R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: Jan 2008
Posts: 148,103
Thanks: 11
Thanked 14,049 Times in 11,212 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 184
|
“Tôi không nói tôi sẽ làm ǵ nhưng khi tất cả mọi người ở đây chống lại ông th́ ông làm ǵ được?” (Years of Renewal trang 491).
Thượng nghị sĩ Jackson cho biết năm ngoái ông bỏ phiếu cắt 300 triệu này và năm nay ông không ủng hộ việc trả lại khoản này. Vấn đề cuộc chiến VN không thể giải quyết bằng cấp thêm 300 triệu về đạn dược.
Hố cách biệt giữa Quốc Hội và Hành pháp khó mà bắc cầu qua được. Khoản viện trợ này cần phải được chấp thuận từ tháng 3/1975, chậm trễ sẽ khiến Quân đội VNCH mất tinh thần v́ thiếu thốn tiếp liệu đạn dược, tử thương lên cao. Khi Quốc hội tỏ ra thờ ơ với khoản viện trợ bổ túc, Hà Nội biết là chắc ăn trong chiến dịch tổng tấn công sắp tới. Quốc hội càng xa lánh VN, Sài G̣n ngày càng mất tinh thần, Sài G̣n càng yếu th́ Quốc hội càng chống đối và nhấn mạnh ở việc chấm dứt chiến tranh, đó là cách nói bóng bẩy thực ra chỉ là “xiết cổ đồng minh” của chúng ta.
(the more congressional oppposition insisted on the need to “end the war” – its euphemism for strangling our allies – Sách kể trên, trang 493).
Những người chống viện trợ nói chính phủ t́m giải pháp chính trị hơn là quân sự nhưng thực tế cho thấy Hà Nội không bao giờ đếm xỉa tới ngoại giao mà chỉ có quân sự, nếu ta không có sức mạnh th́ không thương thuyết ǵ với họ được. Trong khi Hà Nội chọn giải pháp chiến thắng quân sự tại miền nam, Hoa Thịnh Đốn vẫn bàn vu vơ về số tiền viện trợ 700 triệu cho VNCH, thật ra nó chỉ bằng 1/4 của năm 1973.
Ngày 20/1/1974 Bullington, viên chức ngoại giao đặc trách về VN sau khi viếng Sài G̣n cho biết 300 triệu không thấm ǵ, không đủ thay thế sửa chữa các cơ phận. Nếu không được cấp thêm th́ miền nam không hy vọng tồn tại. Theo Kissinger khi Hà Nội tấn công Phước Long ồ ạt, Quốc hội không tỏ phản ứng, không thấy họ tỏ sự quan tâm nào về viện trợ bổ túc cũng như một h́nh thức giúp đỡ nào, Kissinger cũng cho biết may mà có người trong hành pháp chia xẻ quan điểm cơ bản với ông, người đó chính là TT Ford, rút lại chỉ c̣n Ford và Kissinger c̣n nghĩ tới việc yểm trợ đồng minh.
Dưới áp lực truyền thông và Ban Tham mưu khuyên nên từ bỏ VN và từ bỏ Kissinger. Ford bị các đồng viện cũ từ chối ủng hộ nhưng ông vẫn b́nh tĩnh và kiên quyết nhưng cả hai Ford và Kissinger đều bất lực để ngăn cản bước tiến của CSBV. Hành pháp gửi văn thư kêu gọi Moscow, Bắc Kinh, Hội đồng Bảo an và phản đối với 11 phe, nước đă kư bảo đảm Hiệp định Paris nhưng không có hiệu quả ǵ. Chính phủ gửi thư cho những nước tham dự ḥa đàm không phải VN và bốn nước trong Ủy ban quân sự bốn bên kiểm soát đ́nh chiến Canada, Hungary, Ba Lan, Nam Dương nhưng chỉ được vài nơi trả lời mơ hồ, họ chán chiến tranh VN, đa số thầm lặng.
Những người lớn tiếng to mồm tại Quốc hội và giới truyền thông tạo ra cuộc tranh luận và chống đối dữ dội những ư kiến đối lập. Họ chống liên hệ, chống giúp đỡ đồng minh VN, cuộc chống đối lên tới đỉnh cao, họ mở chiến dịch qui mô chống lại việc cấp phương tiện tự vệ cho các nước Đông Dương Việt, Mên Lào. Số báo Los Angeles Times ngày 6 tháng 3/1975 không những kêu gọi bỏ viện trợ bổ túc mà c̣n đề nghị cắt bỏ thật nhiều số viện trợ 700 triệu đă được chấp thuận từ trước.
Họ lư luận ta cần phải đặt mức độ viện trợ cho miền nam VN để khuyến khích Nguyễn Văn thiệu theo đường lối chính trị ḥa giải và nhân nhượng chứ không phải để khuyến khích ông ta củng cố chế độ cá nhân của ông ấy.
Họ ngụy biện cho việc xiết cổ đồng minh đang cần giúp đỡ.
Quốc hội Mỹ tŕ hoăn viện trợ, thượng nghị sĩ Humphrey đề nghị cử một phái đoàn Quốc hội đi thăm Sài G̣n để được trợ giúp chính xác hơn , thực ra họ để cho Sài G̣n từ từ tắt thở. TT Ford ngờ vực đó chỉ là cách từ chối khéo. Cuối cùng một thượng nghị sĩ và bẩy dân biểu tới Sài g̣n quan sát vào đầu tháng 3/1975 nói là để thẩm định t́nh h́nh trước khi khi quyết định bỏ phiếu, sự thực họ chỉ làm mất th́ giờ vô ích trong khi VNCH đang ngắc ngoải. Họ rời Sài G̣n th́ Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột ngày 10/3, mấy ngày sau 13/3 khi BV chiếm được Ban Mê Thuột, Quốc hội Mỹ mà đa số là Dân chủ phản chiến đă chống mọi h́nh thức viện trợ cho miền nam VN.
Một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột, TT Thiệu bay ra Cam Ranh họp các Tướng Cao Văn Viên, Trân Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Phạm Văn Phú để bàn kế hoạch triệt thoái Cao nguyên rút về Tuy Ḥa theo đường số 7. Cuộc triệt thoái bị Cộng quân truy kích gây thiệt hại nặng, tới cuối tháng 3/1975, một phần v́ kế hoạch tái phối trí sai lầm của TT Thiệu, một phần v́ hỏa lực yếu kém của VNCH do cắt giảm viện trợ đă khiến cho cả hai Quân khu tan ră trong ṿng hai tuần lễ.
Siết chặt lần cuối cùng.
VNCH mất hai Quân khu Một và Hai, mất luôn hai Quân đoàn Một và Hai trong hai tuần lễ từ 14/3 tới 30/3/75. Ta mất 5 Sư đoàn bộ binh (22, 23, 1, 2, 3), 11 liên đoàn Biệt động quân, mất gần hết 2 Sư đoàn tổng trừ bị, vũ khí đạn dược coi như mất hết.
Kissinger và Ford đă cử Tướng Weyand, Tham mưu trưởng tới Sài G̣n để thẩm định t́nh h́nh quân sự trong một tuần kể từ 28/3/1975, ông trở lại Hoa Kỳ ngày 4/4/1975. Weyand đề nghị cho oanh tạc bằng B-52 trở lại và đồng thời xin viện trợ khẩn cấp722 triệu cho quân đội VNCH, điều xin tái oanh tạc sẽ trái luật, khoản viện trợ trên đây rất lớn trong khi kinh tế đang suy thoái và chỉ có một ít người tin là có thể giúp VNCH cầm cự được.
Tướng Weyand cũng như Kissinger dù không tin là Quốc hội có thể cấp cho khoản tiền lớn này nhưng cũng đề nghị TT Ford đưa ra Quốc Hội để giữ uy tín cho Hoa Kỳ trên thế giới, chứng tỏ Hoa Kỳ không bỏ rơi Đồng minh.
“Ít ngày sau dân biểu Whitten thuộc tiểu bang Mississipi đă hỏi Tướng Weyand
“Đề nghị của ông dựa trên cơ bản nào trừ việc chỉ làm cho có h́nh thức, khi chúng ta đều biết chắc là sắp thua rồi?.
Tướng Weyand trả lời: “Thưa ông, cái cách mà chúng ta làm hay cái h́nh thức như ông nói nó cũng quan trọng như thực chất của vấn đề vậy”
Walter Isaacson, Kissinger A Biography trang 641.
Kissinger phản đối đề nghị xin tái oanh tạc của Weyand v́ sợ người dân chống đối, xuống đường biểu t́nh. Đa số cố vấn của TT Ford đều chống đối đề nghị xin viện trợ trước bầu không khí phản chiến của Lập pháp. Vả lại năm 1974, 1975 kinh tế Mỹ bị suy thoái nặng, tỷ lệ thất ghiệp cuối năm 1974 lên 7.1, đầu năm 1975 lên 8.1 càng khiến cho việc xin cấp viện trợ thật mong manh.
Bộ trưởng quốc pḥng Schlesinger cũng chống xin viện trợ, ông cho là t́nh h́nh miền nam VN nay không hy vọng ǵ. Kissinger đồng ư t́nh h́nh không thể cứu văn nổi nhưng cho rằng đề nghị xin Quốc hội viện trợ 722 triệu là để cứu văn danh dự cho Hoa Kỳ. Ford đồng ư mặc dù không nhiệt tâm lắm.
Ngày 10/4/1975 Ford ra Quốc hội xin 722 triệu, Kissinger soạn diễn văn cho Tổng thống, có ư chỉ trích Quốc hội đă hủy hoại Hiệp định Paris. Tại Quốc hội không khí tiếp đón lạnh nhạt, không có có ai vỗ tay. Khi Tổng thống ngỏ lời xin viện trợ th́ có hai dân biểu Dân chủ bỏ ra khỏi pḥng họp. Quốc hội lẫn người dân đều không ai c̣n muốn ủng hộ cuộc chiến tranh VN, chỉ có TT Ford và Tiến sĩ Kissinger là hai người cuối cùng của guồng máy chính quyền c̣n muốn cứu miền nam VN.
TT Ford yêu cầu Quốc hội chấp thuận ngân khoản 722 triệu và ấn định thời hạn 10 ngày để Quốc hội biểu quyết v́ t́nh h́nh cấp bách của VNCH. Như Kissinger đă nói, việc đưa ra Quốc hội ngân khoản này chỉ để cứu vớt chút uy tín cho Hoa Kỳ, chứng tỏ cho thế giới biết người Mỹ vẫn hết ḷng để cứu Đồng minh. Chính Kissinger cũng như Ford đều đă biết rơ thực trạng t́nh h́nh chống chiến tranh VN của Lập pháp.
Ngày 18/4/1975 ngân khoản viện trợ khẩn cấp 722 triệu Mỹ kim đă bị Quốc hội bác bỏ, Sư đoàn 18 rút bỏ Xuân lộc ngày 20/4. Hôm sau 21/4 /1975, TT Thiệu từ chức. Cộng quân dốc toàn lực gần 20 Sư đoàn bao vây Sài G̣n với hỏa lực áp đảo . Quân đội VNCH thiếu hụt nhân sự, đạn dược tiếp liệu kiệt quệ hầu như bất lực trước sức tấn công của địch và sụp đổ ngày 30/4/1975.
Nhiều người Mỹ và cả người Việt Quốc gia cho rằng TT Thiệu sai lầm trong kế hoạch tái phối trí lực lượng để mất miền Nam, thậm chí một vị Tổng thống Hoa Kỳ gần đây c̣n cho rằng VNCH thua trận v́ họ không chịu đánh chỉ chờ Mỹ đánh dùm!! Sự sai lầm của ông Thiệu khiến nhiều người Mỹ nhân cơ hội đổ trách nhiệm cho miền Nam đă gây lên tấn thảm kịch 30/4/1975.
Nay sự thật đă rơ ràng, sự sai lầm của TT Thiệu chỉ là nguyên nhấn gần, thực ra như đă nói ở trên ngay từ 1969, 1972 Lập Pháp Mỹ đă quấn dây thừng định xiết cổ Đông Dương nhưng chưa thực hiện được. Dần dần đảng Dân chủ phản chiến ngày càng củng cố quyền lực tại Quốc hội, họ ngày càng thắt chặt sợi dây thừng quấn quanh chân tay, ḿnh nạn nhân từ 1973 bằng biện pháp cắt giảm quân viện dần dần.
Theo bản tin của BBC.com ngày 10/5/2006 một buổi hội thảo qui mô tổng kết cuộc chiến tranh Việt Nam đă được tổ chức tại Sài G̣n trong hai ngày 14 và 15/4/2006. Trong số các bài đọc ở hội thảo, tác giả Trần Tiến Hoạt và Lê Quang Lạng thuộc Viện Lịch sử Quân sự Cộng sản Việt Nam có bài tham luận về nguồn chi viện của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xă hội chủ nghĩa dành cho miền Bắc trong cuộc chiến. Giai đoạn 1969-1972 BV được Nga, Trung Cộng viện trợ 684,666 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.
Theo Kissinger (Years of Renewal trang 481) CSBV đă xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Thàng 12/1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, sau đó Sô Viết đă chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng kế tiếp. Nga khuyến khích BV gây hấn.
Tại chính trường cũng như trên toàn nước Mỹ trước ngày TT Nixon từ chức 8/8/1974, số người ủng hộ cuộc chiến chỉ c̣n đếm trên đầu ngón tay ngoài Nixon, Kissinger và một vài một vài phụ tá thân cận. Vào những ngày cuối cùng của miền nam VN, khi mà người Mỹ đă chán ngấy cuộc chiến sa lầy, chỉ c̣n hai người có chút t́nh với sự tồn tại của người bạn đồng minh, quanh quẩn chỉ có Ford và Kissinger. Ngay cả Nội các, Cố vấn, Phụ tá… cũng đă can ngăn Tổng thống đừng dính dáng vào cuộc chiến VN.
Quốc hội đă biết rơ lực lượng CSBV rất hùng hậu nhưng họ vẫn cắt giảm viện trợ miền Nam cho tới khi bị đối phương đè bẹp. Những sợi dây thừng quấn quanh cổ miền nam VN từ 1973, 1974 không phải của Văn Tiến Dũng, của Hà Nội mà chính của Lập pháp Hoa Kỳ. Từ sau Hiệp định Paris, sợi dây thừng trói chân tay miền nam VN dần dần xiết chặt qua các đợt cắt giảm quân viện 1973, 1974, 1975, cuối cùng qua bác bỏ các khoản viện bổ túc tháng 3/1975, viện trợ khẩn cấp tháng 4/1975.
Khi ấy sợi dây thừng đă siết cổ xong nước Việt Nam Cộng Ḥa
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
—————————————
Tài Liệu Tham Khảo
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam-The Free press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985
Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown and company 1974
Robert Dallek: Partners In Power, Nixon and Kissinger – Harper Collins publishers 2007
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
Stanley Karnow: Vietnam, A History, A Penguin Books 1991
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war
Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
|