Bộ mặt của thôn quê miền Nam
Có nh́n tận mắt, nghe tận nơi, mới h́nh dung được khuôn mặt miền Nam sau 37 năm dưới chế độ cọng sản. Để được trung thực – người viết ghi những điều thấy và nghe – không b́nh luận – tại những nơi đă đi qua. Thôn quê miền Nam – những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đă có điện. Những làng xă xa xôi hẻo lánh vẫn c̣n sống trong sự tăm tối. Đường sá có tu sửa phần nào. Đường ṃn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle lớn (đường xóm Cái Nứa, Cái Chuối xă Long Mỹ, VL), xe Honda và xe đạp chạy qua được. “Cầu tre lắt lẻo”, cầu khỉ được thay thế bằng cầu ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ). Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận (Cái bè, Cái răng) nay không c̣n thấy nữa. Nhà cửa dọc theo bờ sông Cần Thơ – chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn – c̣n nhiều nhà lá nghèo nàn. Tương tự như vậy – dọc theo bờ sông Long Hồ – một số nhà gạch nhỏ mới cất. xen kẻ những mái lá bạc màu. Vùng Trà ốp, Trà Cú (Vĩnh B́nh), chợ Thầy Phó (Vĩnh Long) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá, nhà tôn. Đường ṃn chạy sâu vào thôn xóm vẫn c̣n đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi. Hai bên đường xe chạy từ Mỹ Tho, Cao Lănh, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cần Thơ. Nh́n chung – có một sự thay đổi rơ rệt. Nhà cửa, hàng quán dầy đặc, động cơ ồn ào, người ta chen chúc. Cảm giác chung là ngột ngạt, khó thở. Những vườn cây xanh um bên đường đă biến mất hoặc thụt sâu vào trong, không c̣n thấy nữa. Không c̣n vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai oằn, mát mắt vùng Cái Bè, An Hữu, vườn mận Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương. Dưới sông – từ kinh Vỉnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang – hai bên bờ toàn là nhà sàn, phía sau chống đở sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc 2, 3 nhà đều có cầu tiêu tiểu bắc phía sau. Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống, phóng uế – cũng cùng trên một ḍng sông. Không có ǵ thay đổi. Làng Chàm c̣n gọi là chà Châu Giang cũng c̣n đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá Basa, cá điêu hồng v. v. ở dọc bờ sông khá dài. Dường như ngành nầy hoạt động khá mạnh. Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông T́ền và sông Hậu – người ta không c̣n thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lănh Mỹ A, chèo ghe tam bản, bơi xuồng như thời trước 75 nữa. Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng, được trả lời: “ Đi lấy Đại Hàn, Đài Loan hết rồi ông ơi! “ Tôi hỏi thêm: “ Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ măi dâm, nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đăi, đánh đập. các cô gái nầy không sợ sao ông? – “ Biết hết – mấy cổ biết hết, báo Tuổi trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Đại Hàn, cho tiền cha mẹ xây nhà gạch. Cô khác thấy vậy ham. Phần nghèo, phần không có việc làm kinh niên. Họ liều đó ông, biết đâu gặp may.
“Câu chuyện gái Việt lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan hiện không ai là không biết. Tờ Tuổi trẻ – số ra ngày mùng 1 Tết năm Đinh Hợi – trong bài: “ Nỗi đau từ những con số”- có nói đến số phận của 65.000 phụ nữ đang làm vợ những ông chồng Đài Loan già, tàn tật đui mù, làm vợ tập thể cho cả gia đ́nh cha lẫn con. Cũng do tờ báo nầy: “Tại một tổ chức kết hôn lậu, hàng chục cô gái đang “bày hàng” để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô gái khác đang nằm, ngồi, lố nhố chờ đến luợt ḿnh “ Và cũng do tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007, viết: “Hơn 60 cô gái, tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Sài g̣n để dự tuyển. Các chàng rể Hàn Quốc được quyền soi xem kỷ, chú ư đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gái.Dich vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng. Chỉ trong ṿng nửa tháng mà Công An đă phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6, 10 và Tân B́nh với gần 400 lượt cô gái hiện diện. Thậm chí – những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập gây náo loạn cả xóm”. Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri Phương t́m quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ: Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường học, để lần luợt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm, được anh trả lời: ‘ “Đó là những người con gái đi lấy chồng Đài Loan và Đại Hàn. Hàng bên trong là những đang làm thủ tục xuất ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là những người đang vào kư giấy hôn thú sau khi đă qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa”. Tôi nh́n kỷ các cô gái nầy tuổi rất trẻ khoản chừng 18 đến 20, đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn- có một người tàn tật. Không thấy có thanh niên trẻ. Nh́n cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện – tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Đây là tổ chức môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề. Song song với tổ chức chánh thức, c̣n có một tổ chức “ môi giới hôn nhân lậu”- sự thật là một tổ chức buôn người, chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái, nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để bán thẳng vào các ổ măi dâm ở Kampuchia, Thái Lan, Ma Cau để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ t́nh dục, các cô gái làm điếm, hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ. Tất nhiên là phải có sự tiếp tay che chở ăn chia của Công An. Nói là lậu nhưng thật ra là nhan nhăn xảy ra hằng tuần – thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các quận B́nh Thạnh, quận 11, Sàig̣n. Cho dù chánh thức hay lậu, hậu quả cũng gần giống nhau. Chánh thức th́ có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh phủ thu tiền lệ phí. Lậu th́ lén lút với sự che chở của Công An. Hậu quả gần giống nhau. Nhiều cô gái về làm vợ mấy tên Đài Loan, Đại Hàn bị ngược đăi, đánh đập tàn nhẫn – ban ngày làm nô dịch, ban đêm phục vụ t́nh dục rồi bán vào động măi dâm lấy tiền gở vốn lại. (Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng ở Đài Bắc là một bằng chứng) C̣n lậu th́ bán thẳng vào ổ điếm.

Biết bao nhiêu thảm cảnh, biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động lương tâm nhân loại. Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu, lên tiếng kêu gọi họ trở về nước. Không thấy Việt Nam nói nửa lời! Những cô gái nầy có biết những thảm kịch đau thương, những sự hành hạ, ngược đăi, đánh đập. nầy khi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn không? Có bị cưỡng bức, bị dụ dỗ hay tự nguyện? Cha mẹ có đồng ư hay cản trở? Nguyên nhân nào đă thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt? Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người – những người con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN. Họ c̣n phải vay tiền mua sắm, ăn diện, hối lộ để đuợc giới thiệu. Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn? Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp. Phó thường dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau: Quá nhiều chương tŕnh ngăn chống lũ lụt, chương tŕnh công nghiệp hóa, đô thị hoá bừa băi, không được nghiên cứu cẩn trọng, đất đai canh tác bị thu hẹp, Dân số gia tăng. Khối lượng đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào. Nông dân miền Nam thiếu đất canh tác. Các cô gái miền Tây quẩn bách v́ không có việc làm kinh niên – cuộc sống vô vọng mịt mờ – có nhiều trường hợp bị thúc đẩy v́ cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến khi so sánh con gái ḿnh với cô con gái làng bên có chồng Đại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ. Và cũng v́ hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS (sinh sau 75) – những người trẻ tuổi không có ư niệm về luân lư đạo đức cũ, thang giá trị bị đảo lộn nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời trước. Do vậy – khi bị dồn vào đường cùng họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn. Nhưng động lực chánh là nghèo.
Nghèo
Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng Đại Hàn và Đài Loan… để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực, vô vọng không lối thoát. Thế nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vựa lúa nuôi sống cả nước – sau 32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy – nghèo hơn cả đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) ? Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng của Tổng cục thống kê Việt Nam – th́ tỷ lệ ĐBSCL năm 1998: ĐBSC: 37%. ĐBSH: 29% . Năm 2002: ĐBSCL: 13 %. ĐBSH: 9%. (Nhà x. b Thống kê – Hànội, trang 13 – LVB trích dẫn) Dù theo tiêu chuẩn nào: tiền tệ (tính bắng tiền hay bằng gạo) – mức sống (bao gồm lương thực, nhà ờ, mức sống văn hóa) – ĐBSCL vẫn nghèo hơn ĐBSH – bởi lẽ khi nghèo về lương thực – th́ khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hoá. Đó là cái nghèo mà anh Lâm văn Bé đă nh́n qua những con số có giá trị của những chương tŕnh nghiên cứu thống kê khoa học. Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nh́n tận mắt, nghe tận nơi của người viết: Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau, ăn bữa sáng lo bữa chiều – cái nghèo của một nông dân, nhà dột nát. khi trời mưa lúc ban đêm, không có chỗ để nằm phải t́m một góc nhà, phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp, trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc… Cái nghèo của một người đi mượn tiền, muợn gạo. tới ngày hẹn không tiền trả. Cái nghèo của một thanh niên thất nghiệp, cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ, mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa, mũi dăi ḷng tḥng đang bốc đất cát chơi ngoài sân. Tục ngữ b́nh dân có câu: Ít ai giàu 3 họ, khó 3 đời. – Có. Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chày lưới. ở sông Long Hồ. Đời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy: nghề đi nhủi tép. Và trên bờ sông Long Hồ năm nay (2011) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào bến, đem miệng nhủi c̣n dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đă nhuộm màu thời gian bạc thếch. Hỏi thăm th́ té ra là con của Tư Te. Đời ông nội – nghèo! Đời cha nghèo! Đời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó. Cọng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo – không đổi đời cho người nghèo thành giàu. Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo. Nói chung th́ nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để canh tác – c̣n công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ thuyền. trong khi dân số lại gia tăng quá tải. Cho nên thất nghiệp không thể tránh. Nghèo là hiện thực. Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một bài phổ biến trên mạng, viết : “Nông dân đă nghèo, đất đă kém đi, nhưng mỗi năm thêm 1 triệu miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất th́ lấy ǵ mà giàu có được? “
Miền Nam – 37 năm dưới chế độ Cộng sản
Kinh tế Việt Nam – trong đó có miền Nam – có chút tiến bộ – so từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửa. Nhưng chỉ là tiến bộ với chính ḿnh. Đối với các nước khác trong vùng th́ c̣n lẹt đẹt, cầm lồng đèn đỏ… Và điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia, để tài trợ các chương tŕnh y tế, giáo dục (hiện nhiều người nghèo không có tiền đóng học phí bậc Tiểu học cho con) – các chương tŕnh tạo công ăn việc làm, phát triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không? Hay là phát triển bằng những con số báo cáo rổng tuếch? Lợi tức tạo được đă bị cả hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể. Và hiện tại – muốn phát triển công nghiệp – nhà cầm quyền địa phương – theo lệnh Đảng – mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đă quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm nhà dân một cách bạo ngược. Ḷng dân phẩn uất, kêu la than khóc. Oán hận ngút trời xanh! (19 Tỉnh miền Nam biểu t́nh khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàig̣n). Như vậy có gọi là phát triển không?
Kết luận
- 37 năm nh́n lại:
Người ta thấy miền Bắc đă “giải phóng” dân Sài g̣n ra khỏi đất đai, nhà cửa của họ. Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau. “Giải phóng” miền ĐBSCL ra khỏi sự trù phú do thiên nhiên ưu đăi từ nhiều thế kỷ. “Giải phóng” quân nhân, viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà, để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển… “ Giải phóng” phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi làm “vợ nô lệ”, đi làm điếm ở Kampuchia, TháiLan.
- 37 năm nh́n lại:
Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ. Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website (2010) – bị trưng bày trong lồng kính, cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour (2011). Chỉ trong năm 2011 – có khoản 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc. (Theo UNI CEF – LHQ và Bộ Tư Pháp Việt Nam)
- 37 năm nh́n lại:
Mượn lời nhà báo Claude Allegre, báo L’expresse ngày 29-8-2011: “Người ta không thể cho qua một cách im lặng những Khơ me đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và những cuộc tàn sát man rợ ở đó. Và Việt Nam không được biết đến như là một chế độ nhân đạo hơn. Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đă chiến thắng các siêu cường quốc – người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi trên xứ sở”
- 37 năm nh́n lại:
Miền Bắc XHCN rơ ràng đă thiết lập một nền đô hộ miền Nam – khắc nghiệt, tinh vi hơn cả thời Pháp thuộc. Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Một trí thức Việt Nam lên tiếng cảnh cáo: “Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Mất cả đất đai, sông núi và dân tộc. Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu.” (Trích Người việt hải ngoại – Nguyễn văn Trấn)