R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: Jan 2008
Posts: 148,093
Thanks: 11
Thanked 14,049 Times in 11,212 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 184
|
5/ Nội dung Công hàm 1958:
Đây mới là điều quan trọng nhứt để bàn căi. VN có thể bị ràng buộc pháp lư ở các điểm nào trong nội dung bản tuyên bố 1958?
Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn:
7. Une déclaration unilatérale n’entraîne d’obligations pour l’État qui l’a formulée que si elle a un objet clair et précis. En cas de doute sur la portée des engagements résultant d’une telle déclaration, ceux-ci doivent être interprétés restrictivement. Pour interpréter le contenu des engagements en question, il est tenu compte en priorité du texte de la déclaration ainsi que du contexte et des circonstances dans lesquelles elle a été formulée.
Tạm dịch: Một tuyên bố đơn phương chỉ có khả năng ràng buộc quốc gia (đă phát biểu) khi nội dung (của bản tuyên bố) có một mục đích rơ ràng và cụ thể. Trong trường hợp có nghi ngờ về mức độ cam kết của tuyên bố, th́ văn bản phải được giải thích một cách hạn chế. Để giải thích nội dung của những cam kết này, ta phải đặt ưu tiên cho văn bản của tuyên bố cũng như bối cảnh và trường hợp mà tuyên bố được thể hiện.
Bà Monique Chemillier-Gendreau giới hạn hiệu lực của công hàm 1958 ở « bề rộng lănh hải ». Bà viết như sau:
«La déclaration de Pham Van Dong se tient strictement, il est vrai, à la reconnaissance de la largeur de la mer territoriale chinoise. Il est donc inexact de soutenir que le Viet Nam aurait ainsi «réaffirmé sa reconnaissance de la prétention chinois» sur les archipels ».
Tạm dịch: Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng chỉ hạn chế ở việc nh́n nhận bề rộng lănh hải của Trung Quốc. Cho rằng Việt Nam «tái xác định việc công nhận chủ quyền của Trung Quốc» ở các quần đảo là điều không đúng.
TS Nguyễn Hồng Thao cũng có cái nh́n tương tự, công hàm chỉ nhằm mục đích công nhận lănh hải 12 hải lư. Ông cũng cho rằng công hàm có giá trị về chính trị hơn là pháp lư:
La note exprimant un engagement plus politique que juridique, une forme courante utilisée par des pays socialistes pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet précis de soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles marins de la mer teritoriale.
Tạm dịch: Lá thư biểu lộ một sự liên kết về chính trị hơn là pháp lư, một h́nh thức thông dụng đă được các nước trong khối XHCN sử dụng để bày tỏ t́nh đoàn kết ư thức hệ. Lá thư có mục tiêu rơ rệt ủng hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lănh hải 12 hải lư.
Ông Lưu Văn Lợi cũng viết tương tự:
«Xem nguyên văn bức thư của ông Phạm Văn Đồng người ta thấy bức thư chỉ có một nội dung là ủng hộ Trung Quốc quy định hải phận rộng 12 hải lư và hứa sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phải tôn trọng quy định 12 hải lư.
Nội dung đó không hề nói đến vấn đề lănh thổ, càng không nói ǵ đến vấn đề các quần đảo. Nội dung chỉ có thế, sao lại xuyên tạc là “sự công nhận” Hoàng Sa là của Trung Quốc?»
Trong bài phỏng vấn tiến sĩ Balazs Szalontai của BBC, ta cũng t́m thấy ư nghĩa khá giống như vậy:
Dẫu vậy, ông (Phạm Văn Đồng) có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với hải phận 12 hải lư dọc lănh thổ của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về lănh thổ này. Mặc dù tuyên bố trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, th́ tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào về lănh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.
Chiếu theo tinh thần khoản 7 của Nguyên tắc Hướng dẫn, nếu nội dung văn bản không rơ rệt (việc nhà nước VNDCCH sẽ “ghi nhận và tán thành” cái ǵ) th́ việc diễn giải nội dung tuyên bố này phải giải thích một các hạn chế. Đó là điều mà quí vị Monique Chemillier-Gendreau, Nguyễn Hồng Thao, Lưu Văn Lợi và tiến sĩ Balazs Szalontai đă diễn giải.
Nhưng văn bản có hai đoạn văn: Đoạn 1 «ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc». Đoạn 2: chỉ thị cho các cơ quan nhà nước triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung Quốc.
Các vị này chỉ nói về đoạn văn thứ hai mà không xem xét đoạn văn thứ nhứt của công hàm 1958.
Nội dung của tuyên bố 4-9-1958 về hải phận của TQ là một tuyên bố khẳng định chủ quyền về lănh thổ.
Ông Phạm Văn Đồng, tác giả công hàm 1958, đă có ư kiến về công hàm này. Nhà báo Frank Ching trong bài “Paracel Islands Dispute” trên Far Eastern Economic Review ngày 10-02-1994 ghi lại lời của Phạm Văn Đồng về nguyên nhân và nội dung công hàm 1958. Ông Đồng nói ngắn gọn, nhưng rơ rệt:
“Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đă phải nói như vậy”.
Cũng trong bài báo của Frank Ching nói trên, có ghi lại lời ông Nguyễn Mạnh Cầm:
“Các nhà lănh đạo của chúng tôi đă có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lănh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đă phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hăn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đă phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, t́nh hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đă cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đ̣i hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lănh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết v́ nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.”
Như thế công hàm 1958 không phải chỉ “ủng hộ” bề rộng lănh hải 12 hải lư như bà Monique Chemillier-Gendreau,TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi hay tiến sĩ Balazs Szalontai đă nói. Những người trong cuộc, ông Phạm Văn Đồng và ông Nguyễn Mạnh Cầm, đă nh́n nhận nội dung công hàm 1958 là công nhận chủ quyền của TQ ở HS và TS. Ông Phạm Văn Đồng biện hộ “nói vậy” v́ lúc đó là “thời kỳ chiến tranh”. Ông Cầm th́ biện hộ v́ HS và TS thuộc miền Nam quản lư, việc ủng hộ là “cần thiết v́ nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc”.
Nội dung công hàm 1958 sẽ rơ rệt hơn, nếu quí vị học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi hay tiến sĩ Balazs Szalontai xem xét thái độ của VNDCCH từ năm 1954 cho đến năm 1975 về hai quần đảo HS và TS. Ta sẽ t́m thấy nhiều bằng chứng nhà nước VNDCCH tôn trọng nội dung công hàm 1958. Trường hợp các bản đồ in sau 1958 một số có ghi HS và TS dưới tên Tây Sa và Nam Sa đồng thời ghi chú thuộc TQ. Hay các bài báo đăng trên báo Nhân Dân, xác định vùng biển, vùng trời HS thuộc TQ v.v… Các động thái này cho thấy chính phủ VNDCCH nh́n nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS. Và đó cũng là mục đích của công hàm 1958.
Mặt khác, bà Monique Chemillier-Gendreau có viết:
«Néanmoins, son silent devant l’affirmation de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme un acquiescement, et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration relative aux zones de combat et les articles du Nhan Dan.»
Tạm dịch: dầu vậy, sự im lặng (của nhà nước VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể được hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố liên quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân.
Tuy đoạn văn này nối liền với đoạn văn dẫn trên của học giả Monique Chemillier-Gendreau nhưng không thấy học giả VN nào nói tới.
Thử xét thêm lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm. V́ HS và TS do VNCH quản lư do đó công hàm 1958 không hiệu lực. Ở điểm này, học giả Monique Chemillier-Gendreau cũng có cái nh́n tương tự: “người ta không thể cho cái mà người ta không có”.
Tuy nhiên, theo nội dung Hiệp định Genève 1954, nước Việt Nam là duy nhứt. Trên thực tế, VN có hai vùng lănh thổ do hai chính phủ khác nhau về ư thức hệ lănh đạo, nhưng trên quan điểm luật pháp quốc tế nước VN chỉ có một. Ông Cầm không thể viện dẫn việc HS và TS do VNCH quản lư th́ có thể tuyên bố chủ quyền các quần đảo này của nước nào cũng được. Bởi v́, HS và TS thuộc bên nào quản lư th́ chúng cũng thuộc về một nước Việt Nam duy nhứt. Khi chủ trương một quốc gia duy nhứt, hai nhà nước lănh đạo hai vùng lănh thổ khác biệt, đều có bổn phận như nhau trong việc bảo toàn lănh thổ, cho dù phần lănh thổ này do bên này hay do bên kia quản lư.
Mặt khác, lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm, cũng như của ông Đồng, đă xóa bỏ lập luận “công hàm chỉ nói đến hải phận 12 hải lư mà không nói đến vấn đề chủ quyền” của các học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi và tiến sĩ Balazs Szalontai về nội dung công hàm 1958. Nội dung công hàm bao gồm việc nh́n nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Học giả Greg Austin, trong cuốn China Ocean’s Frontiers, có ư kiến:
Of all the items of evidence presented by the PRC as proof of DRV recognition of Chinese sovereignty over the Paracel Islands, the most conclusive may be the note from the DRV Prime Minister supporting the PRC territorial sea declaration. The note was a government to government communication. And its subject was territorial sovereignty over, inter alia, the Paracel Islands; and the DRV not only raised no objection to the PRC claim but supported it.
Tạm dịch: Trong tất cả các yếu tố do TQ đưa ra làm bằng chứng cho việc VNDCCH đă thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Quần đảo Hoàng Sa, yếu tố có tính thuyết phục nhứt có thể nói là công hàm của Thủ Tướng VNDCCH ủng hộ tuyên bố về lănh hải của nước CHND TH. Công hàm này là một văn kiện trao đổi giữa chính phủ với chính phủ. Chủ đề của công hàm là chủ quyền lănh thổ, trong đó có Quần đảo Hoàng Sa. Nước VNDCCH không những đă không phản kháng tuyên bố chủ quyền của CHND TH mà c̣n ủng hộ nó.
Nhấn mạnh ở câu: Nước VNDCCH không những đă không phản kháng tuyên bố chủ quyền của CHND TH mà c̣n ủng hộ nó.
6/ Về hoàn cảnh ra đời công hàm 1958:
Hầu như các bài viết của các học giả VN đều vịn vào lư do “chiến tranh”, lư do căng thẳng eo biển Đài Loan ở thời kỳ đó, lư do hai nước VN và TQ là “đồng chí, anh em” trong khối xă hội chủ nghĩa,… để biện hộ cho sự xuất hiện công hàm 1958. TS Nguyễn Hồng Thao, trong sách đă dẫn, viết:
La note de Pham Van Dong a pour but de satisfaire une demande de la Chine aux pays du camps socialiste en vue de la soutenir dans sa lutte contre la politique poursuivie par des Américains dans le détroit de Formose, qui menacait la sécurité nationale à l’époque. La note exprimant un engagement plus politique que juridique, une forme courante utilisée par des pays socialistes pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet précis de soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles marins de la mer teritoriale.
Tạm dịch: Lá thư của Phạm Văn Đồng có mục đích nhằm thỏa măn việc yêu cầu, nhắm đến các nước trong khối XHCN, nhằm ủng hộ TQ trong cuộc đấu tranh chống lại khuynh hướng chính trị theo đuổi của Hoa Kỳ ở eo biển Đài Loan, thời kỳ đó đă đe dọa an ninh quốc gia nước này. Lá thư biểu lộ một sự liên kết về chính trị hơn là pháp lư, một h́nh thức thông dụng đă được các nước trong khối XHCN sử dụng để bày tỏ t́nh đoàn kết ư thức hệ. Lá thư có mục tiêu rơ rệt ủng hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lănh hải 12 hải lư.
Trang web BBC có tóm lược bài viết của “nhóm phóng viên biển Đông” đăng trên tờ Đại Đoàn Kết, nội dung như sau:
bối cảnh của bản Công hàm 1958 gửi Thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc là thời điểm “có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về t́nh h́nh lănh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan”.
Trong bối cảnh đó, bản công hàm được giải thích là “đơn giản chỉ là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp”, tức “chỉ là những tuyên bố mang tính chính trị và ngoại giao chứ hoàn toàn không có ư nghĩa pháp lư”.
Trên VOA, có bài phỏng vấn TS Hoàng Việt:
Trước hết là về bối cảnh đưa ra công hàm mà năm 1958 ông Phạm Văn Đồng đă kư. Thứ nhất là lúc đó quan hệ Việt Nam-Trung Quốc vẫn c̣n như là anh em, vừa là đồng chí vừa là anh em. Năm 1949, Quân Giải phóng Việt Nam c̣n tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lănh thổ của Trung Quốc, sau đó trao trả lại cho Trung Quốc. Thế rồi sang năm 1957 Trung Quốc chiếm lại từ tay một số lực lượng khác đảo Bạch Long Vĩ và sau đó đă trao trả lại cho Việt Nam.
Muốn nói tới câu chuyện đó để làm ǵ? Đấy là lúc đó hai nước t́nh cảm rất là chặt chẽ với nhau.
Đă ghi ở trên, ông Đồng giải thích bối cảnh ra đời công hàm:
“Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đă phải nói như vậy”.
Lời giải thích này đă xóa đi tất cả những lư lẽ «v́ hoàn cảnh» mà các học giả đưa ra để cố gắng hóa giải hiệu lực công hàm 1958. Bởi v́ ai gây chiến tranh ? Dĩ nhiên là phía VNDCCH. Chiến tranh không phải là t́nh huống bắt buộc. Chỉ cần phía VNDCCH ngưng chiến tranh th́ ông Đồng sẽ không phải «nói như vậy». Tức đă không kư công hàm, đă không nhượng trên giấy tờ chủ quyền HS và TS cho TQ.
Nhà báo Frank Ching nhận xét lời giải thích này như sau:
Vậy th́ ai đă tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đă chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.
Trong khi bối cảnh thực sự mà tuyên bố của TQ ra đời, theo TS Balazs Szalontai :
BBC:Theo nhận định của ông, lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đă được viết trong hoàn cảnh nào?
Tiến sĩ Balazs Szalontai: Trước tiên, ta nói về tuyên bố của Trung Quốc. Nó ra đời trong bối cảnh có Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1956 và các hiệp định được kư sau đó năm 1958. Lẽ dễ hiểu, Trung Quốc, mặc dù không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc, cũng muốn có tiếng nói về cách giải quyết những vấn đề đó. V́ lẽ đó ta có tuyên bố của Trung Quốc tháng Chín 1958.
Điều này tác giả cũng đă nói ở phần trên, đây mới là bối cảnh đúng đắng về hoàn cảnh ra đời bản tuyên bố của TQ. Sau khi Hội nghị của LHQ về Biển ngày 29-4-1958 thông qua bốn Công ước gồm : Công ước về lănh hải và vùng tiếp giáp lănh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Các quốc gia thuộc LHQ có thể kư nhận các công ước này ở thời điểm giới hạn là 31-10-1958. V́ không phải là một thành viên của LHQ, tuyên bố của TQ là cần thiết để khẳng định những đ̣i hỏi của nước này về lănh hải và vùng tiếp cận.
Điều đáng trách là các học giả VN không một người nào nhắc đến Nghị định thư nói về thể thức giải quyết tranh chấp cũng được Hội nghị LHQ thông qua cùng lúc với 4 công ước. Nghị định thư ghi rơ thể thức ḥa giải trong các trường hợp có mâu thuẩn quyền lợi giữa các nước trong khi áp dụng các công ước. Dĩ nhiên ta thấy VN và TQ có mâu thuẩn về chủ quyền HS và TS. Tranh chấp này bắt đầu từ năm 1909, phía VNDCCH không thể nói là ḿnh không biết.
Như thế, việc dựa vào các lư do «hoàn cảnh» này kia, t́nh đồng chí anh em, t́nh trạng « chiến tranh »… để giảm thiểu hiệu lực công hàm 1958 (theo Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn) là điều hoàn toàn không thuyết phục.
«Hoàn cảnh» đúng, là bối cảnh Hội nghị LHQ 1958 về luật Biển, đ̣i hỏi VN phải có «ư kiến» về tuyên bố của TQ. Nguyên tắc một quốc gia VN duy nhứt buộc các chính phủ ở hai vùng lănh thổ đều có trách nhiệm như nhau về lănh thổ. Một vùng lănh thổ thuộc bên nào quản lư cũng thuộc về quốc gia VN duy nhứt. Thay v́ phải ra tuyên bố bảo lưu chủ quyền của ḿnh ở HS và TS, VNDCCH lại ra công hàm công nhận tuyên bố của TQ.
Vịn vào hoàn cảnh «t́nh trạng chiến tranh», nhưng bên gây chiến là phía VNDCCH. Chỉ cần bên này ngừng chiến th́ công hàm 1958 sẽ không hiện hữu.
Vịn vào lư do «đồng chí anh em» lại càng không thuyết phục. Trên quan điểm quốc tế công pháp, t́nh «đồng chí anh em» chưa bao giờ được một bên tranh chấp vịn vào để được hưởng trường hợp giảm khinh.
Tác giả dẫn ra thí dụ sau đây, cho thấy một lời nói “qua lại” b́nh thường giữa hai viên chức quốc gia, xảy ra trong một buổi gặp gỡ không chính thức, nó cũng có giá trị ràng buộc pháp lư. Đó là trường hợp tuyên bố của Bộ trưởng bộ Ngoại giao Na Uy, ông Ihlen, về chủ quyền của Đan Mạch ở Groenland ngày 22-7-1919.
Trong dịp gặp gỡ giữa hai thủ tướng hai nước Na Uy và Đan Mạch. Ông bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đan Mạch nói rằng quốc gia Đan Mạch không quan tâm đến vùng lănh thổ Spitzberg, chính phủ của ông sẽ không phản đối việc Na Uy hành sử chủ quyền ở vùng đất này. Ông nói tiếp rằng quốc gia Đan Mạch mong muốn được mở rộng thẩm quyền về kinh tế và chính trị trên ṭan vùng Groenland. Ông hy vọng việc này không bị Hoa Kỳ cũng như Na Uy phản đối.
Trả lời, Thủ tướng Na Uy, ông Ihlen nói rằng: «the Norwegian Government would not make any difficulties in the settlement of this question».
Tạm dịch: Chính phủ Na Uy sẽ không làm một khó khăn nào trong việc giải quyết vấn đề này.
Đến khi tranh chấp Groenlan giữa Na Uy và Đan Mạch được đưa ra Ṭa Án Công lư Quốc tế (CIJ) phân giải th́ « lời nói » của ông Ihlen được ṭa nh́n nhận là một « tuyên bố đơn phương», có hiệu lực ràng buộc pháp lư. Tuyên bố này nổi tiếng, trở thành một trường hợp nghiên cứu cho Luật quốc tế, được đặt tên là «Tuyên bố Ihlen».
Tuyên bố Ihlen có thể so sánh với trường hợp «lời nói» của ông Ung Văn Khiêm, thứ trưởng bộ Ngoại giao VNDCCH, nhân dịp gặp gỡ các viên chức ngoại giao TQ năm 1956. Ông Ung Văn Khiêm có tuyên bố với Li Zhimin, tham tán sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam như sau : chiếu theo tài liệu VN th́ HS và TS thuộc về TQ. Ông Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào : Theo sử liệu VN th́ HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đă có đăng lại trong bài « Chủ quyền không thể tranh căi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa».
|