R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,149 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
|
Nhớ Người Chí sĩ Việt Nam
(Nguồn: Cờ Vàng Việt Nam)
Nếu bọn Việt công thắng th́ Quôc gia Việt Nam cũng sẽ bị tiêu diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung hoa cộng sản. Hơn nữa toàn dân sẽ phải sống măi măi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia đ́nh, vô tổ quốc, vô tôn giáo.
Lời cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Trong diễn văn khánh thành đập Đồng Cam, Tuy Hoà (ngày 17-09-1955)
Nỗi Ḷng
Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
Hỏi bến: thuyền không lái cũng không!
Xe muối nặng nề thân vó Kư
Đường mây rộng răi tiếc chim Hồng
Vá trời lấp biển người đâu tá ?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông!
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi khách thuở nào trong?
Ngô Đ́nh Diệm, 1953
Edited by user Friday, January 15, 2016 1:10:00 AM(UTC) | Reason: Not specified
Back to top
thanks 1 user thanked wild grass for this useful post.
hongvulannhi on 1/28/2017(UTC)
wild grass
#2 Posted : Monday, November 2, 2015 12:34:26 AM(UTC)
wild grass
Rank: Advanced Member
Groups: Registered
Joined: 11/1/2015(UTC)
Posts: 305
Thanks: 47 times
Was thanked: 110 time(s) in 94 post(s)
Ngàn năm gương cũ ... nhớ Người
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, Kẻ Sĩ cuối cùng
Phạm Phong Dinh
UserPostedImage
"Tôi tiến, hăy theo tôi;
tôi lùi, hăy bắn tôi;
tôi chết, hăy nối chí tôi.
Tôi không phải là thần thánh,
tôi chỉ là một người b́nh thường,
tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc,
một ḷng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc."
Ngô Đ́nh Diệm
Đó là những lời tâm huyết, mà cũng là những lời trối trăn đầy máu và lệ của một chiến sĩ quốc gia: Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, c̣n để lại cho những thế hệ đời sau, trước khi người từ giă đồng bào đi về phía Cơi Vĩnh Hằng. Mỗi năm đến ngày 1.11 cái chết của người vẫn như một vết thương c̣n nưng mũ, lại vỡ toác ra trong trái tim ứa máu của mỗi chúng ta nỗi ngậm ngùi tiếc thương. H́nh ảnh Tổng Thống Diệm mặt đẫm đầy máu, v́ bị bắn từ phía sau ót, hai tay bị trói quặt về phía sau, nằm co người trong ḷng chiếc thiết vận xa M113 oan nghiệt, vẫn luôn là một cơn ác mộng chập chờn hiện về trong cơi kư ức của những người c̣n nhớ đến ông, tri ân ông như là một anh hùng dân tộc, mà đă dẹp tan loạn sứ quân Miền Nam sau lần chia cắt đất nước tháng 7.1954, trần ai khổ ải giành lại độc lập cho đồng bào ông từ tay thực dân Pháp. Chỉ với hai bàn tay trắng cùng một tấm ḷng son sắt, ông đă tống khứ được đạo quân viễn chinh 150,000 quân Pháp vĩnh viễn ra khỏi Việt Nam. Trên hết tất cả, là một con người phi thường đứng mũi chịu sào ngăn chống hai mặt trận lớn : sự kiêu ngạo ngu xuẩn của bạn đồng minh và sự hung hăn khát máu của giặc cộng sản.
Tổng Thống Diệm có ǵ trong tay để đối đầu với hai chiến trường nặng độ đó ? Ngay cả lực lượng bảo vệ trong những năm đầu làm tổng thống của ông cũng không có, đến nỗi tổng thống Phi Luật Tân Magsaysay phải gửi chuyên viên quân sự sang giúp thành lập và huấn luyện Tiểu Đoàn Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống hỗ trợ cho người bạn cô đơn của ḿnh. Một căn pḥng làm việc nhỏ với một chiếc bàn gỗ cũ, vài cái ghế nghèo nàn để tiếp khách, một chiếc phản không nệm cùng một chiếc mùng nhỏ trong một căn pḥng ngủ không có máy lạnh, chỉ có một chiếc quạt trần. C̣n ǵ nữa cho những giờ phút thư thả sau một ngày làm việc căng thẳng. Trời ơi, chỉ có một gói thuốc lá đen hiệu Bastos rẻ tiền trong chiếc túi áo vải đă sờn. Ăn uống th́ kham khổ như một nhà tu, buổi sáng chỉ là một tô hủ tiếu hay ḿ, buổi ăn chiều chỉ gồm có một dĩa cá kho và một tô canh rau hay đậu. Thế c̣n những giấc ngủ hằng đêm đă được người thu xếp như thế nào ? Người đi ngủ, thường thường lúc 1 giờ khuya và thức dậy lúc 5 giờ sáng ngày hôm sau, nghĩa là chỉ có 4 tiếng đồng hồ chợp mắt, mà chưa hẳn ông đă được ngủ ngon trong bối cảnh một quốc gia hăy c̣n quá nhiều công việc bề bộn, mà cái nào cũng hết sức cấp bách. Kết quả của sự hy sinh và đức tính khiêm cung cần kiệm ấy ? Hàng ngàn trường học, nhà thương trên khắp nẽo đường đất nước được xây dựng, hàng ngàn đền miếu, chùa chiền, nhà thờ, thánh thất hân hoan vươn ḿnh lên phía trời xanh, hàng triệu mẫu ruộng phơi phới màu xanh của lúa, hàng triệu đồng bào di cư từ Miền Bắc có công ăn việc làm và đang tiến đến lằn ranh của sự giàu có thịnh vượng. Người đă xây dựng những quân trường tối tân nhất Đông Nam Á để đào tạo nhân tài lănh đạo và bảo vệ nước Nam, nền kỹ nghệ được mở mang với những ống khói của hàng hàng lớp lớp nhà máy cuồn cuộn những khối mây đen tỏa rộng lên không gian, vực dậy sức sống của một đất nước nghèo nàn sau cơn chiến tranh.
C̣n nhiều nữa những kỳ công của một con người khiêm tốn tự nhận ḿnh là b́nh thường không thể kể ra hết, để đem nước Việt Nam Cộng Ḥa ngẫng cao đầu trên trường thế giới, trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất Đông Nam Á thập niên 1950 – 1960. Tất cả những công lao to lớn ấy đă rất hiếm khi được một nhà viết sử thế giới phương Tây và Hoa Kỳ nào liệt kê ra để vinh danh Tổng Thống Diệm. Trái lại, những kẻ gọi là những nhà viết sử vô tư và khách quan đó, đă tỉ mỉ dùng kính khuếch đại rọi vào từng ngóc ngách khiếm khuyết của một chính quyền non trẻ thiếu thốn nhân lực, kinh nghiệm và cực nghèo nàn, hả hê một cách độc ác trưng lên từng trang sách những : “sự thật” về một chính thể “độc tài”, một chính quyền “tham nhũng”, một bộ máy “thối nát”, để che dấu và biện minh cho sự bất lực, hèn nhát, ngu dốt, đểu cáng, sát nhân và cuối cùng là sự tháo chạy của một cường quốc kiêu ngạo.
Tất cả những sự thất bại trên đất nước Việt Nam đều được tàn nhẫn trút lên đầu quân và dân Việt Nam Cộng Ḥa, biểu lộ cái hèn của một gă người lớn ăn trộm bị bắt quả tang nhưng căi chầy căi cối đổ tội cho một đứa trẻ đói khát đang đứng ngơ ngác bên đường. Đó là cung cách viết sử của thế giới phương Tây và Hoa Kỳ, ngoại trừ một vài tiếng vang vọng lương tâm của những tác phẩm và con người c̣n biết tôn trọng lẽ phải cùng sự thật, nhưng hăy c̣n quá ít. Đối với bạn th́ độc ác như thế, c̣n đối với thù th́ sao ? Để biện minh cho sự thất bại của ḿnh, những nhà viết sử Pháp và Mỹ đă phải cực lực nâng đối thủ lên hàng siêu đẳng và huyền thoại. Rằng tướng A, tướng B đó chúng nó quá giỏi, rằng ông già râu đó là một trong 100 khuôn mặt lớn của thế giới, chúng tôi thua là phải, cái thua của chúng tôi là vô cùng... xứng đáng ! Nhưng họ không hề bao giờ viết lại cho hậu thế cùng biết rằng, gă râu xồm ấy, cũng những tướng A, tướng B đó của kẻ thù, đă từng nhiều lần là bại tướng nhục nhă dưới tay những tướng C, tướng D của một đất nước có tên là Việt Nam Cộng Ḥa và một quân đội có tên là Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Những cuốn sử đầy thành kiến và thiên lệch đó vẽ ra h́nh ảnh một ông vua ngồi ngất ngưởng trên ngai vàng, thỏa măn với sự tung hô cúc cung tận tụy của bọn nịnh thần vô lại, phẩy tay một cái là bắt nhốt người này, bỏ tù người kia. Nhưng trong thực tế, Tổng Thống Diệm là một con người siêng năng, ông thường ít ngồi trong văn pḥng làm việc, mà rất thường xuyên đi thăm hỏi dân t́nh trên khắp nẽo đường đất nước. Rất hiếm một cuốn sách nào kể lại sự việc người thanh niên tên Hà Văn Trí đă dùng súng ám sát Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, khi ông lên kinh lư Ban Mê Thuột trong nâm 1961. Thật may mắn, viên đạn chỉ bắn bị thương một vị bộ trưởng tháp tùng. Với cái tội tầy trời đó, anh Trí chỉ phải ngồi tù có 2 năm rồi được phóng thích. Chúng ta thách các nhà viết sử Mỹ nào t́m được một sự kiện tương tự với một bản án khá hơn ở bất cứ quốc gia nào. Hay ít cuốn sách nào tiết lộ việc Tổng Thống Diệm dùng ngân quỹ nghèo nàn của quốc gia, hoan hỉ giúp xây dựng nên những ngôi chùa bề thế, uy nghi Xá Lợi, Vĩnh Nghiêm, Ấn Quang, Viện Hóa Đạo, thánh thất Cao Đài, v.v.. từ năm 1956 trở đi.
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm sinh ngày 3.1.1901 ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng B́nh. Ông là người con thứ ba trong một gia đ́nh qúi tộc nề nếp, nhiều đời làm quan trong triều đ́nh nhà Nguyễn, và trong gịng họ theo đạo Công giáo từ đầu thế kỷ thứ 17. Ông có hai người anh là Ngô Đ́nh Khôi và Ngô Đ́nh Thục, các em trai là Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Cẩn, Ngô Đ́nh Luyện và hai em gái. Không ít người mang họ Ngô đă là những thánh tử đạo trong những cuộc bách hại người theo đạo Kitô của triều đ́nh nhà Nguyễn, nhất là dưới thời vua Minh Mạng. Theo tài liệu của các sử gia Mỹ, ông James S. Olson và Randy Roberts trong quyển Where The Domino Fell, th́ gịng họ Ngô là hậu duệ của Ngô Quyền, người anh hùng Nước Nam đă kiêu dũng giành lại được nền độc lập cho dân tộc Việt Nam năm 939 từ xâm lược Bắc phương. Có phải chăng gịng máu anh hùng ấy sau một ngàn năm chảy luân lưu trong nhiều thế hệ, định mệnh đă chọn cậu bé Ngô Đ́nh Diệm tiếp nối con đường dựng nước và giữ nước của cha ông, là giành lại độc lập từ xâm lược Bắc phương và Tây phương. Một công việc cao cả nhưng nặng oằn như núi Thái Sơn chất chồng trên vai, đ̣i hỏi con người ấy phải là một con người kiệt xuất có ư chí bằng thép và trái tim yêu nước nồng nàn.
Thân phụ của ông Ngô Đ́nh Diệm là cụ Ngô Đ́nh Khả, làm quan triều vua Thành Thái (1889 – 1907). Trong những năm 1880, cụ Khả được gia đ́nh gởi sang Mă Lai Á học làm linh mục. Nhưng ở quê nhà đă xảy ra một cuộc náo loạn bách hại người Công giáo của những người theo đạo giáo khác, gia đ́nh cụ Khả gần như bị tuyệt diệt. Được tin chẳng lành cụ Khả bỏ học trở về Việt Nam, để chỉ ngậm ngùi đau xót trước cái chết bi thảm của ông bà, cha mẹ, anh chị em, chú bác cùng thân nhân. Là một thanh niên có học thức, nói tiếng Pháp lưu loát, nên chẳng mấy chốc mà cụ Khả đă rất thành công trong chốn quan trường, dần dần được thăng lên đến chức Phụ Chính Đại Thần trong triều đ́nh Huế. Người vợ lớn cụ Khả mất sớm, bà cụ Khả là người vợ sau sinh cho ông chín người con, trong đó có bảy trai. Cụ Khả đă khẳng khái phản đối thực dân Pháp bắt vua Thành Thái đi đày ở đảo Reunion, sau sự thất bại của cuộc binh biến Thành Mang Cá Huế năm 1885, và đă cởi áo từ quan. Để ngợi ca hành động trung quân ấy, trong dân gian truyền tụng câu vè Đày Vua Không Khả, Đào Mả Không Bài. Thượng Thư Bộ Lại, ông Nguyễn Hữu Bài, bạn đồng liêu thân thiết với cụ Khả và gia đ́nh nhà Ngô cũng đă đi vào lịch sử với hành động phản kháng thực dân Pháp hỗn láo muốn xúc phạm đến lăng tẫm nhà Nguyễn.
Lớn lên trong một gia đ́nh thuần thành, ngoan đạo dựa trên nền tảng đức tin tuyệt đối cùng hạnh bác ái vị tha, được cụ thân sinh hun túc cho một nền học vấn dựïa trên những nguyên tắc sĩ khí của Khổng giáo, Tam Cương, Ngũ Thường, Trung Quân và Ái Quốc, cậu bé Ngô Đ́nh Diệm đă sớm tỏ ra là một nhân vật lạ thường so với những đứa trẻ cùng hạng tuổi. Trong lúc bọn trẻ tụ tập chơi đùa ngoài đường phố, th́ cậu bé Diệm chỉ mải mê với sách vở, bởi cậu muốn khám phá thế giới kỳ diệu của văn chương, triết học và tôn giáo. Tuy sinh trưởng trong một gia đ́nh quyền quư, nhưng người trai trẻ Ngô Đ́nh Diệm luôn yêu mến giới cần lao chân lấm tay bùn. Có nhiều dịp gần gũi với lớp người này, trong đầu cậu bé đă h́nh thành một khái niệm về nỗi khỗ của giới cần lao và cái nhục của những người mất nước :Làm sao nâng đỡ họ, tạo cho họ một đời sống xứng đáng, tự do hơn. Đó là cái nền tảng thúc đẩy cậu bé Diệm trở thành một con người dấn thân làm cách mạng tranh đấu giành độc lập cho xứ sở, kiến tạo một xă hội thịnh vượng cho dân tộc của cậu.
Đến tuổi đi học, cậu Diệm được cụ Khả cho vào Trường Quốc Học Huế. Trong thời gian này, cậu học tṛ nhỏ ấy có dịp quen biết với một ngươi học tṛ lớn hơn cậu đến mười tuổi, là cậu Nguyễn Sinh Cung, sau này đă đổi tên thành Hồ Chí Minh. Định mệnh đă khiến xui hai đối thủ chính trị gặp gỡ sớm, người này biết rơ cá tính người kia và cùng kính trọng lẫn nhau, dẫu quan niệm và phương cách đấu tranh khác biệt. Là một con người ngỗ ngáo, quỉ quyệt và hung tợn, Hồ đă từng giết anh cả ông Diệm là Ngô Đ́nh Khôi, sát hại Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Ḥa Hảo, nhiều chí sĩ khác như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, điềm chỉ cụ Phan Bội Châu cho Pháp bắt. Nhưng khi ông Diệm bị quân Việt Minh bắt giao nộp cho Hồ trong năm 1946, th́ Hồ đă không dám sát hại ông, chỉ giam lỏng. Thật may mắn, ông Diệm đă t́m cách trốn thoát được. Hồ Chí Minh không làm ǵ được ông Diệm, v́ hắn vừa mới kư xong Hiệp Định Sơ Bộ ngày 6.3.1946, trong đó có điều khoản bảo vệ người quốc gia do phía Pháp đưa ra. Chẳng những thế mà vài thập niên sau, nhận thấy ḿnh thua kém xa người bạn trường cũ về đạo đức, tác phong, cuộc sống thánh thiện không chút t́ vết, Hồ đă viết sách “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện” ca ngợi nâng bi lấy bản thân với bút hiệu Trần Dân Tiên, cho bọn văn nô đàn em thổi phồng Hồ lên ngang tầm với ông Diệm về mọi mặt. Ông Diệm sống cuộc đời độc thân, th́ Hồ cũng xê li ba te (celibataire, không có vợ) hách x́ xằng như ai. Ông Diệm hút thuốc Bastos, th́ Hồ cũng ti toe hút thuốc thơm đầu lọc, có lẽ hút thuốc lá đen khét quá chịu không thấu. Cụ Diệm sống trong một căn pḥng nhỏ đơn sơ, th́ Hồ cũng cho thợ mộc cất cho Hồ một căn nhà toàn gỗ quư chở từ miền rừng thượng du về, chứ không chịu ở trong dinh Toàn Quyền cũ.
Năm 15 tuổi cậu Diệm có ư định theo ngành linh mục, nhưng ông anh là Ngô Đ́nh Thục đă khuyên ngăn cậu, rằng cậu không thích hợp với công việc này, ông nh́n thấy trước một cái ǵ đó lớn lao cao cả hơn ngoài trần thế đang chờ đợi cậu em. Con người thích hợp với việc đạo, chăn dắt con chiên chính là ông Thục, chứ không ai khác trong gia đ́nh. Cậu Diệm nghe lời anh, nhưng thề hiến dâng linh hồn cho Chúa Trời, bằng cách nguyện sống đời độc thân vĩnh viễn. Năm 16 tuổi cậu Diệm tốt nghiệp Cao Đẳng Tiểu Học (tương đương bằng Trung Hoc Đệ Nhất Cấp) và trúng tuyển vào Trường Hậu Bổ Quốc Gia Huế (tương tự Cao Đẳng Quốc Gia Hành Chánh sau này). Khi nghe tin chàng thanh niên Ngô Đ́nh Diệm đang học trong trường nhà nước, Hồ ở Pháp xốn xang sốt ruột quá, bèn gởi đơn xin triều đ́nh Pháp cho Hồ vào trường Thuộc Địa Pháp, nhưng không được chấp thuận. Người Pháp đă bỏ lỡ một cơ hội đào tạo một loại hàng thần mẫn cán như Hoàng Cao Khải, Trương Quang Ngọc, Huỳnh Công Tấn, lẽ ra đă có thể tránh được trận Điện Biên Phủ năm 1954, nếu Hồ đă nghiễm nhiên trở thành công bộc cúc cung phục vụ quyền lợi mẫu quốc Pháp.
Nhưng với chàng thanh niên trẻ Ngô Đ́nh Diệm th́ không, người không đời nào chịu ḷn cúi thực dân Pháp, dù cho chúng có đem danh lợi và quyền lực làm mồi nhữ. Sau khi ra trường, chỉ mới hai mươi tuổi, chàng đă được bổ làm Tri Huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, thăng Tri Phủ năm 1932, rồi Tuần Vũ B́nh Thuận. Người Pháp bắt đầu chú ư đến cái tên Ngô Đ́nh Diệm, khi trong năm 1929, ông đă phá tan được một âm mưu khởi loạn của cộng sản. Năm 1933, chỉ mới có 32 tuổi, ông Diệm đă được vua Bảo Đại (1925 – 1945) tín nhiệm cất nhắc lên làm Thượng Thư Bộ Lại, một chức vụ tương đương Thủ Tướng sau này, kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Thanh Tra, đặc cách toàn quyền thanh trừng bọn tham quan ô lại nhũng nhiễu dân chúng. Với mối liên hệ này, hai mươi năm sau, trong cương vị Quốc Trưởng, ông Bảo Đại vẫn tín nhiệm ông Diệm trong chức vụ Thủ Tướng của một nước Việt Nam độc lập sau Hiệp Định Geneva (tiếng Pháp là Genève) kư hiệu lực ngày 20.7.1954. Đến đây, với chức Thượng Thư Bộ Lại, nếu ở vị trí những con người khác th́ đă lên đến tột đỉnh công danh rồi, nhưng cái bả vinh hoa phù phiếm ấy không làm cho người xao nhăng một chút nào cái nhục vong quốc. Người lấy chức vụ của ḿnh làm phương tiện cho công cuộc cách mạng. Với dân, vị thượng thư trẻ luôn luôn đi sát họ, t́m hiểu để cảm thông nguyện vọng và nỗi cơ khổ của từng lớp người để t́m biện pháp che chở và đem lại quyền lợi cho họ. Bởi thế, người dân B́nh Thuận đă dựng bia kỷ niệm để tri ân công đức vị Tuần Vũ họ Ngô, như đă tôn thờ các vị thần hay những anh hùng cứu quốc khác.
Với thực dân Pháp, trườc chính sách ngu dân của chúng, vị thượng thư trẻ tích cực đề nghị nhiều cải tổ như tổ chức Viện Dân Biểu, để người hiền tài trong quần chúng có thể tham gia vào chính quyền, lập hiến pháp để mở đường giải thoát đất nước, yêu cầu nhà nước Pháp giảm sưu thuế. Dĩ nhiên những đề nghị táo bạo ấy đều bị người Pháp gạt bỏ. Nhận thấy người Pháp không thực tâm trao trả độc lập cho người Việt Nam, vua Bảo Đại cô đơn và bất lực không xoay chuyển được t́nh thế, ông Diệm cởi áo từ quan, như là một h́nh thức phản đối và cảnh cáo người Pháp biết rằng, một nhà nho nặng ḷng với quốc gia như ông, không bao giờ có thể chịu nhục vào ḷn ra cúi người Pháp. Ra đi không có nghĩa là bỏ cuộc, mà có một ngày ông sẽ trở lại trong tư thế đối đầu trực tiếp với người Pháp.
Nuôi chí phục quốc đánh đuổi người Pháp, trở về Huế, người chí sĩ trẻ tuổi ấy sống một cuộc đời thanh bạch. Ông luôn t́m mọi cơ hội tiếp xúc với những nhà chí sĩ yêu nước khác như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu,... để trao đổi chính kiến và cùng t́m một con đường ngắn nhất giải phóng đất nước. Nhận thấy ông Diệm là một con người cách mạng nguy hiểm, là kẻ thù lợi hại, người Pháp từ năm 1944 đă có những kế hoạch bắt giữ ông. Toàn quyền Decoux lệnh cho mật thám vây bắt ông Diệm, cuộc săn đuổi ráo riết diễn ra trên những vùng đất từ Thanh Hóa, Nghệ An kéo dài vào đến Quảng Nam, Quảng Ngăi. Có điều trớ trêu là, ông Diệm không rơi vào tay quân Pháp mà lại sa vào nhà tù của Việt Minh tháng 2.1946. Ông được đưa đến gặp Hồ Chí Minh, lúc này đă là chủ tịch kháng chiến. Hồ ngọt mật khuyến dụ nhà chí sĩ tham gia chính quyền và nhận chức Bộ Trưởng Nội Vụ, đồng thời ch́a bản văn Hiệp Định Sơ Bộ dự định kư với triều đ́nh Pháp để hợp thức hóa cho quân Pháp trở lại Đông Dương. Dĩ nhiên ông Diệm đủ tài ba và thông minh để không lọt vào cái bẫy của Hồ. Hồ chỉ muốn lợi dụng uy tín của ông Diệm để cùng chia sẻ trách nhiệm trước lịch sử sau này, về cái tội rước Pháp trở lại Việt Nam. Mối thù giết người anh cả vẫn c̣n canh cánh bên ḷng, ông Diệm đă từng thề rằng trong cuộc đời ḿnh, ông không bao giờ tha thứ và hợp tác với hai kẻ thù : cộng sản và thực dân Pháp. Năm 1945, Việt Minh đă chôn sống quan tuần phủ Quảng Ngăi Ngô Đ́nh Khôi và người con trai của ông, v́ cái “tội” tuyên bố chống cộng đến kỳ cùng.
Chiến tranh Việt – Pháp lan rộng, trong toan tính lợi dụng lực lượng người quốc gia làm vây cánh đánh Việt Minh, Cao Ủy Pháp D’Argenlieu một mặt hứa... cụi với vua Bảo Đại sẽ trao trả độc lập cho Việt Nam, một mặt t́m cách tiếp xúc với ông Ngô Đ́nh Diệm, khẩn khoản mời ông nhận lập chính phủ, nhưng người đă thẳng thắn bác bỏ, v́ nhận ra sự giả dối và đểu cáng của Pháp. Người ta đă đếm ra được rằng, từ 1946 đến 1954, người Pháp đă hứa và trao trả độc đập giả vờ cho người Việt Nam không dưới, trời đất, hai chục lần. Mùa thu năm 1949, nhà chí sĩ họ Ngô quyết định ra đi thật xa, xuất dương đến những vùng đất khác của thế giới để quan sát sinh hoạt chính trị ở những nơi đó, đồng thời t́m mọi cơ hội tỏ bày nguyện vọng tự do và độc lập thật sự của dân tộc Việt Nam. Ông đă lần lượt đặt chân đến những nước Phi Luật Tân, Nhật, Hoa Kỳ, Canada, Bỉ, Thụy Sĩ,... Nhà chí sĩ đă ngụ cư ở Hoa Kỳ trong khoảng thời gian 3 năm tại tu viện Marykholl, Lakewood, tiểu bang New Jersey. Trong thời gian khói lửa ngút trời ở Việt Nam, người Mỹ đă giúp người Pháp đánh Việt Minh, song song với việc t́m kiếm một người quốc gia chân chính, chống cộng, có khả năng lănh đạo và đem đến sự ổn định cho nước Việt Nam độc lập.
Ông Diệm thường được nhớ đến như là một chí sĩ, một tổng thống xuất sắc, một nhà nho đầy hào khí, nhưng có một khía cạnh văn chương độc đáo của ông mà hiếm người c̣n nhớ. Thời đó, nhiều nhà nho Việt Nam làm cách mạng chống Pháp như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đều có để lại cho đời sau những bài thơ biểu lộ ư chí đấu tranh phục quốc, chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm cũng có lúc cảm khái sáng tác một bài thơ dạng khẩu khí như sau trong thời gian bước chân ông ghi dấu trên những nẽo đường thế giới :
Nỗi ḷng
Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
Hỏi bến : thuyền không lái cũng không !
Xe muối nặng nề thân vó Kư
Đường mây rộng răi tiếc chim Hồng
Vá trời lấp biển người đâu tá ?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông !
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi khách thuở nào trong ?
Ngô Đ́nh Diệm, 1953
Bài thơ biểu lộ tâm trạng của một người anh hùng đang bôn ba t́m con đường giải phóng dân tộc, chí cả là gươm, thao lược là đàn, con sông rộng ngăn cách là cuộc đấu tranh gian khổ. Trong lúc đất nước ngửa nghiêng, mà người anh hùng ấy vẫn c̣n bị chôn vùi trong bóng tối, như loài ngựa Kư chỉ được sử dụng để kéo xe muối, thay v́ săi vó tung hoành bốn phương, như loài chim Hồng Hộc có đôi cánh cứmg mạnh có thể bay vút lên cơi trời cao bao la, nhưng vẫn ngậm ngùi xếp cánh.
Chẳng mấy chốc mà tư cách đạo đức của một con chiên ngoan đạo, tác phong đĩnh đạc của một nhà nho Á Đông, ư chí kiên quyết của một nhà cách mạng và khí tượng dị thường của một con người kiệt liệt, đă được những nhân vật có thế lực nhất thời ấy ở nước Mỹ chú ư như các Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Mike Mansfield, Lyndon Johnson, Hubert Humphrey, giáo sư chính trị học Wesley Fishel, Hồng Y Richard Spellman, chủ tịch tối cao pháp viện William Douglas. Những cái tên này rồi đây sẽ là một cái hạt nhân thúc đẩy việc ủng hộ chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm về nước lèo lái Việt Nam và đồng bào ông. Đến như Charles Degaulle, con người từng bôn ba xứ ngưới t́m cách phục quốc như ông Diệm, dù ở tư thế đối đầu chính kiến với ông, cũng đă thành thật ca ngợi ông Diệm là một Winston Churchill của Á Đông.
Người Mỹ nhận thấy đă đến lúc họ nên có một vai tṛ tích cực tại vùng Đông Nam Á để thay thế một nước Pháp đă tàn lụi dần trong cuộc chiến tranh Đông Dương và ở những thuộc địa Trung Đông, Phi châu, nên họ chẳng c̣n thiết tha đến việc giúp người Pháp đạt được chiến thắng ở Điện Biện Phủ. Người Pháp phải ra đi để nhường sân khấu chính trị lại cho người Mỹ. Không nhận được viện trợ đầy đủ của Hoa Kỳ, quân Pháp đành cam chiến bại tại chiến trường này, đánh dấu chấm hết một thế kỷ đô hộ Việt Nam, bằng Hiệp Định Đ́nh Chiến Geneva có hiệu lực từ ngày 20.7.1954, trong đó quy định những điều khoản quan trọng:
1./ Nước Việt Nam tạm thời phân đôi ở vĩ tuyến thứ 17, lấy sông Bến Hải làm ranh giới.
2./ Trong năm 1956 sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển cử tự do giữa hai miền dưới sự giám sát của quốc tế.
3./ Trong ṿng 300 ngày, dân chúng và quân đội hai miền Bắc – Nam được tự do chọn lựa vùng đất sinh sống.
Trong bối cảnh cuộc chiến tranh cộng sản và Pháp đang đi dần đến giai đoạn quyết định, vua Bảo Đại được sự hứa hẹn của người Pháp về một nền độc lập thật sự cho Việt Nam, với điều kiện vẫn phải ở trong Khối Liên Hiệp Pháp, đă nghĩ đến việc mời một người bạn cũ có đầy đủ mọi tiêu chuẩn của một nhà lănh đạo tài ba ra lập chính phủ, là ông Ngô Đ́nh Diệm. Người Pháp không mặn mà với ư tưởng ấy, nhưng buộc phải nhượng bộ vua Bảo Đại, v́ người Mỹ đă tỏ rơ ư định ủng hộ ông Diệm. Trong thời điểm hỗn mang u ám đó, dân chúng cũng không c̣n tin tưởng vào một nhân vật nào nữa, khi mà nhiều chính phủ thân Pháp, thân Nhật đều ngă đổ nhanh chóng, từ học giả Trần Trọng Kim đến Nguyễn Văn Xuân. Với ḷng yêu nước và trái tim quả cảm, chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm bằng ḷng đứng ra lèo lái con thuyền quốc gia. Giờ đây con ngựa Kư đă có thể cất vó, con chim Hồng đă có thể tung cánh làm chuyện lấp biển vá trời. Ngày 7.7.1954, sau khi từ nước Mỹ trở về Việt Nam, với chức vụ Thủ Tướng do vua Bảo Đại bổ nhiệm, ông Diệm chính thức tŕnh diện trước quốc dân đồng bào bản thân ông và thành phần nội các gồm 15 vị bộ trưởng. Công việc đầu tiên của người thủ tướng trẻ là lệnh cho Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ không đặt viết kư bất kỳ văn kiện nào trong nghị hội Geneva, để không bị ràng buộc bất cứ điều ǵ với cộng sản và Pháp. Tuy nhiên sau khi Hiệp Định đă được kư rồi, th́ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, dưới sức ép của Hoa Kỳ, đă công nhận một số điều khoản, như cho phép bộ đội Việt Minh ở Miền Nam được tập kết ra Bắc và nhận vào Nam vô giới hạn đồng bào Miền Bắc muốn sinh sống tại miền tự do. Kết quả, có 800 ngàn người dân Miền Bắc đă được tàu biển và máy bay của Pháp, Mỹ vận chuyển vào Nam cùng với 300 ngàn binh sĩ và gia đ́nh thuộc Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
Chỉ mới nhận nhiệm sở có vỏn vẹn 13 ngày, Thủ Tướng Diệm cùng các cộng sự của ông đă xăn tay áo bắt tay ngay vào việc tổ chức tiếp đón và định cư đồng bào Miền Bắc, với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Đến đây th́ người Pháp và người Mỹ mới có thể nhận thức được tài năng của ông Diệm và anh em của ông. Cùng với 15 cộng sự viên, ngân khố trống rỗng, nhân lực thiếu thốn trầm trọng, quân đội thất tán, ḷng người c̣n ngơ ngác hoang mang, không hiểu bằng cách nào mà Thủ Tướng Diệm có thể tổ chức được một guồng máy khổng lồ và hữu hiệu đón nhận trong ṿng 10 tháng một khối lượng người đông đảo tới một triệu. Chính quyền đă phân phối thuốc men thực phẩm, phân định khu vực cư trú tạm thời hoặc vĩnh viễn cho đồng bào di cư, cùng vô số những công tác không tên khác. Bộ Tổng Tham Mưu điều động 300 ngàn binh sĩ trấn đóng khắp các quân khu bảo vệ làng thôn, song song với việc gấp rút tiếp thu những vùng Việt Minh đă rút đi về Bắc, v.v.. Nào phải có những công việc đón nhận và định cư ấy đâu, với đồng bào Miền Nam, chính phủ ông Diệm soạn thảo những kế hoạch phục hồi, tái thiết, phát triễn kỹ nghệ, chấn hưng nông nghiệp, khuyến khích và tài trợ đồng bào Miền Trung vào Nam khẩn hoang lập ấp, đẩy mạnh công tác cưỡng bách giáo dục cấp tiểu học và trung học trong hạng tuổi từ 6 đến 14, xây dựng thêm đại học tại Sài g̣n và Huế, hỗ trợ đại học Chính Trị Kinh Doanh tại Đà Lạt. Xuất thân từ Trường Hành Chánh, Thủ Tướng Diệm luôn mang mển trong ḷng hoài băo gầy dựng một thế hệ viên chức tài năng, mẫn cán và liêm khiết như ông, nên ông đă đích thân thúc đẩy việc thành lập Trường Quốc Gia Hành Chánh để cung cấp cán bộ lănh đạo đến tận cấp quận. Đất nước vẫn c̣n đang trong hiểm họa của một cuộc chiến tranh chống cộng tiềm tàng, ông Diệm đă nghĩ đến việc gởi các sinh viên Quốc Gia Hành Chánh theo học những khóa quân sự tại các quân trường lớn, để họ trở thành những hào kiệt văn vơ song toàn.
Văn ôn th́ cũng phải có vơ luyện. Để có một quân đội mạnh và nhiều cấp chỉ huy giỏi giữ ǵn bờ cơi, trấn thủ biên cương, b́nh định tặc khấu, tiểu trừ thổ phỉ, sau khi đă được quốc dân bầu làm tổng thống ngày 23.10.1956, ông Diệm đă lên Đà Lạt đặt viên đá xây dựng Trường Vơ Bị Quốc Gia, với kỳ vọng đào tạo cho đất nước những cấp chỉ huy và lănh đạo trẻ đầy tài năng, mà có thể cùng quân đội đương đầu với một cuộc xâm lấn từ phương Bắc. Ông Diệm cũng chú trọng đến việc phát triễn Trường Bộ Binh Thủ Đức, Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, các Trường Hải Quân, Không Quân, để trong một thời gian ngắn, cái xương sống vững chắc của toàn quân đội Việt Nam Cộng Ḥa đuợc h́nh thành. Từ tận đáy ḷng, Tổng Thống Diệm luôn tri ân những người lính đă hy sinh trên chiến trường, hay c̣n đang anh dũng chiến đấu dưới Lá Cờ Vàng Đại Nghĩa, ông đă cho thành lập Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu nuôi nấng và giáo dục con em binh sĩ quốc gia được thành người hữu dụng cho xă hội và cán bộ tài năng cho quân đội. Hoa Kỳ không có ngân khoản viện trợ cho Trường Thiếu Sinh Quân, chính phủ đă trích từ ngân khoản quân đội tài trợ cho hoạt động của trường. Đi xa hơn nữa, luôn luôn khoắc khoải ưu tư số phận của những con côi và góa phụ của tử sĩ , Tổng Thống Diệm suy nghĩ t́m cách nâng đỡ tinh thần và vật chất cho họ, bằng cách cho xây cất hầu hết trên toàn quốc những Trường Quốc Gia Nghĩa Tử, con em chiến sĩ trận vong được vào học miễn phí, các học sinh xuất sắc được cấp học bỗng du học ngoại quốc.
Với nhân lực bổ sung từ Miền Bắc gần một triệu người và với dân số 14 triiệu, trong đó 90% sống bằng nông nghiệp, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă có chương tŕnh cấp phát ruộng đất cho nông dân, nên trong ṿng vài năm sản lượng lúa đă lên đến nhiều chục triệu tấn. Sau một thập niên chiến tranh từ 1945 - 1955, nước Việt Nam Cộng Ḥa dưới thời chính phủ ông Diệm đă có thể bắt đầu xuất cảng nhiều triệu tấn gạo để lấy ngoại tệ. Công cuộc phát triễn kỹ nghệ, thương mại cũng được phát triễn mạnh mẽ, những mặt hàng nội hóa đă dần dần có thể cung ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước. Người Việt Nam không có tư tưởng chuộng hàng ngoại quốc, v́ phẩm chất hàng nội địa rất cao. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, chỉ trong vài năm ngắn ngủi, Tổng Thống Diệm đă đưa Việt Nam lên hàng cường quốc Đông Nam Á, trước sự ngạc nhiên cùng cực của người Mỹ và sự kính nể của các nước Á châu, nhất là những lân bang như Lào, Miên, Thái, Phi. Nước Phi có giải thưởng Tổng Thống Magsaysay dành trao tặng cho những vị nguyên thủ quốc gia tài năng của châu Á, năm 1960 đă tặng giải này cho Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm của Việt Nam Cộng Ḥa, bởi những thành tích sáng chói mà ông cùng chính phủ của ông đă tạo được. Tổng Thống Diệm đă làm một nghĩa cử cao đẹp, khi ông hiến tặng số tiền thưởng 15 ngàn mỹ kim cho ngân quỹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma cứu giúp người Tây Tạng vượt biên sang cư ngụ tại Ấn Độ. Người ta vẫn thường nhầm lẫn cho rằng Tổng Thống Diệm bênh vực và giành nhiều ưu tiên cho Công giáo Việt Nam, nhưng trong thực tế th́ người đă từng mạnh mẽ bác bỏ nhiều yêu sách quá đáng từ giới này, một số linh mục đă rất buồn phiền thất vọng.
Tổng Thống Mỹ Eisenhower vốn không mấy tin tưởng và mặn mà với Tổng Thống Diệm, nhưng trước những thành quả hiển nhiên đó, ông đă phải cân nhắc lại cách suy nghĩ của ḿnh. Chỉ với không quá 400 triệu mỹ kim viện trợ kinh tế hàng năm, một con số khiêm tốn nếu so với hàng tỉ mỹ kim của chương tŕnh Marshall tái thiết Đức và Nhật, hai nước này phải cần đến 20 năm để vươn lên, th́ thành quả công việc của chính phủ Ngô Đ́nh Diệm trong chín năm (1954 – 1963) phải nói là kỳ diệu, nhưng rất ít được các sử gia Tây phương chú ư. Vừa phải đương đầu với cuộc xâm lăng của đại khối cộng sản quốc tế do Nga, Hoa dẫn đầu với đạo quân tiền phong là binh đội Bắc Việt, chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vừa phải cố gắng phát triễn nền kinh tế đất nước. Trong lúc Việt Nam Cộng Ḥa nỗ lực ngăn chống đạo âm binh cộng sản, th́ những nước láng giềng như Thái, Mă Lai, Phi, Nam Dương, Đại Hàn, Nhật Bản được thảnh thơi nhàn nhă tập trung tài nguyên, vật lực kiến tạo đất nước trở thành những con rồng, con hổ Á châu. Đặc biệt, Nhật Bản là nước được hưởng lợi rất nhiều và phất lên như diều gặp gió từ cuộc chiến tranh Việt Nam hai mươi năm, nhưng là nước nhận người Việt tị nạn ít nhất. Hành động hiếp đáp, giết chóc, hăm hiếp, xua đuổi của quân đội và viên chức các nước Thái, Mă, Phi, Nam Dương nhắm vào người Việt tị nạn là hành động bội bạc với dân tộc nước ân nhân của họ. Chính dân tộc những nước ấy phải tri ân dân tộc Việt Nam đă đổ máu xương làm bức tường thành ngăn chống làn sóng cộng sản.
Ngày nay, trong thập niên đầu của thế kỷ thứ 21, không c̣n bức tường thép Việt Nam Cộng Ḥa nữa, các nước Đông Nam Á đă xun xoe, bợ đỡ cộng sản Việt Nam để mong chúng cho được yên thân. Các chính quyền Mă Lai, Nam Dương khiếp sợ Việt cộng, đă cho đập bỏ những bia tưởng niệm thuyền nhân trên những đảo xưa. Nhưng thí dụ rơ nét nhất là việc tư pháp Thái Lan trong tháng 9.2006 vừa qua, bất chấp đạo lư và công lư, đă chịu khuất nhục, khom lưng tuân lệnh cộng sản Hà Nội cho dẫn độ anh hùng Lư Tống về Việt Nam thụ án. Không c̣n Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, trước sức ép kinh khủng của Trung Cộng, cái gọi là Quân Đội Nhân Dân của Hà Nội đă run sợ mất mật, chịu cúi đầu quy phục làm bọn hàng thần lơ láo cho kẻ thù Bắc phương. Mao Trạch Đông, Chủ Tịch Trung Cộng bấy giờ có lần t́m cách liên lạc với Việt Nam Cộng Ḥa đề nghị hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ, nhưng Tổng Thống Diệm đă thẳng thắn từ chối.
Có ít nhất ba nhân vật quan trọng Hoa Kỳ đóng góp vào sự hưng thịnh của nước Việt Nam Cộng Ḥa non trẻ trong những năm đầu thập niên 1950. Thứ nhất, Trung Tướng O’ Daniel, Tư Lệnh Phái Bộ Quân Viện Hoa Kỳ tại Việt Nam MAAG (Military Assisistance Advisory Group) đặc trách giúp đỡ xây dựng Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa hùng mạnh. Những người kế nhiệm Tướng O’Daniel theo thứ tự là Harkins, Westmoreland, Abrams và Weyand. Thứ hai, Trung Tướng Lawton Collins, phái viên đặc biệt của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đặc trách quan sát và thẫm định t́nh h́nh Việt Nam. Thứ ba, Đại Tá Không Quân Edward Lansdale, chỉ huy trưởng phân bộ CIA (Central Intelligence Agency) tại Việt Nam, cùng với một cộng sự viên rất đắc lực là Trung Tá Lucien Conein, một chuyên viên CIA chuyên trách tổ chức những lực lượng bí mật nhảy toán phá hoại Miền Bắc, viễn thám sang Lào. Về sau, Conein đă là nhân vật tiếp nhận kế hoạch đảo chánh Tổng Thống Diệm của nhóm sĩ quan VNCH, nên c̣n có thêm biệt danh “Chuyên viên đảo chánh”. Trong số những yếu nhân này, th́ Lansdale tỏ ra là con người nhiệt t́nh và có rất nhiều thiện cảm vơi ông Diệm hơn cả. Giữa hai người đă h́nh thành một t́nh bạn rất sâu sắc, mà ông Lansdale đă có nhiều dịp thể hiện, bằng cách giúp ông Diệm vượt qua được nhiều cơn sóng gió.
Trung Tướng Collins từng có mối quan hệ thân thiết với tướng Paul Ely, Cao Ủy Pháp tại Việt Nam, trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Ely dĩ nhiên không thích ông Diệm, v́ ông Diệm đang t́m cách tống khứ 150 ngàn quân Pháp ra khỏi Miền Nam sau Hiệp Định Geneve 1954, trong khi Pháp muốn nấn ná ở càng lâu càng tốt, nên đă lời ra tiếng vào nói xấu ông Diệm để lung lạc niềm tin của Collins. Collins là một con người hách dịch, cao ngạo. Ông ta tưởng rằng hào quang chiến thắng của Mỹ ở trong thế chiến có thể đè bẹp và khuất phục được vị tổng thống của một tiểu quốc, nhưng trong rất nhiều lần, Tổng Thống Diệm đều rất cứng rắn bảo vệ chủ quyền và sự tự quyết của quốc gia. Mọi việc thảo luận giữa Collins và ông Diệm đều diễn ra trong một bầu không khí b́nh đẳng tối đa có thể được. Với Tổng Thống Diệm, một con người Uy Vũ Bất Năng Khuất, anh đến đây giúp tôi với tư cách là bạn, chứ không phải là ông chủ. Một nhân viên cao cấp dưới quyền Collins đă phản ảnh chính xác thái độ ngạo mạn của Collins, ông ta trả lời ông Trần Trung Dung, Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Pḥng VNCH (chức vụ bộ trưởng do Tổng Thống Diệm kiêm nhiệm), khi ông Dung đề nghị hăy để cho VNCH tự do tổ chức quân đội theo mô thức Việt Nam : “Người nào trả tiền, th́ người đó quyết định”. Lansdale là một cái đệm đứng giữa dung ḥa mọi khuynh hướng. Chính ông đă xác định với Tổng Thống Eisenhower, rằng Tổng Thống Diệm là con người của đại cuộc, của thời thế, ngoài ông Diệm ra, không c̣n có ai có khả năng lănh đạo Việt Nam. Eisenhower đă tin và mời Tổng Thống Diệm sang thăm Hoa Kỳ với tư cách quốc khách. Tổng Thống Eisenhower đă đích thân ra tận chân cầu thang phi cơ niềm nở bắt tay Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, cùng duyệt hàng rào danh dự. Tổng Thống Diệm được Quốc Hội Mỹ mời đến thuyết tŕnh về t́nh h́nh Việt Nam. Tổng Thống Diệm đă phát biểu :”Giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có những sự khác biệt sâu sắc về chủng tộc, tập quán, khái niệm chính trị, tầm nh́n và triết lư. Tôi hy vọng rằng chúng ta có thể bắt được nhịp cầu giữa hai nền văn hóa Đông phương và Tây phương”.
Để đạt đến được đỉnh cao vinh quang ấy trong đời, Tổng Thống Diệm không phải là đă không trải qua những nỗi cay đắng của cô đơn và những biến cố cực nguy hiểm đến tính mạng, thanh danh và sự nghiệp chính trị của ông trong những năm đầu tiên trở về nước, chỉ với hai bàn tay trắng cùng một tấm ḷng, giữa một trùng vây các thế lực sứ quân và thù địch. Trong thời điểm mập mờ của năm 1954, t́nh h́nh chính trị tại Miền Nam rất rối rắm, v́ chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Đại không có thực lực, chỉ dựa vào Pháp, nhưng bản thân người Pháp sau chiến bại Điện Biên Phủ và phong trào đ̣i độc lập ở các nước Phi châu như Algeria, Maroc, đă gây ra rất nhiều nan đề làm người Pháp lúng túng. Quân Pháp cũng không c̣n đầy đủ sức mạnh để kiểm soát hay khống chế nhiều thế lực nổi lên ở Miền Nam, một h́nh ảnh tương tự như nạn sứ quân thời cuối thế kỷ thứ 10 khi, Ngô Vương Quyền đă tạ thế. Ông Diệm về nước trong bối cảnh hỗn mang đó, ông tiếp thu dinh Thủ Tướng, được đặt tên là Dinh Gia Long, tọa lạc trên đường Gia Long, chỉ với vỏn vẹn 12 người lính bảo vệ, và chỉ có thế. Lansdale đă từng nhiều lần tự do đi vào pḥng làm việc của Thủ Tướng Diệm mà chẳng có ai ngăn cản hay xét hỏi ǵ cả. Khi ông Diệm đă được quốc dân bầu làm tổng thống và chính thức làm việc trong Dinh Gia Long năm 1955, Lansdale bỏ công qua Phi nhờ Tổng Thống Magsaysay gởi chuyên viên quân sự là Đại Tá Arellano sang Sài G̣n giúp thành lập một tiểu đoàn pḥng vệ phủ tổng thống. Tiểu đoàn này sau được nâng lên thành Liên Đoàn Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống, với những binh sĩ ưu tú được tuyển chọn từ những đơn vị xuất sắc của quân đội. Thành Cộng Ḥa là một ṭa nhà nhiều tầng khá kiên cố nằm gần Dinh Gia Long, đă được dùng làm nơi trú ngụ của sĩ quan và binh sĩ Liên Đoàn, nên mỗi lần có đảo chánh, th́ quân đảo chánh phải khống chế hay triệt hạ cho được Thành Cộng Ḥa.
Những vị thủ tướng tiền nhiệm, chỉ hữu danh nhưng vô thực, ít quyền lực và không có quân đội yểm trợ, ông Diệm kiên quyết không dẫm lên vết xe đỗ của họ. Nhưng bắt đầu từ cái ǵ và dựa vào lực lượng nào. Thật may mắn cho Thủ Tướng Diệm, hầu hết các chiến sĩ thuộc Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thời Bảo Đại di cư từ Bắc vào như Nhảy Dù, Bộ Binh, Commandos, đă tỏ ḷng trung thành với tân Thủ Tướng, trong đó có nhiều chiến sĩ người thượng du như Mường, Thái, đặc biệt là Nùng. Dựa trên nền tảng đó, Thủ Tướng Diệm quyết định thanh toán các thế lực sứ quân để gom giang sơn dân tộc về một mối. Đối thủ của ông là những ai. Câu trả lời sẽ làm người đời sau sửng sốt. Rất nhiều, gần đạt con số 12 sứ quân thời ngài Đinh Bộ Lĩnh.
Thứ nhất: Thế lực mạnh nhất trong phe quốc gia đối đầu với Thủ Tướng Diệm lại chính là Quốc Trưởng Bảo Đại. Ông Bảo Đại là một người có ḷng với tương lai của đất nước, nhưng khốn nỗi từ thuở nhỏ ông đă bị người Pháp nhồi nhét cho một nền giáo dục vong bản, nếp sống xa hoa, thượng lưu vương giả, nên ít nhiều ǵ th́ tư tưởng của ông đă chịu rất nhiều ảnh hưởng của Pháp. Bảo Đại sinh năm 1913 với tên Nguyễn Vĩnh Thụy, từ lúc biết nói biết hiểu th́ người Pháp đă cho vú nuôi Pháp chăm sóc và thầy dạy người Pháp giáo dục theo kiểu Pháp. Năm ông 8 tuổi, Pháp đem ông sang Paris để vị hoàng tử trẻ ấy không c̣n cơ hội tiếp túc với nền văn hóa truyền thống Việt Nam và ư chí phục quốc nữa, rút kinh nghiệm từ vị vua trẻ 16 tuổi Duy Tân trước đó. Hoàng đế Khải Định, cha ông, mất năm 1925, nhưng măi đến năm 1932 Vĩnh Thụy mới được Pháp đưa về lên ngôi, lấy đế hiệu là Bảo Đại, để bảo đảm rằng vị tân vương thục sự là một người thân Pháp toàn tâm toàn ư. Trong thời gian ở Pháp, Vĩnh Thụy được người Pháp cấp cho lương bỗng hàng năm rất hậu lên đến hàng triệu đồng Đông Dương, cho tương xứng với cuộc sống xa hoa của một đế vương, dụng ư muốn làm hư hỏng vị vua trẻ.
Tuy mang nhiều tai tiếng ăn chơi, đàn đúm trong những nhà chứa, hộp đêm sang trọng, nhưng tiếng gọi tha thiết của cố hương vẫn tiềm tàng trong tận đáy tim, vua Bảo Đại đă cố gắng trong khả năng rất hạn chế của ḿnh, làm được nhiều việc có ư nghĩa. Chính phủ của Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân dưới quyền Quốc Trưởng Bảo Đại trong năm 1946 đă chọn được bài quốc ca Tiếng Gọi Công Dân và lá quốc kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ làm biểu tượng thiêng liêng của nước Việt Nam độc lập. Hai biểu tượng thiêng liêng này vẫn c̣n tồn tại măi đến ngày nay trong ḷng người dân Việt.
Quốc Trưởng Bảo Đại chọn ông Ngô Đ́nh Diệm làm thủ tướng, nhưng vẫn e dè tài năng và quyền lực của ông Diệm sẽ lấn át ông. Nhưng khốn nỗi, Bảo Đại dành quá nhiều thời gian ngụ cư ở Pháp nhiều hơn là về Việt Nam. Chọn ông Diệm, Quốc Trưởng Bảo Đại đă đặt hai điều kiện tiên quyết : Giành lại độc lập cho nước nhà và kiến thiết Việt Nam hùng mạnh. Nếu ông Diệm không làm được hai việc đó th́ hăy trả chính quyền lại cho ông. Thủ Tướng Diệm đă long trọng thề với Quốc Trưởng, ông sẽ làm được. Chuyện này đă do chính ông Bảo Đại kể lại trong cuốn hồi kư Dragon d’Annam (Con Rồng Nước Nam). Ông Diệm càng đạt được nhiều thành quả tốt đẹp th́ Bảo Đại càng cảm thấy ḿnh kém thế, v́ vậy ông đă ủng hộ Trung Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia và nhóm B́nh Xuyên, nhiều lần t́m cách lật đổ ông Diệm. Bởi ông Bảo Đại không c̣n giúp ích được ǵ cho nước nhà, nhân có một chỉ dụ của ông ngày 19.4.1956 từ bên Cannes lệnh cho Thủ Tướng Diệm phải sang tŕnh diện, với ư định sẽ băi chức Thủ Tướng của ông.
Một cuộc Trưng Cầu Dân Ư đă được tổ chức trong ngày 23.10.1956 do Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng gồm nhiều nhân sĩ của các đảng phái và giáo phái ủng hộ Thủ Tướng Diệm đề xuất. Bản thân Thủ Tướng cũng khôn glường được sự tiến triễn bất ngờ của t́nh thế, ông đă vô cùng sửng ost khi buổi chiều ngay 20.4.1956, sau 7 tiếng đồn ghồ thảo luận căng thẳng, Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng đă mời ông Diệm đến thông báo quyết định truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại. Là một sĩ phu nặng ḷng trung quân và ái quốc, một con người từng nghiềm ngẫm nghĩa lư Tứ Thư, Ngũ Kinh, với những tấm gương trung liệt trong đó, Thủ Tướng Diệm chưa bao giờ dám có ư nghĩ phạm thượng với vua Bảo Đại. Nhưn ghội đồng biết rơ rằng, nếu Thủ Tướng đi sang Pháp tŕnh diện ông Bảo Đại, th́ chuyến đi đó lành ít dữ nhiều và có thể vĩnh viễn biệt xứ. Hơn 5 triệu người dân đi bầu. Kết quả, có đến 98,2% số phiếu ủng hộ ông Diệm trong cương vị Tổng Thống và đồng ư cho Quốc Trưởng Bảo Đại giải nhiệm. Phía Hoa Kỳ không được hài ḷng lắm với tỉ lệ quá cao như thế, nó có vẻ không thực, hy vọng khoảng 70% là lư tưởng nhất. Ngày 26.10.1955, ông Diệm tuyên thệ nhậm chức tổng thống, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng Ḥa, cải danh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa, đồng thời thông báo trước quốc dân sẽ tổ chức bầu cử quốc hội vào đầu năm 1956. Người dân thời ấy và các thế hệ sau nợ Tổng Thống Diệm danh xưng đầy hănh diện : Được làm công dân của nước Việt Nam Cộng Ḥa. Những người lính chiến đấu dưới Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ nợ vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao danh xưng lắm kiêu dũng : Người Lính Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa.
Ngày 26.10.1956, Quốc Hội đầu tiên của Việt Nam thông qua Bản Hiến Pháp, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm long trọng ban hành với lời xác tín : Sau Hiến Pháp c̣n có tôi ! Ngụ ư người kiên quyết bảo vệ Hiến Pháp và luật pháp quốc gia. Nền dân chủ sơ khởi của nước cộng ḥa non trẻ bắt đầu từ đấy.
Thứ hai : Trung Tướng Nguyễn Duy Hinh, nguyên là Trung Tá Không Quân trong quân đội Pháp, cưới vợ Pháp và nhập tịch Pháp, cha ông là cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm rất thân Pháp. Quốc Trưởng Bảo Đại đă cất nhắc Trung Tá Hinh lên Thiếu Tướng, giữ chức vụ tư lệnh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với dụng ư củng cố vị thế của ông. Một thời gian sau, ông Hinh được thăng Trung Tướng. Trong thời điểm chân ướt chân ráo mới về đến quê hương, ông Diệm buộc phải chấp nhận ông Hinh. Người Mỹ càng hậu thuẫn ông Diệm bao nhiêu, th́ người Pháp càng chơi tṛ ném đá dấu tay phá thối Thủ Tướng Diệm, bằng cách xúi dục Trung Tướng Hinh làm phản. Ông Hinh nhiều lần cho xe thiết giáp và bộ binh đến bao vây dinh Thủ Tướng để thị uy, nhưng ông Diệm có Tướng Collins và Đại Tá Lansdale bảo vệ. Khi quân đội trung thành với ông Diệm đem quân đến bao vây trả đũa, th́ Bộ Tư Lệnh Pháp chậm trễ việc cung cấp tiếp liệu, xăng nhớt di chuyển, thậm chí thiết lập nhiều nút chận gây khó khăn cho quân đội. Có lần Lansdale đă mời nhiều sĩ quan thân ông Hinh sang Manila, thủ đô Phi Luật Tân du hí, để tách họ ra khỏi ông Hinh. Đồng thời, chính phủ Hoa Kỳ trong tháng 10.1954 gửi công hàm báo cho người Pháp biết, Hoa Kỳ sẽ viện trợ trực tiếp cho Việt Nam không qua trung gian Pháp nữa. Người Pháp yếu thế dần, không c̣n hung hăng hỗ trợ ông Hinh tạo phản nữa.
Tháng 11.1954, dưới sức ép của người Mỹ lên người Pháp, Quốc Trưởng Bảo Đại ra chỉ dụ băi chức Trung Tướng Hinh, ông Diệm bổ nhiệm Thiếu Tướng Lê Văn Tỵ thay thế, sau này ông được thăng lên đến Đại Tướng. Tướng Hinh ngậm ngùi lên phi cơ về Pháp. Thiếu Tướng Tỵ bắt tay ngay vào việc nhận bàn giao quyền chỉ huy hoàn toàn quân đội Việt Nam từ người Pháp, hiệu lực từ ngày 11.2.1955. Quân Đội Quốc gia Việt Nam rẽ sang một giai đoạn mới và được cải danh thành Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa sau ngày 26.10.1955.
Thứ ba: Là lực lượng quân đội Pháp c̣n khoảng 150 ngàn người cứ chùng ch́nh măi không chịu hồi hương. Thủ Tướng Diệm căm giận lắm, đó là cái mối quốc nhục mà ông thề sẽ rửa trước anh linh của tiền nhân tiên liệt. Thực dân Pháp muốn có một chính phủ thân Pháp để duy tŕ thế lực Pháp ở Việt Nam. Pháp có nhiều nguồn lợi ở Việt Nam như các đồn điền trà, cà phê, cao su. Nhiều chủ đồn điền vẫn được chính quyền Việt Nam hai thời cộng ḥa ưu đăi, không động chạm ǵ đến công cuộc làm ăn của họ, nhưng những ngựi này thậm thụt đóng thuế, cung cấp tin tức cho quân cộng sản Bắc Việt và Việt cộng, dung chứa chúng trong những khu rừng cao su bạt ngàn, làm một mũi dao lúc nào cũng sẵn sàng thọc sâu vào tận trái tim nước Việt Nam Cộng Ḥa. Nhưng với sự thất bại của Bảo Đại, Tướng Hinh, Bảy Viễn, sư quy phục của các giáo phái trước sự kiên quyết của Thủ Tướng Diệm, lại thêm ngân khoản tài trợ của Hoa Kỳ đă cắt đứt, người Pháp thấy không c̣n hy vọng ǵ, những người lính Pháp cuối cùng đă lục tục xuống tàu về nước ngày 28.4.1956, đánh dấu chấm hết một thế kỷ thống trị của người Pháp. Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, sau mấy năm đấu trí đấu lược với thực dân Pháp, đă thực sự tống xuất được bọn chúng ra khỏi nước Việt Nam. Giờ đây, nước Việt Nam Cộng Ḥa đă được hoàn toàn độc lập, uy thế của chính phủ ông Diệm lừng lẫy trên trường quốc tế, hầu hết các quốc gia không cộng sản, kể cả các nước Ả Rập đều chính thức công nhận Việt Nam Cộng Ḥa và thiết lập quan hệ ngoại giao. Charles Degaulle, Tổng Thống Pháp rất cay cú, nhưng buộc phải thực ḷng ngợi ca Tổng Thống Diệm là “Winston Churchill của Á châu”, ngụ ư con người kiệt xuất đă giành được độc lập cho đất nước.
Thứ tư: Là lực lượng B́nh Xuyên của Tướng Lê Văn Viễn. Được sự đỡ đầu và trả lương ngầm của Pháp, lực lượng B́nh Xuyên chiêu mộ được đến 25 ngàn thủ hạ, trong đó có 1,500 tay súng. B́nh Xuyên là một tổ chức tột ác, thổ phỉ, một cái ǵ đó gần giống như Mafia của Ư, v́ nó kinh doanh ngành cờ bạc và nhà chứa, ngang ngược không coi luật pháp quốc gia ra ǵ hết. Từ khởi đầu, th́ lực lượng B́nh Xuyên do một người anh chị tên Ba Dương lănh đạo, đă kết hợp với các lực lượng Ḥa Hảo và Cao Đài kháng chiến chống cả Pháp và Việt Minh. Ba Dương bị Tướng Nguyễn B́nh của cộng sản giết chết, quyền chỉ huy rơi vào tay Lê Văn Viễn. Người Pháp khuyến dụ Bảy Viễn đem lực lượng quy thuận, đổi lại Pháp ban cấp cho Bảy Viễn bổng lộc và quyền lợi rất hậu.
Năm 1952, Bảo Đại phong cho Lê Văn Viễn, tự Bảy Viễn, cấp bậc Thiếu Tướng để làm vây cánh và có ư định sẽ đưa Bảy Viễn lên làm Thủ Tướng sau này. Nhà nước Pháp cũng ân thưởng Viễn huân chương cao quư Bắc Đẩu Bội Tinh. Tai sao ? Bảy Viễn và B́nh Xuyên làm chủ nhiều cơ sở tài chánh lớn như các ṣng bài Đại Thế Giới dành cho lớp thượng lưu giàu có Pháp và Việt, như cỡ công tử Bạc Liêu và công tử Mỹ Tho chẳng hạn, ṣng bài Kim Chung dành cho giới thấp hơn và giai cấp b́nh dân lao động. Có vô số người đă bán vợ con làm nô t́ đĩ điếm, mất nhà cửa, sạt nghiệp, tự tử hay hóa điên v́ hai ṣng bài tội lỗi này. Chưa hết, nằm gần bên các ṣng bài là các khu nhà chứa đủ mọi hạng, từ deluxe hạng sang đến hạng hèn, nổi tiếng nhất là nhà chứa B́nh Khang ở Vườn Lài. Công an và binh lính B́nh Xuyên kiểm soát những trục lộ huyết mạch Sài G̣n – Vũng Tàu, Sài G̣n – Rừng Sát, thu thuế các ḷ mổ thịt. Nguồn tài chính lớn nhất của Bảy Viễn là việc buôn bán thuốc phiện lậu chở từ vùng Tam Giác Vàng qua Lào, rồi vào Việt Nam, Bảy Viễn thầu hết. Bảy Viễn cung ứng cho ông Bảo Đại hàng tháng 500 ngàn đồng và bộ máy thống trị Pháp một số tiền lớn mỗi ngày lên đến 100 ngàn đồng, nhưng bù lại hắn cho người Hoa Macau đấu thầu và trả cho hắn mỗi ngày 400 ngàn đồng tiền Đông Dương. Dẫu sao th́ cũng có it nhiều “huyền thoại” về Bảy Viễn. Có lẽ muốn hù dọa thiên hạ, bên cạnh những nhà điều chế tinh chất ma túy, Bảy Viễn cất nhiều chuồng nuôi cá sấu đến 12 con. Bên ngoài pḥng ngủ của hắn có một con beo gấm dữ dằn được cột bằng một sợi dây xích dài. Trên ban công biệt thự, những con trăn gió ḅ lển nghển thấy mà... ghê. Chưa hết, có một con cọp mua từ xứ Siberia bên Nga hầm hừ nằm trong một cái chuồng sắt, mà khi cần th́ từ bên trong ngươi ta có thể bấm nút điện cho cửa chuồng kéo lên, ô hô, thế là con cọp phóng ra ngoài, kẻ lạ đột nhập toan tính ám sát Bảy Viễn hả, tha hồ mà chạy vắt gị lên...ót nhé. Người ta đồn rằng có người trông thấy quần áo và xương người trong lồng cọp nữa, thế có ghê không chứ.
Một con người đạo đức bài phong kiến đả thực dân như Thủ Tướng Diệm đâu có thể chấp nhận một cái ung nhọt xấu xa tồn tại giữa ḷng thủ đô. Biết chắc Hoa Kỳ đă cắt ngân khoản, Pháp không có tiền trả lương cho quân B́nh Xuyên, Thủ Tướng Diệm quyết định đánh tiêu diệt bọn mafia thổ phỉ. Nhưng trước hết, ông cần thêm lực lượng của các giáo phái, càng nhiều càng tốt. Các Tướng Tŕnh Minh Thế, Nguyễn Thành Phương của Cao Đài, Trần Văn Soái của Ḥa Hảo đă xin quy phục chính quyền và đem về nhiều ngàn quân. Thiếu Tướng Thế được vinh thăng Trung Tướng, ông là con người tuổi trẻ tài cao, năng nổ, nhiệt thành trong chiến dịch tiêu diệt B́nh Xuyên. Với sự hỗ trợ ngầm của quân Pháp, Bảy Viễn nhiều lần ngỗ ngáo đem thiết giáp và quân sĩ bao vây dinh Thủ Tướng. Nhưng một tên vô lại như hắn đâu có phải là đối thủ của một con người kiệt liệt như Ngô Đ́nh Diệm. Hai tiểu đoàn Dù của Thiếu Tá Liên Đoàn Trưởng Đỗ Cao Trí đă vây đánh tan nát bản doanh của bọn thổ phỉ mafia nằm trên đường Trần Hưng Đạo. Quân thổ phỉ B́nh Xuyên chỉ giỏi húng hiếp dân lành, nhưng lại vô cùng hèn nhát trước các chiến sĩ quốc gia, chúng đă quăng súng bỏ chạy tán loạn. Bảy Viễn cùng Lại Văn Sang, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát, tay chân thân tín nhất của hắn nhanh chân lủi trốn vào Rừng Sát phía Tây Bắc Sài G̣n, rồi từ đó được tàu Pháp ủi vào đưa về mẫu quốc.
Đại Tá Dương Văn Minh, tự Minh Cồ (Big Minh), người hùng trong chiến dịch càn quét Rừng Sát, đă t́m thấy một thùng phuy giấy bạc Đông Dương của B́nh Xuyên. Minh được vời về Sài G̣n cho vinh thăng Thiếu Tướng, đảm nhiệm chức vụ Tổng Trấn Sài G̣n, dẫn đầu đoàn quân trong buổi duyệt binh chiến thắng rất hùng tráng tại thủ đô. Minh dấu nhẹm chuyện chiếc thùng phuy, nhưng tin phong phanh đến tai chính phủ ông Diệm, nhưng Tổng Thống Diệm cho xếp hồ sơ. Thiếu Tướng Minh lần lượt được chính phủ tín nhiệm trong những chức vụ chỉ huy cao nhất trong quân đội, như được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Các chiến dịch Hoàng Điệu 1954, chiến dịch Nguyễn Huệ 1955, chiến dịch Thoại Ngọc Hầu 1956, Tư Lệnh Liên Khu Thủ Đô năm 1957, Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Hành Quân 1961. Đầu năm 1963, Tổng Thống Diệm vinh thăng Trung Tướng và bổ nhiệm Tướng Minh chức vụ Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thốngï, một công việc ngồi chơi xơi nước. Tướng Minh để tâm thù hận ông Diệm từ đấy. Mối thù càng sâu đậm hơn, khi ông Diệm bổ nhiệm bốn vị Tư Lệnh Quân Khu, Minh chẳng nắm được vùng nào cả. Các Tư Lệnh Quân Khu thời ông Diệm trong năm 1962 – 1963 như sau :
Quân Khu I : Thiếu Tường Đỗ Cao Trí
Quân Khu II : Trung Tướng Nguyễn Khánh
Quân Khu III : Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, kiêm Tổng Trấn Sài G̣n – Gia Định
Quân Khu IV : Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao
Ngay cả cái Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu cũng lọt vào tay Thiếu Tướng Trần Văn Đôn, Minh chả được xơ múi ǵ. Được sự chấp thuận ngầm của Thái Thú Henry Cabot Lodge và Hoa Thịnh Đốn, Minh lệnh riêng cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung giết chết Tổng Thống Diệm và bào đệ là ông Nhu trong ḷng chiếc thiết vận xa M 113 trong ngày 2.11.1963. Là đảng viên Đại Việt, Nhung c̣n có mối thù riêng với Tổng Thống Diệm, v́ ông Diệm đă cho quân đội tấn công hủy diệt chiến khu Ba Ḷng ở Miền Trung của lực lượng Đại Việt. Nhưng đó là chuyện đau ḷng sau này. Nếu ông Diệm bổ nhiệm Tướng Trí làm Tư Lệnh Quân Khu III, rất có thể Tướng Trí vẫn giữ ḷng trung thành, v́ Đại Tá Cao Văn Viên cùng binh chủng Nhảy Dù như ông nhất định không phản, quân đảo chánh sẽ thất bại. Nhưng đó là số trời, định mệnh oan nghiệt đă dành sẵn chén đắng cho người. Những năm đầu thập niên 1960, khi chiến sự bùng nổ giữa quân Mặt Trận Giải Phóng và Quân Đội VNCH, Minh thậm thụt tiếp xúc mấy lần với Tướng Việt cộng Dương Văn Nhựt, là em trai của ông ta, An Ninh Quân Đội VNCH biết hết, nhưng Tổng Thống Diệm không muốn làm lớn chuyện, ông cho xếp hồ sơ lại, v́ Tướng Minh chưa có dấu hiệu phản loạn. Đó là sai lầm lớn nhất trong đời của Tổng Thống Diệm, mà ông sẽ phải trả giá đắt bằng chính mạng sống của ḿnh.
Cuối tháng 4.1955, tàn quân B́nh Xuyên co cụm về cố thủ bên kia cầu Tân Thuận trong Chợ Lớn. Trung Tướng Thế quả cảm tiến lên phía chân cầu điều động binh sĩ, nhưng một viên đạn bắn lén oan nghiệt đă giết chết ông. Một tên xạ thủ núp dưới chân cầu cách Tướng Thế khoảng mười mét bắn một viên đạn trúng màng tang phải trổ ra mắt trái. Tương Thế ngă ra chết tức khắc. Chiều ngày hôm sau, khi t́nh h́nh chiến sự tạm lắng dịu, Thủ Tướng Diệm cùng ông Nhu đến viếng xác Trung Tướng Thế. Thủ Tướng Diệm đă ôm thây người hào kiệt trẻ khóc lớn. Nỗi đau mất một cánh tay, một cột trụ chống đỡ trong thời buổi loạn binh, ông Diệm ngă ra ngất xỉu. Đến ngày 3.5.1955 th́ quân B́nh Xuyên hoàn toàn tan ră, một số đầu hàng, một số chạy thụt mạng sang Miên trốn, phần khác ẩn tránh trong các lực lượng giáo phái. Ngay lập tức, Thủ Tướng Diệm cho đóng cửa những nơi chốn tội ác, trả lại cuộc sống trong sáng và an lành cho người dân thủ đô. Dưới chín năm cầm quyền của ông, Tổng Thống Diệm không cho phép một h́nh thức sa đọa trụy lạc nào được tồn tại.
Sau chiến công này, tài năng lănh đạo của Thủ Tướng Diệm đă được xác định. Người Mỹ và thế giới đồng công nhận rằng ông Diệm chính là nhà lănh đạo duy nhất không ai có thể sánh nổi tại Việt Nam. Viện trợ Hoa Kỳ bắt đầu hào phóng đổ vào, dần lên đến 500 triệu mỹ kim mỗi năm. Dân chúng Việt Nam dần dần quen thuộc với những loại hàng hóa và thực phẩm mang nhăn hiệu hai bàn tay siết chặt, tượng trưng cho mối quan hệ thân t́nh giữa người Mỹ và người Việt Nam.
Back to top
|