Có xứng đáng với thất bại đó không?
Cho đến nay, cả thế giới chỉ nhỉn nhận chiến thắng của phe cộng sản và không hề nhắc tới thất bại của nhận dân miền Nam. Sự thật này không làm vừa ḷng một ai nhưng đó là một sự thật: chế độ Việt Nam Cộng Ḥa xứng đáng với thất bại 30 tháng 4.
Nhận định đầu tiên là Mỹ bỏ rơi chế độ Việt Nam Cộng Ḥa nhưng không bỏ rơi dân chúng miền Nam như nhiều người lầm tưởng, bằng chứng là cộng đồng người Việt tị nạn tại Mỹ đông đảo nhất với hơn một triệu người sau 1975, ngày nay con số này đă tăng gấp ba. Người Mỹ can thiệp vào Việt Nam với một sứ mệnh đặc biệt: cô lập, bao vây và phân tán lực lượng quân sự Liên Xô, sứ mệnh đó đă hoàn tất sau 1972 khi tái lập được quan hệ với Bắc Kinh và tách Trung Quốc ra khỏi quỹ đạo Liên Xô. Quà tặng cho sự trở mặt này ít ai chú ư tới vào thời điểm đó là quần đảo Hoàng Sa. Hơn nữa kho đạn khổng lồ sản xuất sau thế chiến II đă có nơi trút bỏ, chiến trường Việt Nam đă là nơi thử nghiệm những loại vũ khí mới có tầm hủy diệt lớn trong mục đích đe dọa Liên Xô, số tiền hàng trăm tỷ USD mà Hoa Kỳ đổ vào Việt Nam là trị giá của kho vũ khí đó chứ không phải là số tiền họ giúp chế độ Việt Nam Cộng Ḥa tồn tại.
Nhận định thứ hai là chế độ Việt Nam Cộng Ḥa không được tôn vinh. Sách báo, tài liệu và phim ảnh nói về cuộc chiến Việt Nam và ngày 30/4/1975 do người nước ngoài thực hiện không hề vinh danh sự dũng cảm của quân đội và nhân dân miền Nam, người ta chỉ thấy quân đội Hoa Kỳ và quân đội cộng sản đụng độ trực tiếp với nhau và dân chúng miền Bắc dũng cảm chống trả những đợt dội bom của Mỹ. Khi nói về chế độ miền Nam, người ta chỉ nhắc đến những khía cạnh tiêu cực: tướng lănh bất tài, huênh hoang và tham nhũng, tệ nạn đĩ điếm tràn lan, trong khi dân chúng miền Nam chịu đựng nhiều gian khổ nhất: chạy nạn cộng sản, nhà cửa bị đốt phá, ám sát, khủng bố… nhưng không ai nhắc tới. Điều này cho thấy sự yếu kém về mặt tuyên truyền của chính quyền miền Nam, ngoài bộ phim “Chúng tôi muốn sống”, không có một có gắng đầu tư đáng kể nào để vinh danh quân đội và nhân dân miền Nam trước cuộc xâm lăng của phe cộng sản miền Bắc. Thêm vào đó, chính quyền miền Nam thiếu vắng một đội ngũ cán bộ chính trị có tầm vóc, các chương tŕnh huấn luyện cán bộ và sĩ quan chỉ đào tạo những cấp thừa hành chứ không phải những cấp lănh đạo. Cho dù là công chức cao cấp hay tướng lănh trong quân đội, tất cả chỉ là những người thừa hành. Do đó đối với người nước ngoài, kể cả Mỹ, chế độ miền Nam xứng đáng với thất bại 30 tháng 4 và lịch sử đă sang trang, sự thật này không thể đảo ngược. Sở dĩ các chính quyền phương Tây mở cửa đón nhận người tị nạn v́ họ không nhẫn tâm nh́n cảnh hàng triệu người liều mạng vượt biển trốn chạy chính sách phân biệt đối xử của chế độ cộng sản chứ không phải v́ muốn tái lập lại chế độ Việt Nam Cộng Ḥa.
Nhận định thứ ba là Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n nữa. Cộng đồng người Việt hải ngoại rất khó chấp nhận sự thật này v́ hội chứng 30 tháng 4 c̣n quá mạnh, những ư kiến hay sáng kiến ngoài khuôn khổ Việt Nam Cộng Ḥa đều bị phủ nhận. Ít ai biết rằng khi kư Hiệp định Paris 1972, số phận của miền Nam đă được định đoạt. Trong một trận bóng đá khi chỉ c̣n giao đấu trên một nửa sân th́ phe ở sân thi đấu chỉ có thể thua hoặc huề chứ không thể nào thắng được, đó là trường hợp Việt Nam Cộng Ḥa. Đó là chưa kể sự hơn hẳn về phương pháp đấu tranh của phe cộng sản trong chính trị, họ chuẩn bị người và phương tiện rất kỹ càng, tất cả các cơ quan đầu năo của chính quyền miền Nam đều bị xâm nhập bởi những cán bộ nằm vùng cộng sản. Cho tới nay t́nh trạng này vẫn không thay đổi, bất cứ một hành động hay chuẩn bị nào ở trong nước đều bị phá vỡ ngay từ trứng nước. Đấu tranh chính trị trong điều kiện hiện nay phải hiểu là đấu tranh t́nh báo, không ư thức được thực tế này th́ đừng dấn thân v́ chỉ gây thiệt hại cho những người ủng hộ. Một sự thật đau ḷng khác là các tổ chức đấu tranh có tên tuổi của người Việt hải ngoại đều bị xâm nhập. Nhiều người vẫn tin rằng những cá nhân hay tổ chức nào lớn tiếng chửi bới cộng sản là phe quốc gia.
Nhận định thứ tư là chính quyền cộng sản đang có kế hoạch nắm giữ và khống chế hệ thống truyền thông của cộng đồng người Việt tại hải ngoại, đúng theo tinh thần Nghị quyết 36/CP. Một số đài phát thanh và đài truyền h́nh hiện nay đang bị xâm nhập và đang lần lượt nằm trong tay những người từ trong nước sang, lư do là họ nói thông thạo tiếng Việt hiện đại. Chiến dịch bôi nhọ những tờ báo có truyền thống chống cộng đang gặt hái được nhiều kết quả tốt. Quan sát kỹ những người chống cộng cực đoan, người ta sẽ thấy họ chỉ phản ứng mạnh mẽ trước bài viết gây đau đớn cho chế độ cộng sản. T́nh trạng này giống thời điểm từ năm 1972 khi miền Nam bắt buộc phải chấp nhận đá bóng trên phần đất nửa sân c̣n lại của ḿnh. Sự co cụm của cộng đồng người Việt tại hải ngoại đang là mồi ngon cho những chiến dịch đánh phá của cộng sản v́ sự khù khờ chủ quan của những vị lănh đạo cộng đồng: nh́n bạn hóa thù, nh́n thù hóa bạn.
Đă đến lúc cộng đồng người Việt tị nạn miền Nam can đảm làm lễ chôn cất ngày 30 tháng 4 trong kư ức. Khi 30 tháng 4 đă được yên mồ đẹp mả, cộng đồng người Việt hải ngoại mới thực sự vượt khỏi sự giam hăm của quá khứ và có thể tiến vào tương lai một cách hùng dũng. Quên là một quyết định rất khó nhưng bắt buộc, nếu muốn được giải thoát.
Nguyễn Văn Huy
Theo: Thông Luận