View Single Post
Old 03-25-2012   #2
johnnydan9
R10 Vô Địch Thiên Hạ
 
johnnydan9's Avatar
 
Join Date: Nov 2007
Location: LCN
Posts: 55,869
Thanks: 40
Thanked 564 Times in 514 Posts
Mentioned: 2 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1 Post(s)
Rep Power: 74
johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7
johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7johnnydan9 Reputation Uy Tín Level 7
Default

Lư do thứ 5: ĐCSVN xa rời quần chúng nhân dân.
Đồng bào yêu nước đi quyên vàng tại Hà Nội năm 1945

Kể từ khi thành lập, và trong nhiều đề cương chính trị của ĐCSVN, họ luôn xác định “lấy dân làm gốc”. Đây là một chủ trương đúng đắn, v́ thực chất đảng cũng chính từ dân mà ra. Nhưng trên thực tế nhân dân đă bị ĐCSVN sử dụng như một thứ công cụ vô tri trong tay ḿnh. Khi khó khăn thiếu thốn vật chất th́ họ huy động sức dân (điển h́nh là “tuần lễ quyên vàng” của dân năm 1945). Họ lấy tiền để đút lót cho quân Tàu Tưởng và nuôi bộ máy của chính phủ. Sự thật th́ việc quyên vàng chỉ nhắm vào giới nhà giàu yêu nước, c̣n đại bộ phận nhân dân Việt Nam lúc đó rất nghèo, không lấy đâu ra của cải để mà quyên góp. Khi cần phát động chiến tranh th́ họ hô hào “cứu nước” để đẩy người dân lành ra tiền tuyến…


Về việc quyên vàng, xin dẫn chứng lời của Hồ Chí Minh như sau: “Tuần lễ Vàng sẽ tỏ cho toàn quốc đồng bào và toàn thế giới biết rằng trong lúc chiến sĩ Việt Minh trên các mặt trận quyết hy sinh giọt máu cuối cùng để giữ vững nền tự do độc lập của nước nhà, th́ đồng bào ở hậu phương, nhất là những nhà giàu có, cũng có thể hy sinh được chút vàng để phụng sự Tổ quốc…”. Tuy nhờ có công của đồng bào có tiềm lực kinh tế giúp nước, nói thật đúng bản chất sự việc là cứu chính phủ của Hồ Chí Minh thoát chết trong tay Tàu Tưởng, nhưng sau này ĐCSVN dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh đă giương cao khẩu hiệu “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ” để quay lại đàn áp những người đă có công cứu sống chính phủ lâm thời (trong đó có Hồ Chí Minh). Riêng trong chính sách đăi ngộ người có công của chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (sau này gọi là Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) đă cho thấy nhân dân chỉ là thứ công cụ của ĐCSVN: Những người lính may mắn c̣n sống sót trở về sau chiến tranh, không được hỗ trợ bằng những chính sách tiền lương trợ cấp xứng đáng. Đặc biệt là những bà mẹ liệt sĩ, vợ con liệt sĩ cũng chỉ được hưởng trợ cấp tượng trưng (không đủ sống vài ngày trong năm). Đối với những chiếc huân chương, huy chương, đó chỉ là thứ đồ chơi không hơn không kém, v́ nó không có bất cứ một khoản vật chất đăi ngộ nào đi kèm. Măi gần đây th́ mỗi huân huy chương có được chi một khoản rất nhỏ, sau khi nhiều người có công với nước lên tiếng đ̣i hỏi. Riêng những người đă qua đời từ trước th́ coi như cống hiến hy sinh cho đất nước không công…


Một chi tiết xa dân khác của ĐCSVN đó là, ngày nay các cán bộ công quyền đă là những quan lại thực sự, người dân khó mà tiếp cận để kêu oan, tŕnh bày nguyện vọng, hay đơn giản là đóng góp ư kiến xây dựng. Đây là một hiện tượng tâm lư rất b́nh thường, v́ bất cứ ai, khi đă trở nên giàu có quyền thế th́ tự nhiên họ coi giá trị ḿnh là cao hơn vị trí đối với người xung quanh. Mà cán bộ công quyền hiện nay đều giàu hoặc quá giàu, bởi vậy họ xa lánh nhân dân, xa lánh những người ở tầng lớp nghèo hơn họ là điều đương nhiên.


Cả một bộ máy công quyền cồng kềnh, rắc rối, thiếu khoa học thiếu hiệu quả, đă không thể nắm bắt được ư dân, không hiểu nguyện vọng của dân, và cái quan trọng nhất là không bảo vệ được nhân dân trước sự tấn công của cái ác. Ví dụ chỉ một vụ việc có thể nói là nhỏ về quy mô như vụ Tiên Lăng – Hải Pḥng xảy ra ngày 5/1/2012, nhưng chính quyền từ cấp xă đến cấp thành phố đều không xử lư được, rốt cục chính phủ lên tiếng nhằm đáp ứng chiêu tṛ “an dân”. Nhưng nếu b́nh tĩnh mà suy xét th́ trong mắt ĐCSVN, họ mới chính là lực lượng có những thuộc tính: “Đảng ta là đạo đức là văn minh”(xác quyết của chế độ trên các phương tiện truyền thông là như vậy). V́ vậy nhân dân chỉ là thứ cỏ rác – không có đạo đức, không có văn minh – sống ở tầng lớp thấp hèn nhất của xă hội mà thôi…


Một khi ĐCSVN – những người lănh đạo – không hiểu ư dân, không hiểu ḷng dân th́ làm sao có thể đưa đất nước phát triển đi lên cho được? Ta thử đặt câu hỏi tại sao ĐCSVN lại xa dân? Rất đơn giản, v́ họ biết người dân không có quyền chọn lựa tổ chức chính trị khác để lănh đạo đất nước, bởi hiện tại chỉ duy nhất ĐCSVN là độc quyền tồn tại. Chẳng khác nào trên bến đ̣ chỉ có duy nhất một con đ̣ rách nát, ai muốn qua sông th́ không có sự lựa chọn nào khác hơn việc nhắm mắt bước xuống con đ̣ đó, phó thác cho sự may rủi của số phận. Như vậy hiện nay quan hệ xă hội đang quay trở về thời Phong kiến: “Dân cần quan, nhưng quan lại không cần dân”. Nếu cứ giữ nhịp “trở về” như vậy th́ Việt Nam sẽ trở về thời Đồ đá cũng không chừng…


Lư do thứ 6: ĐCSVN không coi trọng nhân tài đất nước, dẫn đến t́nh trạng “chảy máu chất xám”.
Một trong những điều kiện để cho người tài phát triển năng lực tư duy, bộc lộ được những tài năng thiên phú và công rèn giũa tri thức của họ là yếu tố môi trường sống và làm việc. Một môi trường tốt, lành mạnh, sẽ tạo điều kiện cho nhân tài phát triển khả năng cá nhân. Nhưng nếu không có môi trường th́ người tài không có đất dụng vơ.


Theo ông Nguyễn Hữu Oanh – nguyên phó trưởng Ban tôn giáo của chính phủ – nhận định: “Thường người tài hay tự tin, có ḷng tự trọng cao và có bản lĩnh. Hơn nữa, người tài thường hay thẳng thắn và cương trực, họ không muốn ồn ào, mặt khác họ hay có ư tưởng mới, nếu gặp người biết trọng dụng th́ đó là thời cơ để người tài thể hiện ḿnh”. Đây là những nhận định rất chính xác! Hàng chục năm qua do môi trường đào tạo trong nước quá lạc hậu và sau khi ra trường khó có cơ hội làm việc đúng nghề, đúng năng lực của ḿnh, nên rất nhiều gia đ́nh có điều kiện đă t́m cách cho con em ḿnh đi du học, sau đó họ t́m đủ mọi cách để con em họ được ở lại nước ngoài.
Lấy ví dụ như trường hợp của giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Hiệu. Nếu không nhờ các nhà khoa học Liên Xô phát hiện ra ông, th́ ngày nay Việt Nam và thế giới đă không thể có giáo sư, nhà khoa học danh tiếng Nguyễn Văn Hiệu. Một số trường hợp khác, đó là những thí sinh đạt điểm tuyệt đối (42/42) trong những kỳ thi Toán Quốc tế là Lê Bá Khánh Tŕnh (1979), Lê Tự Quốc Thắng (1982), Đàm Thanh Sơn (1984), Ngô Bảo Châu (1988), Đinh Tiến Cường (1989), Ngô Đắc Tuấn (1995), Đỗ Quốc Anh (1997), Lê Hùng Việt Bảo, Nguyễn Trọng Cảnh (2003), tất cả những người này đều chưa được đầu tư đúng từ chế độ do ĐCSVN lănh đạo, cho họ phát triển. Trường hợp giáo sư Ngô Bảo Châu có may mắn hơn, đó là nhờ gia đ́nh có điều kiện cho đi du học nên đă phát huy được tối đa khả năng của ḿnh…


Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay chỉ riêng tại Hoa Kỳ, cứ 1000 người Mỹ gốc Việt th́ có 3,5 người là bác sĩ. Đă có 280 người Mỹ gốc Việt được cấp bằng phát minh khoa học của Hoa Kỳ. Đặc biệt là trường hợp tiến sĩ Đoàn Trung thuộc tập đoàn Micron ở Boise – Idaho có tới 72 bằng phát minh. Ngoài ra tại Hoa Kỳ, người ta cũng thấy xuất hiện nhiều nhà khoa học hàng đầu gốc Việt trong nhiều lĩnh vực quan trọng như Khoa học Vũ trụ (TS Eugene Trịnh, TS Nguyễn Mạnh Tiến), chế tạo vũ khí chiến tranh (TS Dương Nguyệt Ánh), công nghiệp Hàng không (TS Cai Văn Khiêm), và c̣n hàng trăm cái tên nổi tiếng khác…
Đặc biệt, có hai trường hợp là người Việt, nếu không may mắn (bị ở lại Việt Nam) th́ họ măi măi chỉ là những con người tầm thường vô danh. Thứ nhất, đó là chính khách người Đức gốc Việt tên là Philipp Roesler – cậu bé mồ côi vô gia cư ở Việt Nam, hiện lại là đương kim phó thủ tướng Đức – nguyên là bác sĩ và tiến sĩ kinh tế. Người thứ hai – Vơ Tá Đức – vốn là một cậu thiếu niên đạp xích lô kiếm cơm nuôi gia đ́nh ở tỉnh Phú Yên, may mắn t́m được đường ra khỏi Việt Nam và sang Mỹ. Hiện nay anh đang là tiến sĩ bộ môn khoa học nguyên tử tại một viện nghiên cứu khoa học danh tiếng, thuộc loại lớn nhất thế giới và quốc gia Hoa Kỳ, đó là trung tâm Los Alamos.


Như vậy có thể thấy, cho dù trí thông minh của người Việt chắc chắn không hề thua kém bất cứ chủng người nào trên thế giới, tài nguyên thiên nhiên thật sự là “rừng vàng, biển bạc”, với quỹ dân số “tuổi vàng” từ 15 đến 59 chiếm gần 62,5%, nhưng sau khi kết thúc chiến tranh tương tàn tới 37 năm, đất nước Việt Nam vẫn lẹt đẹt trong nhóm những nước nghèo nhất thế giới. Một trong những nguyên nhân cơ bản nhất gây nên sự tŕ trệ và đi xuống của xă hội, chính là hiện tượng nhân tài thui chột do không được chế độ đầu tư đúng. T́nh trạng đó chỉ có thể giải thích là ĐCSVN – người đă và đang nắm quyền độc tôn lănh đạo đất nước – đă không đủ tâm, không đủ tầm để chèo lái con tàu Việt Nam.


Lư do thứ 7: ĐCSVN không phải là nơi tập trung những đại diện ưu tú của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Theo Điều lệ của ĐCSVN (tài liệu 19/1/2011) th́ “ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”. Ta hăy thử t́m hiểu điều này.
Chân dung chính khách "Gu gờ chấm Tiên Lăng"

Trong thời kỳ đầu giành lại đất nước, nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể chấp nhận những người chưa phải là những đại diện ưu tú nhất trong nhân dân, làm những người lănh đạo đất nước như ông Hồ Chí Minh (chỉ có bằng Tiểu học), ông đại tướng Vơ Nguyên Giáp (chưa hề 1 ngày đi lính). Nhưng sau khi ổn định đất nước, đặc biệt là sau chiến tranh, bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển đúng với khả năng của ḿnh, đều phải chấp nhận những cuộc thay đổi về nhân sự lănh đạo đất nước. Đơn giản là lănh đạo nhân dân trong chiến tranh hoàn toàn khác việc lănh đạo họ trong thời b́nh. V́ thời chiến là phá, là giết được càng nhiều người của phe địch càng tốt, c̣n thời b́nh lại cần có những bộ óc lănh đạo có tài làm kinh tế, xây dựng đất nước và hàn gắn vết thương chiến tranh…


Thế nhưng trong thời b́nh, ĐCSVN lại chấp nhận cho nhiều những cá nhân lên nắm quyền lănh đạo, chỉ với tiêu chí là họ đă có thành tích trong chiến tranh. Đặc biệt sau này, có trường hợp ông Nông Đức Mạnh lên làm tổng bí thư ĐCSVN. Đây là một “cuộc cách mạng lùi” về nhân sự lănh đạo đất nước. Một số nguồn tin cho rằng, có thể v́ ông Mạnh là con trai của ông Hồ Chí Minh (đó có lẽ là cách giải thích thuyết phục nhất), v́ một anh công nhân lâm nghiệp, chưa hề học qua đại học, nhưng lại được cử đi nghiên cứu sinh tại Liên Xô, khi về nước cũng không có đề tài nghiên cứu nào, không có năng lực ǵ đặc biệt, lại leo lên chức vụ tổng bí thư ĐCSVN nhanh đến chóng mặt, là điều bất thường!
Tất cả “tài sản” tinh thần của ông Mạnh để lại cho người dân Việt Nam sau 2 nhiệm kỳ làm tổng bí thư (2001 – 2011), là đất nước đi xuống, nạn tham nhũng, ô dù móc ngoặc hoành hành, xă hội rối loạn, tệ nạn xă hội và tai nạn giao thông tăng vùn vụt. Không những thế, người con trai cả của ông Mạnh bằng cách nào đó lại dễ dàng được cất nhắc lên vị trí bí thư tỉnh ủy Bắc Giang, và là ủy viên Trung ương ĐCSVN. Cũng cần nhắc lại rằng, ông Tuấn có điểm giống cha ḿnh, tức là học hành ban đầu không đâu đến đâu (phải đi lao động phổ thông theo diện xuất khẩu lao động sang CHDC Đức)…


Nếu làm một cuộc điều tra nghiêm chỉnh th́ đại đa số các vị trí lănh đạo trong ĐCSVN hiện nay đều có học vị tiến sĩ, phó tiến sĩ. Nhưng thực chất những tấm bằng đó có chất lượng đến đâu th́ rất dễ kiểm tra. Ngay như đối với cương vị chủ tịch nước của ông Nguyễn Minh Triết (2006 – 2011), cũng cho thấy ông này thiếu kiến thức lănh đạo và tỏ ra không có tầm trong những lời phát biểu trước toàn thế giới: “Có người ví von, Việt Nam Cuba như là trời đất sinh ra. Một anh ở phía đông, một anh ở phía tây. Chúng ta thay nhau canh giữ ḥa b́nh cho thế giới. Cuba thức th́ Việt Nam ngủ, Việt Nam gác th́ Cuba nghỉ”. Hay như những phát biểu phi văn học và phản nhân văn của ông Triết tại buổi lễ khánh thành tượng đài Thánh Gíong: “Công lao là như thế, tài năng là như thế, nhưng mà không màng chức vụ, danh lợi, không đ̣i hỏi ai cám ơn cả, không đ̣i hỏi phong chức phong tước ǵ cả, đánh giặc xong là thanh thản về trời để sống một cuộc đời vui thú điền viên, một cuộc đời thanh thản…”. Một người với cương vị chủ tịch nước mà phát ngôn như vậy th́ quả là ĐCSVN khéo chọn “nhân tài” cho đảng của ḿnh!


Ngày 17/2/2012; trước khoảng 500 cán bộ hưu trí trung, cao cấp tại CLB Bạch Đằng tại hội trường đường Lê Đại Hành, Hải Pḥng, ông Nguyễn Văn Thành – bí thư thành ủy Hải Pḥng, ủy viên trung ương ĐCSVN – đă đăng đàn phát biểu một diễn văn hết sức ngô nghê về ngôn từ và trái ngược hoàn toàn với chỉ đạo của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về vụ Tiên Lăng. Đặc biệt, tuy được cho là có tŕnh độ tiến sĩ kinh tế và cử nhân Anh văn, nhưng ông Thành lại dùng câu “Gu gồ chấm Tiên Lăng” hết sức sai lạc đến độ khó tin, gây ra biết bao lời đàm tiếu bàn tán xôn xao trong dư luận xă hội. Điều này chỉ có thể lư giải là ông Thành không biết ǵ về mạng Internet.
Chỉ với một vài những dẫn chứng như trên, có thể thấy việc ĐCSVN cho rằng, họ là những đại diện tiên phong của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam, là những lời nói hoàn toàn không có cơ sở và không có bất kỳ một sự thuyết phục nào. Thực ra cán bộ cao cấp của ĐCSVN hầu như toàn là một lũ trọc phú dốt nát (hiểu đó là sự dốt nát do không đủ tầm chứ không phải là để so sánh với sự thiểu năng trí tuệ), họ đă thay nhau leo lên nắm quyền bằng cơ cấu phe nhóm ô dù và bằng những thủ đoạn bẩn thỉu, chứ không phải bằng những phẩm chất tốt đẹp và tài năng chân chính…


Lư do thứ 8: ĐCSVN thực ra là một tổ chức tham nhũng từ cấp trung ương đến địa phương.
Ai cũng biết tham nhũng có mặt ở nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới. Nhưng nó thực sự đă trở thành đại quốc nạn của Việt Nam nhiều năm qua. Chính bộ máy thông tin báo chí của chế độ cũng phải công khai thừa nhận điều này. Hàng ngày người ta vẫn nghe các cán bộ cao cấp của ĐCSVN kêu gọi chống tham nhũng, minh bạch tài sản cá nhân cán bộ. Nhưng trên thực tế họ không để ngỏ một kẽ hở nào để nhân dân có thể tham gia chống tham nhũng. Tại sao lại có chuyện phi lư đó? Bởi v́ ĐCSVN chỉ hô hào suông nhằm lừa bịp đại chúng, chứ không có ư định chống tham nhũng thật. V́ tham nhũng chỉ rơi vào cán bộ công quyền. Mà cán bộ công quyền th́ 100% là đảng viên ĐCSVN. Nếu chống tham nhũng nghiêm túc th́ chẳng lẽ họ lại đi chống lại chính bản thân ḿnh?


Ngày 1/12/2011 tổ chức Minh Bạch Quốc Tế vừa cho ra công bố Bảng xếp hạng về tham nhũng trên toàn thế giới. Trong đó họ công bố kết quả điều tra tại Việt Nam cho thấy, tại các thành phố có tới 40% người dân phải đút lót để có được dịch vụ cho ḿnh hoặc người thân. Theo bảng tổng sắp của tổ chức này th́ Việt Nam đang đứng thứ 112 trong số 183 nước trên thế giới. Nhưng trên thực tế tổ chức Minh Bạch Quốc Tế cũng chỉ căn cứ vào những “số liệu nổi” do chính chế độ chính trị do ĐCSVN lănh đạo, cung cấp. Phần ch́m của tảng băng nổi tham nhũng tại Việt Nam mới thể hiện đúng bản chất vấn đề.


Tại sao nạn tham nhũng lại tiếp tục hoành hành ở Việt Nam với quy mô và mức độ ngày một tinh vi và trầm trọng hơn? Nguyên nhân chính là sự bất cập của thể chế chính trị cầm quyền. Chính cơ chế và sự lỏng lẻo của hệ thống pháp luật tạo ra tham nhũng, cơ chế dọn đường cho tham nhũng. Những thiếu hụt, bất cập của cơ chế, của chính sách vĩ mô, đă tạo ra những “khoảng trời” để cho những hành vi thao túng kinh tế, thao túng chính trị thỏa sức tung hoành. Đơn cử ví như sự thiếu chặt chẽ trong tổ chức, quản lư, giám sát việc chấp hành luật thuế, hay các hoạt động cấp phép như cấp các giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc quy hoạch đất đai và việc cán bộ công quyền cố t́nh hiểu sai, làm sai luật đất đai, dẫn đến việc quy hoạch lại đất đai bị chồng chéo, các dự án ma, dự án treo không quan tâm ǵ đến quyền lợi của đại chúng nhân dân…


Tất cả các hành vi tham nhũng trục lợi từ đối tượng thứ 2 đều do cơ chế “xin cho” mà ra. Trong đó việc thu các khoản phí và lệ phí, nói chung là tham nhũng về kinh tế, hoặc tham nhũng về quyền lực (mua quan bán chức – mục đích cuối cùng cũng là kinh tế), tựu chung đều dẫn đến việc tiền bạc chảy vào túi một số cá nhân có quyền lực trong ĐCSVN từ cấp xă phường đến trung ương.
Hiện nay nạn “rút ruột thuế” đang có chiều hướng gia tăng, và rất khó kiểm soát. Ai cũng biết thuế là nguồn thu chủ yếu của quốc gia. Nhưng nếu như doanh nghiệp chịu thuế (hoặc rộng hơn là người nộp thuế), câu kết với cơ quan thuế th́ nhà nước khó có thể giám sát và kịp thời phát hiện. Theo cách “làm” này, thay v́ người chịu thuế phải nộp cho nhà nước 100% số tiền th́ họ chấp nhận chi cho các cá nhân có quyền trong ngành thuế khoảng 10 đến 20%, và nộp ngân sách một khoản chỉ khoảng 30% nữa. Như vậy nhà nước sẽ thất thu thuế khoảng 40 đến 50%.


Một dạng tham nhũng khác, đă nhắc sơ qua ở trên, đó là tham nhũng dựa vào việc mua quan bán chức. Những kẻ phải bỏ tiền ra mua chức sẽ coi đây là một vụ đầu tư. Họ sẽ phải làm trái, vơ vét thật nhiều ḥng bù đắp vào những khoản tiền ban đầu họ đă bỏ ra để mua chức vụ. Căn bệnh này có tính dây chuyền từ thấp lên cao, và tác động cực mạnh đến đời sống toàn xă hội.
Hiện nay nạn tham nhũng có tổ chức, theo ê kíp đang thịnh hành nhất. Những người có quyền khuynh loát (cỡ như thủ tướng, bộ trưởng) đang công khai tạo thế lực vây cánh cho gia đ́nh hệt như cung cách gia đ́nh trị của thời phong kiến. Việc làm này đang đưa đất nước Việt Nam rơi vào t́nh trạng kinh tế nhà nước rơi vào tay các tập đoàn gia đ́nh, đan xen vào đó là những “tập đoàn” gia đ́nh trị về chính trị (ví dụ ông Nông Đức Mạnh làm tổng bí thư th́ cất nhắc con trai là Nông Quốc Tuấn lên bí thư tỉnh ủy. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng th́ dựng con gái lên chi phối và điều hành các tập đoàn kinh tế, con trai lên làm thứ trưởng Bộ xây dựng, người khác th́ nắm Đoàn thanh niên vv…).


Nếu như tiến hành một cuộc khảo sát toàn quốc, kể từ những đảng viên ĐCSVN làm đội trưởng, đến kế toán các đội sản xuất tại các nông lâm trường, và các trưởng thôn trưởng ấp (vùng đồng bằng) th́ họ đă là những người “có máu mặt” về tài sản. Nếu là ở cấp phường xă th́ chủ tịch xă hay trưởng pḥng tài chính cấp phường xă thực sự đă là những người giàu nổi bật so với nhân dân lao động. Ở các cấp cao hơn như huyện, quận, sở, và các công ty nhà nước, th́ các cán bộ lănh đạo và quản lư tài chính, đều là các tỉ phú (có nhiều tỉ tiền Việt). Đối với cấp tỉnh và tương đương th́ cứ theo cấp số mà nhân lên, cán bộ đầu tỉnh và các bộ ngành, tất cả đều là đại gia, triệu phú tiền Dollars Mỹ. Tiền đó ở đâu ra, nếu không là do tham nhũng?
johnnydan9_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.11244 seconds with 10 queries