Trung tá CSQG Nguyễn Văn Long tuẫn tiết dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến (trước tiền sảnh Hạ Nghị Viện VNCH) sau khi Dương Văn Minh đầu hàng CS.
Cộng Sản chiếm được Miền Nam đă mười năm rồi mà tôi vẫn c̣n tiếp tục bị chúng kêu lên, kêu xuống hỏi cung. Tuy thế, nhờ những thời gian đợi đi “làm việc” như thế tại các trại giam như ThanhLiệt ở Hà Nội; Kho Đạn, Hội An, và Ḥa Sơn ở Quảng Nam mà tôi có dịp gặp nhiều cán bộ Việt Cộng cấp cao bị bắt về tội “kinh tế” hoặc “tham ô” và cả “bạo loạn” nữa. Cũng như đồng bào nhiều giới phạm tội “phản động hiện hành”, vượt biên, vượt biển, đưa hối lộ, xâm phạm hoặc phá hoại tài sản xă hội chủ nghĩa v..v… , nên tôi biết nhiều và biết sớm những biến cố xảy ra bên ngoài thế giới “cải tạo” hơn đa số anh chị em khác trong tù.
Tôi đă nghe tin trung tá Nguyễn Văn Long tự tử từ lâu. Nhưng v́ có những trường hợp sự thật khác với tin đồn. Biết đâu đó không là một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi thân thương; hơn nữa, anh Nguyễn Văn Long của tôi là một tín đồ Ky Tô Giáo, lẽ nào lại tự hủy ḿnh. Do đó, tôi vừa âm thầm đau khổ về hoàn cảnh chung, vừa bán tín bán nghi về phần anh Long. Đến khi tôi được nghe thêm hai viên “thủ trưởng”, một thuộc Cục Xuất-Nhập Khẩu 2 tại “thành phố Hồ Chí Minh”, một thuộc Ban Hậu Cần Quân Khu 5, khẳng định là họ có nghe đề cập trong nội bộ cơ quan rằng, ngoài một số tướng lĩnh miền Nam đă tự sát chứ không chịu đầu hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một trung-tá Cảnh-Sát tên Nguyễn Văn Long, từ Đà Nẵng di tản vào, đă tự tử chết phía trước trụ sở Quốc Hội Việt-Nam Cộng-Ḥa, tôi mới tin chắc đó chính là anh Nguyễn Văn Long.
Anh Long vĩnh biệt cơi đời giữa cảnh lửa bỏng dầu sôi, bạn bè nói riêng và đồng bào nói chung th́ c̣n bận lo tự cứu lấy ḿnh, trong khi kẻ thù th́ càng thù hận anh thêm, lấy đâu có những ṿng hoa và những nén nhang cùng những ḍng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm 1982, tại trại bí mật Thanh Liệt, thuộc Huyện Thanh Tŕ, Hà-Nội, là nơi giam cứu các phần tử quan trọng nhất, mà đa số là cán bộ Đảng, nhà nước và bộ đội ở cấp trung uơng, do bộ Nội-Vụ trực tiếp quản lư, tôi mới được một “bạn tù” cho biết thêm một chi tiết quư báu về cái chết hùng vinh của trung tá Nguyễn Văn Long. Đó là Phạm Trung Linh, một trung tá bộ đội Bắc Việt, nguyên trưởng Tiểu Ban Thanh Tra & Xét Khiếu Tố thuộc Trung Ương Cục Miền Nam (tổng thư kư của một tổ chức đảo chính quân sự dự định hành động vào đêm 24 rạng ngày Nô-En năm 1979 nhưng bất thành nên bị bắt cùng với một số tướng tá và cán bộ cao cấp khác) xác nhận rằng gă đă có trông thấy bức ảnh chụp cảnh trung tá Nguyễn Văn Long mặc cảnh phục chỉnh tề nằm chết trước một tượng đài Chiến Sĩ Quốc Gia phía trước trụ sở Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa, in trên b́a trước của một tạp chí Hoa Kỳ, trong kho sách báo ngoại quốc mà Việt Cộng ở một số cấp cao đă sưu tầm để nghiên cứu những ǵ có liên quan đến Việt Nam.
Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại c̣n cảm thấy ḷng ḿnh vui thỏa cho anh Long; báo Mỹ mà đă đăng lên th́ khắp thế giới đều biết. Anh, cùng với những vị anh hùng tuẫn quốc khác trong biến cố lịch sử 30-4-1975, đă nói lên được hùng hồn và cụ thể tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam yêu chuộng Tự Do trước quyền lực của cộng sản bạo tàn.
Thuở ấy, vào khoảng 1950, miền Trung có hai hệ thống an ninh: một bên là Pháp với cơ quan Su^reté fédérale (Liêm Phóng Liên Bang) và Police franc,aise (Cảnh Sát Pháp), một bên là Việt Nam với cơ quan Công An & Cảnh Sát Quốc Gia. Anh Nguyễn Văn Long tùng sự bên Su^reté Fédérale (chính trị) của Pháp, trong số vài người phụ trách nội ô Thần Kinh; c̣n tôi th́ bên Cảnh Sát (h́nh sự) của Việt Nam. Tôi kiêm cả việc sáng tác, ra báo, và dựng kịch cho sở làm, và cho riêng ḿnh.
Chúng tôi thường uống cà phê ở quán Lạc Sơn, nhà hàng lộ thiên trên lề đại lộ Trần Hưng Đạo, quay lưng vào chợ Đông Ba. Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện “Trai Thời Loạn” chống Pháp xâm lược và Bảo Đại bù nh́n, nên bị bắt giam; sau nhờ phái đoàn của các nhân sĩ Cao Văn Tường, Cao Văn Chiểu, cùng với nhà báo Phạm Bá Nguyên và cả Giám Đốc Thông Tin Lê Tảo can thiệp với Thủ Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được trả tự do. Ra tù, tự nhiên tôi được thiện cảm của nhiều người hơn.
Sau đó, anh Long đă chuyển qua Công An Việt Nam; và Vân Sơn Phan Mỹ Trúc cũng như Như Trị Bùi Chánh Thời th́ vào Sài G̣n; kẻ thành kư giả tên tuổi, người nên luật sư tài danh. Sau khi gia nhập vào đúng hàng ngũ thích hợp để phụng thờ Chính Nghĩa Quốc Gia, trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực Lượng Cảnh Sát & Công An Việt Nam Cộng Ḥa, anh Nguyễn Văn Long tận tụy phục vụ, và đă nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ huy tích cực, cương trực và liêm khiết nhất trong ngành.
Về mặt tư pháp, trung-tá Nguyễn Văn Long đă thực hiện đúng khẩu hiệu “pháp bất vị thân”. Ngay đối với chính đồng nghiệp, bất cứ nhân viên Cảnh Sát nào mà phạm tội h́nh sự là anh truy tố ra Ṭa thẳng tay; anh nói, để lành mạnh hóa nội bộ, và nêu gương thượng tôn luật pháp cho người dân. Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên “Long Lư”, ư nói anh chỉ biết chiếu lư chứ không vị t́nh.
Sau hiệp định Paris 1973, t́nh h́nh xă hội miền Nam thật là rối ren. Bên ngoài th́ Cộng Sản Bắc Việt công khai ồ ạt đổ thêm quân và chiến cụ, vũ khí vào tấn công ta; bên trong th́ các tổ chức xưng danh đối lập và lợi dụng tự do quá khích, tiếp tay với các phần tử nằm vùng, ngày càng gia tăng mức độ và cường- độ gây hỗn loạn trật tự và làm suy thoái tinh thần các lực lượng Quốc Gia. Về mặt chính trị, CSQG vừa phải đối phó với các bộ phận đảng, mặt trận, nhà nước và nhân dân của CSXL và “Việt-Cộng”, vừa phải chống đỡ các phần tử, phe nhóm chủ bại và nội ứng cho kẻ thù.
Về mặt tệ đoan xă hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi. Riêng về nạn dịch nhũng nhiễu tham lam, công tác đương đầu đă gặp quá nhiều khó khăn. Hầu như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh nghĩa của một chính đảng, t́m sự che chở của một đoàn- thể hay một số cấp lănh đạo nào đó trong chính quyền. Đụng vào họ, dù họ là kẻ phạm pháp, có thể là tự rước lấy tai họa vào ḿnh. Thế mà anh Long đă dám xúc tiến điều tra, lập hồ sơ truy tố nhiều nhân vật đáng sợ.
Với tôi, anh Long đă chịu nhượng bộ: nếu gặp nhân viên đặc cảnh liên can đến các vụ h́nh, anh để tùy tôi xét trước, để tránh oan ức, trở ngại cho công tác ch́m. Ấy là nhờ anh hiểu rơ phương thức t́nh báo và đặt nhu cầu chống cộng lên hàng ưu tiên. Đó là quyết định linh động duy nhất trong cương vị chánh sở pháp cảnh của anh Long.
Kỷ niệm đậm nét nhất trong đời tôi về anh Long là vụ rút lui ra khỏi Đà Nẵng, thành lũy cuối cùng của Quân Khu I Việt Nam Cộng Ḥa.
Lúc ấy vào khoảng 10 giờ tối ngày 28-3-1975. Trên máy vô tuyến truyền tin thuộc hệ Cảnh Sát sắc phục nội thành Đà Nẵng, tôi nghe một đài gọi đài trung ương, nhưng không có ai trả lời. Lát sau, có một đài khác cất tiếng: “Đừng gọi vô ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!” Tôi bèn hỏi đài hồi năy, th́ được báo cáo là có nhiều người ăn mặc lộn xộn, vũ khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng Ḥa Cường tiến vào.
Tôi dùng làn sóng của hệ đặc cảnh ra lệnh cho Sở tác vụ vùng và Sở đặc cảnh sở tại đối phó, đồng thời gọi máy điện thoại cho đại tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư Lệnh Cảnh Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với các Chánh sở vùng và một số chỉ huy cảnh lực tỉnh tập trung tại đây.
Lát sau, anh Long đến ngồi tại pḥng truyền tin của ngành đặc cảnh vùng, nơi đây có máy âm thoại của cả 2 hệ nổi ch́m địa phương lẫn hệ toàn quốc, và máy điện thoại bưu điện, điện thoại quân sự, cách dăm mười phút lại gọi hỏi tôi t́nh h́nh thế nào. Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài đặc cảnh Vùng I trung tá Long gọi tôi. Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời lẽ trịnh trọng khác thường: “Tôi xin mời ông Phụ Tá đến ngay để tổ chức pḥng tuyến và chỉ huy đội ngũ tử thủ cùng với anh em chúng tôi!” (Tử-thủ là lời cam kết của trung tướng Ngô Quang Trưởng đọc trên đài phá thanh Đà Nẵng suốt chiều hôm nay).
Anh Long kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại trụ sở Vùng, Chánh sở các sở, chỉ huy của một số tỉnh, có cả mấy viên đại tá quân đội, theo đại tá Lộc xuống bến Giang Cảnh, lên tàu Giang Cảnh, rời bến hướng ra biển Đông. Anh hỏi đi đâu th́ đại tá Lộc trả lời: “Chúng ta di tản vào Nam!” Anh thấy máu uất xông lên đỉnh đầu, la lên: “Giặc chưa tấn công, thuộc viên vẫn c̣n ở lại, mà cấp chỉ huy đă lén lút bỏ đi như thế này là hèn!” Lộc cố giải thích: “Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đă rút đi rồi. Trong t́nh huống này chúng ta đành phải phụ ḷng anh em mà thôi!” Long bèn rút súng, nh́n thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào bờ cho anh trở lui. Và anh đă về trụ sở, để cùng chiến đấu, sống chết có nhau với anh em.
Tôi tin tưởng và kính phục anh Long vô cùng; nhưng tôi thấy rơ là nếu đến sở th́ sẽ dính kẹt ở đó, khó ḷng điều động hoạt động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp. Anh xin mượn tôi một máy vô tuyến cầm tay, và đ̣i đến họp với tôi. Anh Long đă đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Đặc Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư Lệnh Quân-Đoàn; nơi đây vắng hoe. Anh hỏi, tôi đáp là vào phi trường, nhưng tôi đến Sở An Ninh Quân Đội; nơi đây cũng chẳng c̣n ai. Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại dối, tránh anh. Cứ thế mà tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin của dân nhân.
Đến sau nửa đêm th́ cả thành phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua bến cảng, băi biển quận III, để mong chạy vào SàiG̣n. Tôi cùng Tác Vụ, thám sát đặc biệt, quan sát xong t́nh h́nh bên đó, len lách trở về th́ thoáng dưới ánh đèn pha thấy rơ h́nh dáng của anh, mặc cảnh chiến phục, gác khẩu M-16 ngang đùi, mặt mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy cương nghị, lái xe vụt qua. Đó là h́nh ảnh cuối cùng của trung-tá Nguyễn Văn Long, măi măi hằn sâu trong kư ức tôi.
Gần sáng ngày 29-3-1975, Việt Cộng pháo kích hải cảng, phi trường. Mờ sáng, đặc công từ hướng núi Non Nước bắt đầu tấn công vào. Đến trưa, tôi gọi máy về cho đại-úy Nguyễn Văn Tuyên, Chánh sở nghiên kế, lúc đó c̣n ngồi tại chỗ, ra lệnh giải tán Trung Tâm Hành Quân của Đặc Cảnh Vùng I, là bộ phận sau rốt của chính quyền VNCH c̣n hoạt động đến phút cuối cùng, và cho phép thuộc viên tự t́m phương tiện thoát thân. Xế chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng, rời bờ, liều lĩnh trước các làn đạn pháo kích của địch và trực xạ của chính bạn ḿnh. Và tôi không c̣n gặp lại anh Long.
Cái chết của trung tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Anh đă phục vụ dưới nhiều chế độ khác nhau, đảm trách công tác ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng vẫn giữ ḿnh trung chính khiết liêm. Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này vượt qua.
Trong lúc nước nhà đang bị cộng sản xâm lăng, anh ư thức được chúng là kẻ thù số một của toàn dân, sự nghiệp chống Cộng phải là ưu tiên số một của mọi người yêu quư Tự Do, nên anh phải góp phần vào. Thành quả chống cộng của CSQG nói chung, là đă có lúc hạ được nhiều tên cộng tặc hơn cả con số chúng bị thiệt hại trên chiến trường, do đó, anh tự nhận lănh vào bản thân ḿnh một phần trách nhiệm đối với đối phương về những tổn thất mà chúng hứng chịu nặng nề. Nhưng trên tất cả là sự sụp đổ thảm khốc của Việt Nam Cộng Ḥa, mà đối với Tổ Quốc, Dân Tộc, Lịch Sử, và Thế Giới, th́ cái trách nhiệm vô cùng lớn lao ấy nhất định là của mọi người, trong đó có anh. Nên anh tự xử, cũng như các anh hùng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn v..v…, để tạ tội với tiền nhân và quốc dân, và để nói lên tinh thần bất khuất của người chiến sĩ Tự Do, không chịu hạ ḿnh đầu hàng kẻ thù.
Cái chết của anh Long làm tôi hănh-diện vô cùng. Tuy người chết không mong được đời nhắc đến, nhưng bổn-phận của người sống là phải phát huy những tấm gương trí dũng ngời sáng ấy, để nhờ đó mà ḿnh tin tưởng và phấn khởi tiếp tục lo toan sự nghiệp chung.
Bây giờ, đối với toàn dân, Nguyễn Văn Long không c̣n là một trung tá, là một Chánh sở tư pháp, là một viên chức an ninh, là những ǵ ǵ khác nữa …. mà anh đă và vẫn c̣n là đại diện cho bất cứ chiến hữu ưu tú nào, không phân biệt cấp bậc, chức vụ, ngành nghề, h́nh sự hay phản gián, phái mạnh hay phái đẹp. Anh đă vinh quang đi vào lịch sử với tư cách một anh hùng của Dân Tộc Việt Nam nói chung và Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia nói riêng.
Lê Xuân Nhuận