VietBF - View Single Post - Trang của lính
View Single Post
Old 03-19-2019   #398
hoanglan22
R8 Vơ Lâm Chí Tôn
 
hoanglan22's Avatar
 
Join Date: Apr 2011
Posts: 16,388
Thanks: 21,683
Thanked 38,133 Times in 12,871 Posts
Mentioned: 635 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 7243 Post(s)
Rep Power: 69
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11hoanglan22 Reputation Uy Tín Level 11
Default Nguyễn Văn Đông & Một Thoáng Xuân Phai

“Chiều nay có một loài hoa vỡ bên trời
Đợi mùa Xuân sang tô… màu nhớ”

Trong hai thập niên (1954-1975) nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phục vụ trong QLVNCH đă nổi tiếng nhiều ca khúc trữ t́nh, đặc biệt với ảnh người lính giữa thời chinh chiến. Trải qua nhiều thập niên, những t́nh khúc của ông từ lúc sáng tác cho đến nay ở hải ngoại vẫn làm rung động trái tim khi thưởng thức.

Nguyễn Văn Đông là một nhạc sĩ thành danh của ḍng nhạc t́nh ở Sài G̣n trước 1975, tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng. Ông c̣n một vài bút danh khác như Phượng Linh, Phương Hà, Đông Phương Tử, V́ Dân, Hoàng Long Nguyên…

Trong bài viết của Trường Kỳ “Nguyễn Văn Đông: Giữa Binh Nghiệp & Âm Nhạc” đề cập đến cuộc đời binh nghiệp:
“Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận Nhất, Sài G̣n. Nguyên quán ông bà, cha mẹ ông ở huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Thuở nhỏ ông theo học trường Huỳnh Khương Ninh ở Đa Kao. Khi đất nước gặp phải những biến động lớn lao vào năm 1945, gia đ́nh ông bị liệt vào thành phần địa chủ, cường hào nên lâm vào cảnh khuynh gia bại sản, gia đ́nh ly tán. Do đo, tuổi thơ của ông là người con duy nhất trong gia đ́nh cũng bị vùi dập để cuốn theo thời cuộc lúc bấy giờ.

Sau khi trường Trung Học Hùynh Khương Ninh đóng cửa, ông tự ư xin gia nhập trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Đó cũng là nơi đào tạo nhiều vị tướng lănh tài ba của Quân Đội VNCH. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đă trải qua 5 năm theo học ở ngôi trường này.. Và chính tại đó ông đă được học nhạc và văn hóa với những giáo sư người Pháp có thực tài. Đó là những giảng viên của Viện Âm Nhạc Quốc Gia Pháp được cử về trường Thiếu Sinh Quân giảng dạy. Trong thời gian ông theo học tại trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, Nguyễn Văn Đông là một thành viên của Ban Quân Nhạc Thiếu Niên, khi mói lên 15 tuổi: “Trường Thiếu Sinh Quân có riêng một đoàn quân nhạc trên 40 người có tầm vóc của người lớn, nhưng lại do chính những em Thiếu Sinh Qưân chưa quá 16 tuổi đời cử hành nhạc và do một giáo sư nhạc trưởng người Pháp chỉ huy. Đoàn quân nhạc của chúng tôi có những nhạc sĩ tí hon có mặt trong những buổi lễ duyệt binh, diễu hành quan trọng một cách đường hoàng như các đoàn quân nhạc chuyên nghiệp người lớn”.

Với đoàn quân nhạc tí hon này, ông sử dụng nhiều nhạc khí như: trompette, clairon, trống, chập chả, vv… Nhưng một cách chuyên nghiệp hơn là ông sử dụng đàn madoline và guitare Hawaiienne trong ban nhạc nhẹ của trường.

Nhờ sống trong một môi trường âm nhạc sôi động như vậy trong trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, Nguyễn Văn Đông đă có dịp học sáng tác từ những giáo sư người Pháp. Kết quả là ông đă viết được những ca khúc đầu tiên ở tuổi 16 như Thiếu Sinh Quân Hành Khúc, Tạm Biệt Mùa Hè…

Những nhạc phẩm này đă đuợc nhà trường chấp thưận cho phổ biến và được rất nhiều bạn bè ưa thích. Ông cho biết cho đến nay tuy đă gần 60 năm sau, nhưng khi ông gặp lại một số bạn bè, những người này vẫn c̣n thuộc nằm ḷng những ca khúc này và hát lại cho nhau nghe như những kỷ niệm khó quên của thời niên thiếu.

Trong suốt 5 năm theo học ở trường Thiếu Sinh Quân, ông luôn luôn đoạt giải giọng ca hay nhất toàn trường…” (TK).

Ghi chú thêm: Cuối năm 1951, sau khi ra trường Thiếu Sinh Quân, Nguyễn Văn Đông nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia, mang số quân: 52/120.117, theo học khóa 4 trường Vơ Bị Địa Phương Nam Việt Vũng Tàu (c̣n gọi là Trường Vơ Bị Cap Saint Jacques). Tháng 10 năm 1952, măn khóa tốt nghiệp thủ khoa với cấp bậc Thiếu Úy. Qua năm 1953, được cử đi học khóa huấn luyện Đại Đội Trưởng tại trường Vơ Bị Đà Lạt. Cũng năm này, ông có chân trong ban giám khảo chấm thi khóa Vơ Bị Đà Lạt 1953 do Quốc Trưởng Bảo Đại chủ tọa lễ bế giảng khóa.

Năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa Tiểu Đoàn Trưởng tại Trung Tâm Chiến Thuật Hà Nội. Ra trường, ông được giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng TĐ Trọng pháo 553 và là Tiểu Đoàn Trưởng trẻ nhất của Quân Đội Quốc Gia khi mới 22 tuổi. Sau Hiệp định Genève 1954, di chuyển vào Nam, được thăng cấp Trung Úy, phục vụ tại Phân Khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trưởng Pḥng Hành Quân, dưới quyền Đại Tá Nguyễn Văn Là.

Đầu tháng 11 năm 1955, ông chuyển biên chế sang Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa, được cử chức vụ Trưởng Pḥng 3 của Phân Khu Đồng Tháp Mười. Năm 1956 ông tham gia Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu, h́nh ảnh ông được đăng trên b́a báo Chiến Sĩ Cộng Ḥa. Cuối năm 1957, ông được cử đi du học khóa Chỉ Huy Tham Mưu tại tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ. Ngày Quốc khánh Đệ Nhất Cộng Ḥa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại Úy.

Sau ngày 1/11/1963, ông được thăng cấp Thiếu Tá và được chuyển về Bộ Tổng Tham Mưu phục vụ ở Khối Lănh Thổ. Ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Trung Tá phục vụ trong Khối Lănh Thổ. Ngày Quốc Khánh Đệ Nhị Cộng Ḥa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Đại Tá làm Chánh Văn Pḥng cho Tổng Tham Mưu Phó. Ông đă ở chức vụ này cho đến cuối tháng 4 năm 1975. (Trung Tướng Nguyễn Văn Là, Tổng Tham Mưu Phó đặc trách B́nh Định & Phát Triển kiêm Tư Lệnh Địa Phương Quân & Nghĩa Quân. V́ vậy Đại Tá Nguyễn Văn Đông coi như người thân tín).

Ông từng được nhận huy chương cao quí nhất của Việt Nam Cộng Ḥa là Bảo Quốc Huân Chương vào giữa thập niên 60…
Trong sinh hoạt văn nghệ, từ năm 1958, Nguyễn Văn Đông là Trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian của Đài Phát Thanh Sài G̣n… Năm 1959, Nguyễn Văn Đông là Trưởng ban tổ chức đại hội thi đua Văn Nghệ Toàn Quốc, đă quy tụ trên 40 đoàn văn nghệ đại diện cho cả miền Nam cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài G̣n. Ông cũng từng nhận giải âm nhạc quốc gia vào cuối thập niên 50.

Tuy phục vụ trong quân ngũ, Nguyễn Văn Đông c̣n là Giám đốc hăng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca nổi tiếng, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân…. cho ra đời nhiều chương tŕnh ca nhạc, các vở tuồng, cải lương. Chính Nguyễn Văn Đông là người đă tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm. Ông đă thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng…

Là sĩ quan cao cấp trong Quân Lực Việt Nam Công Ḥa với cấp bậc Đại Tá. Ông đă viết nhiều nhạc phẩm về người lính miền Nam khi đó như Chiều Mưa Biên Giới, Phiên Gác Đêm Xuân, Mấy Dặm Sơn Khê, Khúc T́nh Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Lá Thư Người Lính…

Theo lời tác giả “bản nhạc Chiều Mưa Biên Giới được viết vào năm 1956. Khi ấy tôi là Trung Úy Trưởng pḥng hành quân của chiến khu Đồng Tháp Mười là người có trách nhiệm đề ra những phương án tác chiến. Lần đó tôi dẫn đầu một nhóm biệt kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo biên giới Miên-Việt và Đồng Tháp Mười. Trên đường về, anh em chúng tôi lâm vào cảnh trời chiều gió lộng, mưa gào như vuốt mặt. Giữa cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối vào tiền đồn th́ xa xôi, thoáng ẩn hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở cuối chân trời. Và từng chập gió buốt kéo về như muới sát vào thịt da. Từ trong cảnh ấy, tận đáy ḷng ḿnh đă nghe nẩy lên những cung bậc rung cảm, những trường canh đầu tiên buồn bă cho bài Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu…”

Chiều Mưa Biên Giới -Nguyễn Văn Đông -Hà Thanh



Sau tháng Tư năm 1975, Nguyễn Văn Đông trải qua 10 năm lao tù và được trả về ngày 01 tháng Giêng, 1985 với lư do: “Đương sự bị bệnh sắp chết, nên cho phép gia đ́nh đem về nhà chôn cất!”

Sau khi ra tù Nguyễn Văn Đông chia sẻ “Khi trở về nhà, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy sụp…”. Và niềm an ủi khi lập gia đ́nh với người bạn đời - chị Thu trước năm 1975 nhân viên của hăng đĩa Continental do ông làm giám đốc - có một cửa hàng bán bánh ḿ, thịt nguội với nhiều lọai kẹo bánh dưới tên Nhiên Hương ở Phú Nhuận, nguồn thu nhập của hai vợ chồng người nhạc sĩ suốt mấy thập niên qua. Năm 1990, diện H.O cho cựu Tù Nhân Chính Trị định cư tại Hoa Kỳ, Nguyễn Văn Đông không đi với suy nghĩ của ông “Do những căn bệnh ngặt nghèo tưởng như ‘hết thuốc chữa’ và do tinh thần suy sụp đến tột cùng, có lúc tôi đă nghĩ rằng ḿnh không c̣n sống được bao lâu nữa nên chẳng c̣n thiết tha bất cứ chuyện ǵ, chỉ muốn từ bỏ tất cả để được thảnh thơi yên nghỉ ở cuối đời’’. Vẫn theo lời nhạc sĩ “Không hiểu do đâu, mà Trời Phật đă nh́n lại ông và, cho ông sống, dù là một đời sống ‘rất lê lết’ cho đến ngày hôm nay”.

*Ca Khúc Mùa Xuân
* Phiên Gác Đêm Xuân

Phiên Gác Đêm Xuân



Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông ghi lại hồi kư thời điểm sáng tác ca khúc nầy:
“Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung Úy, mới 24 tuổi đời, c̣n bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn c̣n xanh nhưng tâm t́nh đă nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đă gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối t́nh nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.

Ngày đó Đồng Tháp Mười c̣n là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những g̣ đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nh́n về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Găy Cờ Đen, G̣ Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng c̣n lưu lại đến ngày nay.

Mùa Xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên G̣ Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam – Campuchia, sau này là tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị của tôi đă có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông B́nh, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ Xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ Biển Hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục b́nh trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn Tết.

V́ c̣n độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Kư Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phải được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh của người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài t́nh ca Sắc Hoa Màu Nhớ.

Tiền đồn cuối năm, đêm 30 Tết, trời tối đen như mực, phút Giao Thừa lạnh lẽo hắt hiu, không bánh chưng xanh, không hương khói gia đ́nh. Tôi ngồi trên tháp canh quan sát qua đêm tối, chỉ thấy những bóng tháp canh mờ nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái nhà tranh, chập chờn dưới đóm sáng hỏa châu mà mơ màng về mái ấm gia đ́nh đoàn tụ lúc xuân sang. Thay cho lời chúc Tết là tiếng kẻng đánh cầm canh và tiếng hô mật khẩu lên phiên gác.

Vào đúng thời điểm giao thừa, ngọn đèn băo dưới chiến hào thắp sáng lên như đón chào năm mới th́ cũng là lúc những tràng súng liên thanh nổ rền từ chốt tiền tiêu. Khi ấy vào buổi tinh mơ của trời đất giao ḥa, vạn vật như ḥa quyện vào trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của tiền nhân.

Tôi nghe tâm hồn nghệ sĩ của ḿnh rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm nảy lên những cung bậc đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân:

“Đón giao thừa một phiên gác đêm
Chào Xuân đến súng xa vang rền.
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
Ngở rằng pháo tung bay
Ngờ đâu hoa lá rơi…”
Rồi mơ ước rất đời thường:
PK: “Ngồi ngắm mấy nóc cḥi canh
Mơ rằng đây mái nhà tranh
Mà ước chiếc bánh ngày xuân
Cùng hương khói vương niềm thương…

ĐK: Chốn biên thùy này xuân tới chi?
T́nh lính chiến khác chi bao người
Nếu Xuân về tang thương khắp lối
Thương này khó cho vơi, th́ đừng đến Xuân ơi!”

Lúc đó Bộ Thông Tin cấm phát hành v́ cho rằng lời ca mang tính tiêu cực như những ḍng thơ của Chế Lan Viên thời tiền chiến trong bài thơ Chiều Xuân:

“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi Xuân lại gợi thêm sầu?
Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!”

Bài Phiên Gác Đêm Xuân được ra đời trong hoàn cảnh như thế…, đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về đời lính như Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc T́nh Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách Anh, Lá Thư Người Lính Chiến, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giă Biệt…. Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản nhạc này cùng chung số phận tan tác như cuộc đời ch́m nổi của tôi…”.

******

Nhớ Một Chiều Xuân



Ca khúc Nhớ Một Chiều Xuân, sáng tác để kỷ niệm chuyện t́nh lăng mạn với một thiếu nữ bản xứ khi đi tu nghiệp Khóa Chỉ Huy & Tham Mưu ở Hawaii năm 1957.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông viết ca khúc nầy để nhớ một người con gái mang quốc tịch Áo.. Họ đă gặp và yêu nhau tại quần đảo Hawaii. Ngày chia tay để trở về Việt Nam, ông đă thề ước là sẽ trở lại và không phụ t́nh cô gái. Nhưng rồi chiến tranh liên miên, ngày càng thêm ác liệt, ông đă không thể thực hiện lời thề hẹn của ḿnh. Cuộc t́nh ấy đă ly tan, với nỗi niềm:

“Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người
Chạnh ḷng tôi khơi… bao niềm nhớ
Người nơi xa xăm phương trời ấy
Người c̣n buồn c̣n thương c̣n nhớ
Nắng phai rồi…. em ơi!
Chiều Xuân có một người ngơ ngác đi t́m
Một t́nh thương nơi… phương trời cũ
Chiều nay hoa Xuân bay nhiều quá
Chiều tàn dần phai trên ngàn lá
T́m đâu bóng… h́nh ai?
ĐK
Người vê c̣n nhớ… khúc hát
Người yêu dấu bên bờ thành Vienne
Ḷng này c̣n quyến… luyến măi
Đêm Xuân dài mà đâu có hay
Chiều nay có một loài hoa vỡ bên trời
Đợi mùa Xuân sang tô… màu nhớ
Dừng chân trông hoa Xuân hồng thắm
Buồn t́m về t́nh ai đằm thắm
Giờ vun vút trời mây!”

Trong ca khúc Mấy Dặm Sơn Khê mang h́nh ảnh nơi núi rừng Tây Nguyên với nỗi buồn:
“Bao ước mơ giữa khung trời phiêu lăng
Chờ mùa Xuân tươi sáng, nhưng mùa thắm chưa sang
Anh đến đây rồi anh như bóng mây
Chốn phương trời ấm lạnh, ḥa chung mái nhà tranh”

Cũng như ca khúc Chiều Mưa Biên Giới, Lá Thư Người Lính Chiến, ca khúc nầy mang h́nh ảnh nơi núi rừng Cao Nguyên với nỗi buồn nên một thời bị Bộ Thông Tin cấm v́ quá ủy mị, có vẻ “phản chiến” làm nhụt nhuệ khí của tinh thần chiến sĩ.

Nguyễn Văn Đông tâm sự: “Ông có những mùa Xuân buồn trong quăng đời thơ ấu, nhiều bất hạnh! Như gia đ́nh lâm cảnh tang thương. Người thân yêu ly tán trong chiến tranh, ông mất mùa Xuân tuổi thơ khi cha mẹ bị tù đày. Lớn lên đi lính, ông lại thường bị ứng trực vào mùa Xuân ở các đơn vị hẻo lánh….”. Hầu hết các ca khúc về Xuân với niềm vui nhưng dĩ văng đau buồn vẫn ám ảnh trong ḷng tác giả nên trang trải qua từng ca khúc.

Gia tộc Nguyễn Văn Đông là điền chủ ở huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Nơi đó có mối thân t́nh xóm giềng với gia đ́nh ông hương Cả. Năm 1945 “Cách Mạng Mùa Thu” bùng nổ, ông Hương Cả bị đưa ra trước ṭa án nhân dân; lănh bản án “cường hào ác bá” rồi bị xử bắn. Xác thả trôi sông. Thuở bé Nguyễn Văn Đông học trường Huỳnh Khương Ninh, phường Đakao, Tân Định, Sài G̣n. Năm 1945, 1946 loạn lạc, trường Huỳnh Khương Ninh đóng cửa. Cha mẹ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông từ Sài G̣n tản cư về cố hương, bị liệt vào hàng “địa chủ ác ôn”. Ông bà bị bắt làm tù lao công khổ sai. Tịch biên tài sản, sung vào quỹ kháng chiến. Gia đ́nh ly tán. Cửa nhà tan nát. Ông Hương Cả có một cô con gái xinh đẹp. Hai bên gia đ́nh cùng giao ước kết thông gia khi hai trẻ lớn lên. Khi ấy Nguyễn Văn Đông và cô bé kia c̣n vị thành niên nên t́nh cảm trai gái của “thuở ban đầu” ngây thơ… Đôi trẻ trôi giạt, mỗi người một phương. Họ bặt tin nhau!… (Trong ca khúc Về Mái Nhà Xưa, Nguyễn Văn Đông nói lên niềm đau khi trở lại chốn xưa). Nhờ Trường Thiếu Sinh Quân được coi như mái nhà nuôi dưỡng “đứa con lạc loài” để tạo dựng cuộc đời trong quân ngũ và sinh hoạt văn nghệ.

Trong bài viết của Lê Hữu th́: “H́nh tượng người lính chiến, khắc họa qua ḍng nhạc Nguyễn Văn Đông, như được ‘nâng’ lên ở tầm mức cao hơn và đẹp hơn. Lư tưởng của những người trai anh dũng hiến thân v́ tổ quốc như được tô đậm hơn, chính nghĩa của cuộc chiến đấu gian khổ của quân dân miền Nam như được soi sáng hơn. Người đời, qua đó, thấy yêu mến và gần gũi hơn những người lính, thấy cảm kích và ngưỡng phục những hy sinh cao cả và thầm lặng của người chiến binh v́ nước quên ḿnh. Vậy th́ không thể nào không cám ơn ông, cám ơn người nhạc sĩ đă gieo vào ḷng người những mối cảm xúc sâu đậm, những ấn tượng đẹp và sắc nét về người lính và đời lính.

Chiến tranh đă đi qua, những bài nhạc lính như thế ngày nay ít c̣n được nghe hát, thế nhưng dư âm lời ca tiếng nhạc của một mùa chinh chiến ấy và h́nh tượng hào hùng của người lính chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n đọng lại măi trong tâm tưởng biết bao người, như câu nói bất hủ của một danh Tướng Hoa Kỳ, Douglas MacArthur: "Những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ nhạt mờ đi thôi" (Old soldiers never die, they just fade away).

Sau bao mùa tang thương dâu bể, sau bao nhiêu giông tố dập vùi, ‘người lính già Nguyễn Văn Đông’, vẫn một niềm tin sắt son vào hồn thiêng sông núi, vẫn chưa mất niềm tin vào vận mệnh đất nước, vẫn c̣n nguyên vẹn trái tim chàng lính trẻ Nguyễn Văn Đông nặng trĩu t́nh quê t́nh nước của những ngày đầu bước chân vào đời quân ngũ.

"Non nước ơi, hồn thiêng của núi sông
Kết trong ḷng thế hệ
Ngh́n sau nối ngh́n xưa…”

* Khúc Xuân Ca

Khác với các ca khúc đề cập ở trên, Khúc Xuân Ca như lời t́nh tự với người yêu. Là nhạc sĩ tài hoa, sĩ quan cao cấp trong QLVNCH, không thể nào thiếu bóng hồng “đi qua đời ông” nhưng Nguyễn Văn Đông rất kín tiếng chuyện t́nh yêu. Nhiều nhạc sĩ khi sáng tác ca khúc trữ t́nh thường nói lên h́nh bóng nào đó làm nguồn cảm hứng nhưng Nguyễn Văn Đông th́ ngược lại.

“PK: Em mùa Xuân hồng, gieo trên phím tơ đồng.
Cho đời mơ mộng, thả ư thơ chờ mong.
Em mùa trăng rằm, cho vương áng mây hồng.
Xin đừng thay ḷng, nhạt màu ái ân.

ĐK: Mùa xuân thay áo, hồng trên má hoa đào.
Vườn Xuân xôn xao, câu ái ân thầm trao.
Ḱa trong ánh xuân tươi, nhịp chân bước đôi mươi..
Nàng Xuân hé môi cười, nhạc ḷng nghe chơi vơi.
Em có hay chăng ḷng anh, trọn đời yêu em măi thôi.
PK: Em mùa Xuân hồng, cho anh vương tơ ḷng.
Xin bờ môi hồng, ư thắm chuyện trăm năm.
Xuân mùa tâm đồng, cho đôi lứa yêu thầm.
Tay cầm tay mừng, mùa Xuân ái ân…
Nào d́u nhau đi, mùa Xuân như ư”.

Khi nhạc sĩ “vương tơ ḷng” để “trọn đời yêu em măi măi” cho đến bây giờ vẫn là h́nh ảnh bí ẩn.

Ca khúc Dáng Xuân Xưa cũng mang niềm tâm sự mối t́nh dang dở như bóng dáng mùa Xuân đă đi qua cuộc dời tác giả:

“ĐK: Xuân sang lả lơi chợt thấy hoa cười
Nối duyên chạnh nhớ một người
Từ mùa Xuân trước tới bây giờ c̣n mơ
Xuân nào sánh vai cùng ngắm hoa đào
Ái ân nào chẳng lúc tàn
Vườn em thơm ngát chờ anh bước sang

PK: Xuân nay mang về kỷ niệm ngày xưa thênh thang
Bâng khuâng thấy hoa mỉm cười chạnh nhớ tới người
Đầu cành oanh ăn nói h́nh dáng Xuân xưa
ĐK: Em ơi ước mơ th́ cũng lỡ rồi
Trách nhau th́ cũng xa rồi
Ḷng ta lơ đăng mà Xuân vẫn sang…”

Tuy phục vụ trong quân đội, Nguyễn Văn Đông sáng tác một số ca khúc về người lính nhưng không mang màu sắc tuyên truyền như lối “phanh thây uống máu quân thù” mà chỉ tỏ bày niềm đau, nỗi buồn của người lính nơi tiền đồn, núi rừng… nhưng khi đổi đời “đứa con tinh thần” đó cũng bị hẩm hiu như cuộc đời tác giả. Nguyễn Văn Đông chia sẻ: “Rất tiếc một số bài hát tâm đắc không được nhà nước cho phép. Tôi hy vọng rồi đây theo thời gian mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Đặc biệt trong lănh vực văn hoá, văn nghệ, tôi nghiệm rằng những ǵ có giá trị nghệ thuật, dù bị vùi dập v́ sự ganh tỵ hay hiểu lầm, sẽ có ngày được mang trả lại vị trí đích thực của nó. Tôi chỉ tiếc đời người ngắn ngủi mà tôi đă phí phạm quăng thời gian dài 30 năm. Thật lấy làm tiếc!”.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, qua các bút hiệu khác đă sáng tác khoảng một trăm ca khúc từ tân nhạc đến tân cổ giao duyên. Trong phạm vi bài nầy chỉ đề cập vài ca khúc của ông liên quan đến h́nh ảnh mùa Xuân đă đi vào ḷng người trải qua nhiều thập niên.

__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN

HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
hoanglan22_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	1.jpg
Views:	0
Size:	54.8 KB
ID:	1352427
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Đôla Trăm (03-20-2019), laongoandong (03-22-2019), wonderful (03-19-2019)
 
Page generated in 0.04603 seconds with 10 queries