R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
Như vậy, rơ ràng là Hoa Kỳ không học được lỗi lầm của Pháp đă làm cho phe quốc gia mất chính nghĩa trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất. Tổng thống Nguyễn văn Thiệu phạm nhiều lỗi lầm nhưng đôi khi cũng có những nhận xét chí lư. Trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí New Republic, ông đă trả lời: “Lư do chính mà Việt Cộng cố thủ mạnh mẽ được như vậy là v́ dân chúng vẫn tin rằng chẳng có ǵ khác giữa người Pháp mà họ gọi là thực dân và người Mỹ mà họ gọi là đế quốc.” Ngoài ra, chương tŕnh “Mỹ hoá” chiến tranh c̣n phạm phải ít nhất hai sai lầm quan trọng khác:
V́ quá tin tưởng ở sức mạnh của ḿnh và coi thường khả năng của quân lực VNCH, Hoa Kỳ không trang bị cho họ vũ khí hiện đại. Chẳng hạn, quân Mỹ vào Việt Nam từ tháng Ba 1965 nhưng măi tới tháng Sáu 1968, sau trận Tết Mậu Thân, Hoa Kỳ mới cung cấp súng M-16 cho binh sĩ VNCH trong khi bộ đội cộng sản miền Bắc đă sử dụng loại súng tối tân AK-47 từ mấy năm trước. Hầu hết máy bay trực thăng rất cần thiết trong các cuộc hành quân đều do phi công Hoa Kỳ lái và chỉ chịu mệnh lệnh của cấp chỉ huy người Mỹ.
Quân đội Hoa Kỳ chỉ quen với chiến tranh qui ước không thích hợp với những điều kiện chiến đấu chống du kích trong núi rừng nhiệt đới. Nhưng Hoa Kỳ vẫn tin rằng sẽ thắng bất cứ loại chiến tranh nào bằng cách sử dụng hỏa lực thật mạnh và thật nhiều. Lối đánh trận kiểu nhà giàu này quá phí phạm, coi thường sinh mạng của dân chúng mà thường không đem lại kết quả mong đợi. Trái với mục tiêu “tranh thủ nhân tâm”, lối đánh trận này chỉ làm cho dân chúng có cảm t́nh với chủ trương “chống Mỹ cứu nước” của cộng sản. Đó cũng là nguyên nhân của nhiều trường hợp bất đồng ư kiến giữa các cố vấn Mỹ và các cấp chỉ huy người Việt.
Tóm lại, quyết định “Mỹ hoá” chiến tranh rơ ràng là một quyết định sai lầm về cả hai mặt chính trị và quân sự.
Ngoài những sai lầm về chính sách do sự thiếu hiểu biết các đặc tính Việt Nam và sai lầm về chiến thuật ngoài mặt trận như đă nêu trên, Hoa Kỳ đă bỏ lỡ nhiều cơ hội có thể chấm dứt cuộc chiến một cách thuận lợi hay ít nhất cũng không bị mang tiếng thua trận và gây tai hại cho miền Nam như hậu quả của hiệp định Paris 1973. Chương Năm đă bàn về những cơ hội cho Hoa Kỳ, trong giai đoạn 1945-1954, có thể tránh được chiến tranh Đông Dương lần thứ Hai. Chương này c̣n bàn thêm về một cơ hội Hoa Kỳ có thể giải quyết t́nh h́nh Đông Dương bằng chính trị trước khi quyết định can thiệp bằng quân sự sau vụ Maddox (tháng Tám 1964), sau đó sẽ đề cập đến những cơ hội Hoa Kỳ có thể chấm dứt cuộc chiến được sớm hơn. Những cơ hội bỏ lỡ này cho thấy một khuynh hướng quen thuộc và cũng là một nhược điểm của Hoa Kỳ: trong tư thế của một siêu cường với vũ khí tối tân và hùng hậu, Hoa Kỳ trước hết chỉ muốn thuyết phục đối phương bằng sự đe dọa, khi có chiến tranh th́ muốn thắng lợi bằng những “hành động trừng phạt”, nhưng nếu đánh lâu không được th́ bỏ và t́m cách “rút quân trong danh dự.” V́ có sức mạnh, Hoa Kỳ cứ quyết định theo ư muốn của ḿnh và coi thường địch thủ, không chịu t́m hiểu kỹ những ưu khuyết điểm của kẻ địch (và đồng minh của ḿnh nữa), nhất là những trở ngại địa phương về tâm lư, địa lư và chính trị. Nhược điểm này được cựu Bộ trưởng Quốc Pḥng McNamara xác nhận là kinh nghiệm bản thân của ông và giới lănh đạo Hoa Kỳ khi quyết định tham chiến ở Việt Nam:
Tôi chưa bao giờ đi thăm Đông Dương mà tôi cũng không hiểu biết ǵ về lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa và các giá trị của những xứ này. Điều này cũng đúng ở những mức độ khác nhau trong trường hợp của Tổng thống Kennedy, Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk, Cố vấn An ninh Quốc gia McGeorge Bundy, Cố vấn Quân sự Maxwell Taylor, và nhiều người khác nữa. Khi bàn đến vấn đề Việt Nam, chúng tôi đă thiết lập chính sách cho một miền đất lạ.27
Do thái độ tự tôn ấy, Hoa Kỳ trước tiên chỉ muốn làm theo ư ḿnh, không chấp thuận những giải pháp dung ḥa, cho nên khi muốn dùng tới th́ đă muộn và chịu thiệt.
Chúng ta đă biết rằng những năm sau hội nghị Genève 1954 là thời gian hai miền Bắc Nam chuẩn bị chiến tranh. Sau khi Ngô Đ́nh Diệm dẹp yên các lực lượng thân Pháp nổi loạn, chính quyền Eisenhower muốn giúp ông xây dựng một miền Nam dân chủ và thịnh vượng nhưng kết quả lại là một chế độ độc tài gia đ́nh trị. Khi MTGPMN được thành lập năm 1960 và Bắc Việt gia tăng tiếp viện người và vũ khí vào miền Nam qua đường ṃn Hồ Chí Minh, chính quyền Kennedy quyết định giúp cho VNCH đối phó bằng sách lược chống du kích và viện trợ quân sự, nhưng những mâu thuẫn xảy ra giữa đôi bên càng ngày càng trầm trọng. Do những biến động chính trị ở miền Nam trước và sau cái chết của Ngô Đ́nh Diệm, khả năng chiến đấu của quân đội VNCH bị suy giảm đến mức độ báo động. Sau vụ Maddox năm 1964, chính quyền Johnson quyết định can thiệp trực tiếp bằng quân sự và đến 1965 th́ bắt đầu đưa quân chiến đấu vào Việt Nam. Khi Nixon lên làm Tổng thống th́ trọng tâm chính sách của Hoa Kỳ là t́m cách rút quân ra khỏi Việt Nam.
Trước khi nói đến các cơ hội bỏ lỡ, chúng ta hăy thảo luận về những điểm sai lầm của Hoa Kỳ đă được cựu Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara nêu ra như những nguyên nhân đưa đến thất bại ở Việt Nam. Khi kiểm điểm lại các chính sách của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam, McNamara đă nhận diện được mười một điểm sai lầm. Trong số này có sáu điểm hoàn toàn là chuyện nội bộ của Hoa Kỳ, chẳng hạn vấn đề chính quyền Johnson không tŕnh bày thẳng thắn với Quốc hội và dân chúng Mỹ về những quyết định can thiệp vào Việt Nam; vấn đề chủ quan tin rằng dân tộc Mỹ và các nhà lănh đạo Mỹ biết hết mọi chuyện, làm như ḿnh được Trời ban cho quyền làm gương mẫu khiến các nước khác phải noi theo; hay vấn đề không chịu giữ nguyên tắc là Hoa Kỳ không bao giờ nên can thiệp bằng quân sự một ḿnh mà cần phải có sự phối hợp với các lực lượng đa quốc gia được cộng đồng quốc tế hỗ trợ. Chương này chỉ cần bàn đến năm nhận định đầu tiên của McNamara, điểm số 1 về mối đe dọa của khối Cộng sản, bốn điểm c̣n lại liên quan đến hai miền Nam, Bắc Việt Nam.28
Điểm số 1: “Hồi đó —và cho đến nay— chúng ta đă phán đoán sai lầm những ư đồ địa lư chính trị của các đối thủ (trong trường hợp này là Bắc Việt và Việt Cộng, được sự hỗ trợ của Trung Quốc và Liên Xô) và chúng ta đă phóng đại những nguy cơ mà hành động của họ có thể gây ra cho Hoa Kỳ”.
Ư đồ địa lư chính trị của khối Cộng sản mà McNamara nói đến ở đây là mưu toan thôn tính Cam-bốt, Lào và các nước khác trong vùng Đông Nam Á. Đây là “thuyết domino” được Tổng thống Eisenhower chính thức phát biểu từ tháng Tư 1954 như một mối quan tâm lớn của Hoa Kỳ rằng nếu Việt Nam bị mất vào tay Cộng sản th́ những nước lân bang sẽ lần lượt mất theo. Các chính quyền Kennedy và Johnson đều tiếp tục căn cứ vào “thuyết domino” như một lư do chủ yếu khiến Hoa Kỳ phải can thiệp vào chiến tranh Việt Nam. Khi thấy t́nh h́nh Đông Nam Á vẫn ổn định sau 1975 (trừ Lào trở thành Cộng sản ngay sau Việt Nam và Cam-pu-chia bị nạn Khơ-me Đỏ mười mấy năm rồi cũng trở thành một nước không cộng sản,) McNamara cũng như nhiều chính trị gia và tác giả khác đều kết luận rằng “thuyết domino” hoàn toàn sai lầm. Nhận định như vậy không khỏi vội vàng và nông cạn v́ không t́m hiểu nguyên nhân đă đưa đến kết quả bất ngờ đó.
Mối lo ngại về mưu đồ của khối Cộng sản ở vùng Đông Nam Á trong thập kỷ 1950 là một nỗi lo ngại có căn cứ vững chăi. Mao Trạch Đông vừa thống nhất Trung Quốc đă dùng “biển người” để chiến đấu với Mỹ và Liên Hiệp Quốc ở Triều Tiên trong khi hết ḷng hỗ trợ cho Việt Minh trong chiến tranh Đông Dương. Nikita Khruschev lớn tiếng tuyên bố các cuộc “chiến tranh giải phóng” nhất định thắng lợi và chính McNamara c̣n nhớ lời Khruschev nhắn khối Tây phương là “Chúng tôi sẽ chôn các anh.”29 Vụ Liên Xô phóng vệ tinh Sputnik lên không gian, vụ Liên Xô phong tỏa Tây Bá-linh và sau đó xây “bức tường ô nhục”, vụ Fidel Castro lật đổ Batista ở Cuba và biến xứ này thành một nước cộng sản dưới sự lănh đạo của Mat-scơ-va, tất cả những điều đó chứng tỏ mối đe dọa của cộng sản quốc tế là có thật và “thuyết domino” về chiến tranh Việt Nam không phải là một mối quan tâm thiếu cơ sở.
Hiện tượng “domino” không xảy ra sau chiến tranh Việt Nam không phải v́ Cộng sản không có tham vọng chinh phục Đông Nam Á mà v́ hai nguyên do chính: mâu thuẫn trầm trọng giữa Liên Xô và Trung Quốc, và mâu thuẫn trầm trọng giữa Trung Quốc và Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Nếu không có sự tan vỡ trong quan hệ giữa ba nước cộng sản này, nhất là giữa Trung Quốc và Việt Nam, th́ “thuyết domino” đă trở thành hiện thực. Nói cách khác, v́ mâu thuẫn trầm trọng trong nội bộ cộng sản, hiện tượng domino không c̣n là một mối đe dọa đối với các nước Đông Nam Á. Vấn đề đáng nói là các chiến lược gia Hoa Kỳ đă không nhận ra được điều này từ những năm đầu thập kỷ 1960. Sai lầm lớn của Mỹ là đă không khai thác được những mâu thuẫn trong khối Cộng sản để giải quyết chiến tranh Việt Nam được sớm hơn và thuận lợi hơn.
Điểm số 2: “Chúng ta coi nhân dân và những nhà lănh đạo của miền Nam Việt Nam theo kinh nghiệm của chính chúng ta. Chúng ta nghĩ rằng họ có một khát vọng và một quyết tâm chiến đấu cho tự do và dân chủ. Chúng ta đă xét đoán hoàn toàn sai lầm những thế lực chính trị ở trong nước”.
McNamara đă phê phán nhân dân và những người làm chính trị thật tâm yêu nước của miền Nam qua kinh nghiệm sai lầm của Hoa Kỳ về trường hợp Ngô Đ́nh Diệm và nhóm quân nhân lănh đạo thời đệ nhị Cộng Hoà. Đây là một lối xét đoán “vơ đũa cả nắm” của McNamara, suy luận từ những trường hợp cá biệt để kết luận một cách lạ lùng rằng nhân dân miền Nam Việt Nam không có khát vọng về tự do và dân chủ.30 McNamara không nhận ra rằng chính những nhà làm chính sách Hoa Kỳ đă sai lầm khi chỉ quan tâm đến chuyện chống Cộng hơn là kế hoạch dựng nước, không chú trọng giúp đỡ xây dựng một xă hội công dân (civil society), ngăn chặn độc tài và tham nhũng. Công bằng mà nói, các chính quyền Eisenhower, Kennedy và Nixon đều có chính sách “dựng nước” (nation-building) song song với hoạt động quân sự. Nhưng ngân khoản viện trợ dành cho chương tŕnh này quá ít so với viện trợ quân sự, nhất là không có những điều kiện thi hành và biện pháp kiểm soát hữu hiệu để tránh nạn nhũng lạm khiến cho mục đích của chương tŕnh không đạt được. Những cố vấn thân cận của Tổng thống Diệm như tướng Landsdale hay tiến sĩ Ladejinsky cũng chỉ biết phàn nàn khi ông Diệm không chịu nghe theo những đề nghị cải cách chính trị hay cải cách điền địa. Đúng như nhận xét của Nghị sĩ Mike Mansfield gửi cho Tổng thống Kennedy: “chúng ta không thể hi vọng dùng sức mạnh vũ khí để thay thế cho những thay đổi chính trị, kinh tế và xă hội là những phương cách chống cộng hữu hiệu nhất.”31 Chẳng may ư kiến này đă bị phúc tŕnh Taylor lấn át mất.
Về mặt quân sự, chính sách “lùng và diệt địch” và việc sử dụng hỏa lực thật mạnh một cách bừa băi, nhiều khi chỉ để pḥng ngừa sự tấn công của địch, thường gây thương vong cho nhiều thường dân vô tội. Philip Caputo có nhắc đến một số “qui tắc chiến đấu” của quân đội Mỹ trong chiến tranh chống quân du kích đă giết hại nhiều thường dân hơn bộ đội cộng sản. Chẳng hạn, “bắn một người Việt Nam không mang vũ khí đang bỏ chạy là đúng, nhưng bắn một người đang đứng yên hay đang đi là sai”. Thực tế th́ chỉ có thường dân mới không có vũ khí và bỏ chạy c̣n Việt cộng th́ ẩn núp kín đáo ở một chỗ. Một qui tắc chiến đấu khác là “bộ binh dùng lựu đạn lân tinh (phosphorous grenades) để tấn công một ngôi làng là sai, nhưng phi công chiến đấu ném bom lửa (napalm) xuống đốt phá ngôi làng đó là đúng.” Nguy hại hơn nữa là mệnh lệnh có tính cách buông thả của tướng Greene: “Hăy giết Việt Cộng” (Kill v.c.) Caputo mỉa mai nhận xét, “Trong không khí hăng say yêu nước của thời Kennedy, chúng ta đă tự hỏi: ‘Ta có thể làm được ǵ cho đất nước?’ và đất nước ta đă trả lời: ‘Giết Việt Cộng’ .”32
Tất cả những chính sách và biện pháp áp dụng như vậy, về chính trị cũng như quân sự, thay v́ lấy được ḷng dân (win the hearts and minds of the people) như chính phủ Mỹ mong muốn, rốt cuộc chỉ làm mất ḷng dân và đẩy họ đi theo con đường “chống Mỹ cứu nước” của cộng sản.
Điểm số 3: Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa quốc gia dân tộc là động lực thúc đẩy nhân dân (trong trường hợp này là Bắc Việt và Việt Cộng) chiến đấu và chết cho những niềm tin và giá trị của họ—và chúng ta vẫn tiếp tục lối đánh giá thấp đó cho đến tận ngày nay ở nhiều nơi khác trên thế giới.
Nhận xét này liên hệ chặt chẽ với điểm số 2 trên đây ở chỗ nh́n nhận “Bắc Việt và Việt Cộng” là những người sống chết với chủ nghĩa quốc gia dân tộc, do đó họ có chính nghĩa để chiến đấu tới thắng lợi cuối cùng. Không thấy McNamara nhắc nhở ǵ đến chủ nghĩa cộng sản và phương cách lănh đạo của Bộ Chính trị đảng Lao Động Việt Nam. Ông cũng có vẻ không biết rằng, người cộng sản chỉ nêu cao chính nghĩa quốc gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập cho dân tộc, nhưng trong cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước”, người cộng sản không c̣n tự nhận là những người theo chủ nghĩa quốc gia (nationalism) như ông McNamara đă tuyên dương, mà chỉ nói đến tham vọng và tội ác của đế quốc Mỹ đối với dân tộc Việt Nam. Tệ hại hơn nữa là khi nh́n nhận chỉ có người cộng sản là yêu nước, McNamara đă mặc nhiên kết tội Hoa Kỳ là đế quốc xâm lược.
|