháp mỗi năm. Vậy có phải loại bỏ một cách hệ thống vi khuẩn này để ngăn ngừa ung thư dạ dày hay không ?
Thật ra, một điều trị pḥng ngừa bởi kháng sinh chỉ có thể hữu ích nơi những người dưới 50 tuổi, theo Katsuhiro Mabe, thầy thuốc chuyên khoa tiêu hóa của trung tâm y tế KKR Sapporo (Nhật Bản). Ông ta đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu trên hơn 4.000 bệnh nhân đă bị một loét dạ dày do helicobacter pylori. Những người này, tuổi trung b́nh 50, đă nhận hoặc là một điều trị chống lại axit của dạ dày, hoặc một kháng sinh liệu pháp. Trong suốt công tŕnh nghiên cứu, 56 trường hợp ung thư dạ dày đă được phát hiện, nhưng không có sự khác nhau đáng kể nào đă được xác nhận giữa hai nhóm. Ngược lại, những bệnh nhân trẻ hơn, đă sử dụng các kháng sinh chống lại một loét dạ dày, dường như hưởng được một hiệu quả bảo vệ. Những kết quả này gợi ư rằng việc thanh toán Helicobacter pylori nơi một bệnh nhân trẻ tuổi đúng là làm giảm nguy cơ bị ung thư dạ dày.
(SCIENCE ET VIE 12/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 166 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 22/3/2010 )
1/ TẠI SAO CÀNG NGÀY CÀNG CÓ NHIỀU UNG THƯ ?
Giáo Sư Maurice Tubiana,
Thầy thuốc chuyên khoa ung thư,
Hội viên của Viện Hàn làm Y Học quốc gia
Từ năm mươi năm qua, số các trường hợp ung thư đă gia tăng ở Pháp, do sự gia tăng dân số, từ 45 triệu năm 1950 lên 65 triệu hôm nay, và là do sự kéo dài của tuổi thọ, từ 59 lên 81 tuổi. Thế mà ung thư, thường hiếm trước 45 tuổi, sau đó gia tăng với tuổi tác. Ngoài ra, sự khám nghiệm thăm ḍ (dépistage) phát hiện những ung thư nhỏ không tiến triển ; những ung thư này đáng lư ra đă không bao giờ được phát hiện ; việc phát hiện những vi ung thư (microcancer) hiền tính này là cái giá phải trả để chẩn đoán sớm các ung thư tiến triển. Những sự kiện này giải thích rằng, mặc dầu sự gia tăng số các trường hợp ung thư, tỷ lệ chết v́ một ung thư mỗi năm đă giảm nơi các phụ nữ khoảng 0,5% và ở Pháp đó là một trong những tỷ lệ thấp nhất trên thế giới. Mặt khác, các người Pháp có một trong những tuổi thọ dài nhất trên thế giới, điều này chứng tỏ rằng môi trường và điều trị nằm trong số những nước tốt nhất.
Để đi xa hơn, phải xem xét tiến triển của những loại ung thư khác nhau. Số các trường hợp ung thư vú đă gia tăng, v́ nhiều lư do : trước hết có một sự gia tăng tỷ lệ của các phụ nữ tăng thể trọng (surpoids), điều này làm dễ tỷ lệ mắc phải những ung thư này sau thời kỳ măn kinh. Sau đó, một thai nghén trước 25 tuổi làm giảm nguy cơ của ung thư vú. Thế mà ngày nay, hơn một nửa những thai nghén đầu tiên xảy ra sau 30 tuổi ; sau cùng, có những điều trị bằng hormone thay thế của chứng măn kinh, cần phải giới hạn vào những trường hợp cần thiết về mặt y khoa. Tuy vậy, từ năm 1990, tỷ lệ tử vong do ung thư vú giảm , nhờ những chẩn đoán sớm hơn và nhờ những điều trị hiệu quả hơn. Tần số của những ung thư khác đă giảm : tỷ lệ mắc phải ung thư dạ dày được chia 5 từ năm 1950, mặc dầu dạ dày là tạng bị tiếp xúc nhất với các chất gây ung thư hiện diện trong thức ăn. Sự giảm tỷ lệ ung thư dạ dày là do một chế độ ăn uống giàu các sản phẩm tươi hơn và do sự điều trị chống lại các nhiễm trùng dạ dày.
Ung thư cổ tử cung vào năm 1939 là ung thư thường xảy ra nhất nơi phụ nữ ; loại ung thư này gần như đă biến mất nơi các phụ nữ thực hiện đều đặn những frottis cổ tử cung-âm đạo ; than ôi ! ¼ các phụ nữ không thực hiện những xét nghiệm này, đôi khi v́ những lư do văn hóa. Trong những trường hợp này, cần phải nhờ đến sự tiêm chủng chống lại virus papillome vào tuổi dậy th́. Cũng cần khẩn trương tiêm chủng một cách có hệ thống các thiếu niên chống lại viêm gan B, là nguồn gốc của ung thư gan, những loại ung thư này ở Pháp tương đối thường xảy ra.
Nơi các người đàn ông, nguy cơ chết v́ một ung thư đă gia tăng từ năm 1950 đến 1990, rồi đă giảm khoảng 1% mỗi năm, nhưng tuy vậy nguy cơ chết v́ ung thư vẫn là một trong những nguy cơ cao nhất ở Châu Âu. Tiến triển này theo tiến triển của sự tiêu thụ thuốc lá và rượu, là nguyên nhân của ½ của những ung thư nam giới (1/4 của các ung thư nữ giới). Ở Pháp, chỉ có sự gia tăng giá cả, với điều kiện ít nhất là 10%, mới có thể làm hạ chứng nghiện thuốc lá. Cần khẩn trương thực hiện điều đó và chống lại chứng nghiện rượu.
Nhưng số các trường hợp ung thư mới đă gia tăng từ năm 1985. Môi trường thường được quy trách nhiệm nhưng những công tŕnh nghiên cứu được tiến hành bởi Trung tâm quốc tế nghiên cứu về ung thư (CIRC) cho thấy rằng ảnh hưởng của môi trường là thấp. Ngược lại, các ung thư tuyến tiền liệt (cancer de la prostate) đă trở nên thường xảy ra hơn mặc dầu tỷ lệ tử vong lại giảm. Sự gia tăng này là do việc đưa vào xét nghiệm định lượng PSA, không những cho phép chẩn đoán sớm nhưng cũng cho phép phát hiện những bệnh hiền tính của tuyến tiền liệt. Hơn một nửa các người đàn ông trên 60 tuổi có những ung thư nhỏ không tiến triển, vẫn trong t́nh trạng ngấm ngầm không triệu chứng. Vậy đúng là PSA dẫn đến một sự phát hiện gia tăng số các trường hợp ung thư tiến triển.
Rốt cục chỉ có số các trường hợp lymphome non hodgkinien đă gia tăng mà người ta không biết tại sao. Ngoài việc đấu tranh chống lại thuốc lá và rượu, chỉ cần cho áp dụng những quy tắc vệ sinh là đủ : theo dơi thể trọng, tập thể dục (5 giờ mỗi tuần), hạn chế sự tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, giới hạn việc cho hormone vào những trường hợp được biện minh về mặt y khoa. Điều này đ̣i hỏi sự can đảm về phía các thầy thuốc và của Nhà nước, nhưng cũng đ̣i hỏi một thông tin hợp lư.
(LE FIGARO 15/3/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 204 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (13/12/2010)
4/ ASPIRINE VỚI NHỮNG LIỀU LƯỢNG NHỎ CHỐNG LẠI TẤT CẢ HOẶC HẦU NHƯ TẤT CẢ CÁC LOẠI UNG THƯ.
Một cuộc điều tra được công bố hôm nay tiết lộ rằng sử dụng aspirine 75 mg mỗi ngày làm giảm 20% tỷ lệ tử vong do ung thư.
CANCEROLOGIE. Hơn 100 năm sau khi được thương măi hóa, aspirine vẫn không ngừng tiết lộ các bí mật và nhất là những lợi ích của nó. Lợi ích mới nhất : một tác dụng pḥng ngừa hầu như vạn ứng đối với các ung thư, khi aspirine được sử dụng với những liều lượng nhỏ trong nhiều năm. Măi cho đến nay, tính chất này chủ yếu đă được nghiên cứu và xác lập một cách vững chắc đối với các ung thư đại trực tràng. Cách nay vài tuần, một công tŕnh của nhóm nghiên cứu Anh của GS Peter Rothwell, thuộc đại học Oxford, đă đánh giá rằng một sự tiêu thụ tối thiểu aspirine (75 mg mỗi ngày), trong một thời gian dài lâu, làm giảm 24% nguy cơ mắc phải ung thư đại trực tràng, và làm giảm 1/3 tỷ lệ tử vong của nó nơi những người đă bị ung thư này.
NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ CỦA ĐƯỜNG TIÊU HÓA.
Cùng nhóm nghiên cứu này công bố hôm nay, vẫn trong tạp chí Anh The Lancet, những dữ kiện mới, theo đó acide acétylsalycilique (aspirine) tác dụng lên nhiều khối u ác tính khác, làm giảm ít nhất 20% tỷ lệ tử vong của chúng. Để nghiên cứu những mối liên hệ mật thiết giữa việc dùng aspirine và các ung thư, Peter Rothwell và các đồng nghiệp đă xem xét lại những công tŕnh nghiên cứu lớn, so sánh aspirine với một placebo hay với một loại thuốc khác như thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (antiagrégant) hay thuốc kháng đông (anticoagulant) nhằm ngăn ngừa những bệnh tim mạch. Thật vậy, aspirine là một trong những điều trị nền (traitement de fond) cổ điển để làm loăng máu nơi những người có nguy cơ cao bị các tai biến tim. Tổng cộng, 7 thử nghiệm đă được phân tích lại, bao gồm 25.570 bệnh nhân. Trong số những bệnh nhân này, 674 đă chết v́ các ung thư. Nh́n toàn bộ, nơi những bệnh nhân dùng aspirine, tỷ lệ tử vong bởi khối u ác tính đă giảm 21% trong thời gian thực hiện các nghiên cứu. Các lợi ích lại c̣n rơ rệt hơn sau 5 năm, với một sự giảm 34%, nếu tính chung các loại ung thư, và ngay cả giảm 54% nếu đó là những ung thư dạ dày-ruột.
Các tác dụng của aspirine xuất hiện sau khoảng 5 năm đối với các ung thư thực quản, tụy tạng, năo và phổi ; và sau khoảng 10 năm đối với các ung thư dạ dày và đại tràng và 15 năm đối với các ung thư của tuyến tiền liệt. Trong những thử nghiệm với sự theo dơi rất lâu dài, các lợi ích được duy tŕ trong hơn 20 năm, Peter Rothwell đă nhấn mạnh như vậy, đồng thời cũng xác nhận rằng những lợi ích này chỉ được giới hạn đối với vài loại ung thư, nhất là những ung thư thuộc loại adénocarcinome ”.
“ Đó là một công tŕnh được thực hiện rất tốt, vững chắc trên phương diện phương pháp học, và mở đường cho một phương pháp pḥng ngừa các ung thư có hiệu quả và có thể thực hiện được, BS Catherine Hill, chuyên gia dịch tễ học thuộc Viện Gustave-Roussy (Villejuif) đă lấy làm phấn khởi. Cho măi đến nay, trong lănh vực này, sự pḥng ngừa chủ yếu dựa trên việc chống lại các yếu tố nguy cơ, như thuốc lá, rượu. Nhưng c̣n về thuốc men, th́ chẳng có bao nhiêu. Nhiều hướng đă được nghĩ đến, như hướng của tamoxifène để pḥng ngừa ung thư vú hay hướng của các anticox (thuốc chống viêm) nhưng những phương pháp này đều thất bại bởi v́ có nhiều nguy cơ hơn là lợi ích.” Một cách cụ thể, ta có thể khuyến nghị mỗi người dùng vào mỗi buổi sáng một liều lượng nhỏ aspirine hay không ?
Về các ung thư đại trực tràng, điều đó không c̣n xa vời lắm. Trong bài báo được đăng tải hôm tháng 10, Peter Rothwell đă gợi ư như vậy đối với những người có nguy cơ cao bị những ung thư này. Nhưng một “ hóa học pḥng ngừa ” (chimioprévention) thực hiện rộng răi trong dân chúng dường như c̣n quá sớm, đặc biệt do những tác dụng phụ tiêu hóa của aspirine. “ Phải cần đến những công tŕnh nghiên cứu khác ” các nhà nghiên cứu người Anh đă chấp nhận như vậy, đồng thời đặc biệt nhấn mạnh việc thiếu những dữ kiện về các ung thư phụ nữ, đặc biệt là ung thư vú.
Trong lúc chờ đợi, các nhà nghiên cứu cho rằng nơi những người đang được điều trị chống ngưng kết (traitement antiagrégant), th́ những kết quả của công tŕnh nghiên cứu của họ làm lệch cán cân về phía aspirine.
(LE FIGARO 7/12/2010)
|