Người Việt ở Mỹ có tâm lư phức tạp đối với quê hương của họ. Điều này đă dẫn đến tranh căi trong nhiều vấn đề liên quan đến Việt Nam. Chẳng hạn, tháng 12, 1998, một tiểu thương người Việt ở Little Saigon, bang California [tên Trần Trường - Ghi chú của NBT] đă treo tấm ảnh Hồ Chí Minh cỡ lớn và cờ đỏ sao vàng Việt Nam tại cửa hàng của ḿnh, dẫn đến hoạt động biểu t́nh quy mô lớn trong một thời gian dài. Cuộc biểu t́nh này kéo dài 4 tháng, lúc đông nhất có hơn 15,000 người tham gia, diễn ra 53 ngày tại riêng cửa hàng của ông này, những người biểu t́nh yêu cầu ông chủ cửa hàng hạ ảnh Hồ Chí Minh và quốc kỳ [VNCS - Ghi chú của NBT] xuống. Nhưng ông ta nói đây là quyền tự do của ông và không chịu thực hiện. Ngoài ra, Tạp chí “Thời Đại” [tức tờ TIME - Ghi chú của NBT] đă đăng bài viết về Hồ Chí Minh, coi cụ Hồ là chiến sĩ đấu tranh cho tự do, từng bị cầm tù. “Đảng Dân Chủ Việt Nam” ở Mỹ đă viết thư gửi tạp chí này để phản đối và đ̣i sửa lại bài viết trên.
Mặc dù hiện nay c̣n khó đưa ra kết luận, nhưng cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2008 [6] dường như đă hé lộ tín hiệu thay đổi trong sự vận động chính trị của người Việt, bởi v́ cơ cấu phiếu bầu của họ đă có dấu ấn thay đổi. Mặc dù nh́n chung sự ủng hộ của người Việt đối với Đảng Cộng Ḥa vẫn chưa thay đổi, nhưng đi sâu nghiên cứu sẽ phát hiện mạch ngầm phía sau: Một mặt, người Việt là nhóm dân tộc gốc Châu Á duy nhất ủng hộ John McCain, sự ủng hộ của họ đối với ông này cao gấp đôi so với Barack Obama. Mặt khác, số phiếu ủng hộ của người Việt trẻ sinh ra ở Mỹ đối với Obama lại lên tới 69%, số phiếu bầu của những người Việt tuổi từ 18-29 cũng lên tới 60%. Mặc dù hai nhóm người Việt này chỉ là thiểu số (chiếm 15% và 25%), nhưng họ lại là nhóm người chủ yếu trong tương lai. Ngoài ra, tính chất đảng phái của người Việt cũng thay đổi: Người Việt trên 45 tuổi muốn tham gia tranh cử nhiều hơn, chủ yếu đăng kư là người của Đảng Cộng Ḥa. Ngược lại, nhiều người Việt dưới 45 tuổi lại muốn đi theo Đảng Dân Chủ hoặc ứng cử viên độc lập, tỷ lệ tham gia tranh cử bằng một nửa so với nhóm trên 45 tuổi.
3. Việc vận động chính trị của người Việt ở Mỹ với vấn đề tranh chấp Nam Hải (Biển Đông)
Nh́n chung, do hạn chế bởi địa vị kinh tế và vai tṛ chính trị, ảnh hưởng của sự vận động chính trị của người Việt ở Mỹ không lớn, đặc biệt là so với người Mỹ gốc Do Thái hoặc gốc Cuba. Tuy nhiên, nếu xem xét từ góc độ vấn đề Trung Quốc, quan hệ Trung-Mỹ, Trung-Việt, quan hệ Trung Quốc với các nước Đông Nam Á, th́ sự vận động chính trị của người gốc Việt khá quan trọng. Bởi v́, tuy họ c̣n thiếu tích cực và thiếu khả năng mở rộng vận động chính trị trong các vấn đề liên quan đến Việt Nam, nhưng họ lại là nhóm người vận động tích cực nhất trong các nhóm người gốc Châu Á ở Mỹ về vấn đề Nam Hải và tranh chấp lănh thổ, lănh hải giữa Trung Quốc với Việt Nam. Ảnh hưởng của họ càng nổi bật hơn khi Mỹ can dự toàn diện vào tranh chấp Nam Hải năm 2010.
Người Việt ở Mỹ quan tâm đến vấn đề Nam Hải từ lâu. Ngày 19 tháng 4, 1958 [Sai, lẽ ra phải là ngày 14 tháng 9, 1958 - Ghi chú của NBT], Thủ Tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đă gửi công hàm cho Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân Lai công nhận Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là của Trung Quốc. Ngay vào thời điểm đó, những người Việt đang công tác tại Bộ Ngoại Giao Mỹ đă nhanh chóng công bố cho người Việt ở Mỹ bản photo “Báo Nhân Dân” [đích xác phải là “báo Nhân Dân.”- Ghi chú của NBT] của Việt Nam. Sự việc này ngay lập tức đă gây ra sự phản đối quyết liệt của người gốc Việt ở Mỹ, họ gọi hành động này của chính phủ Việt Nam là “bán nước.” Sau này, vấn đế tranh chấp lănh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam đă trở thành một vấn đề quan trọng của người Việt ở Mỹ.
Mặc dù nội bộ người gốc Việt có nhiều bất đồng lớn về thái độ đối với Việt Nam, nhưng [họ] đều nhất trí cao về việc “bảo vệ tài sản của tổ tiên để lại,” không dâng cho Trung Quốc. Đúng như có học giả đă chi rơ: Về mặt bảo vệ “tài sản của tổ tiên,” thái độ của người Việt ở nước ngoài là mạnh mẽ nhất. Đa số họ là kẻ lưu vong trong thập niên 70 của thế kỷ XX, có tâm lư chống đối quyết liệt chính phủ Việt Nam. Họ không có cảm t́nh ǵ với lịch sử Trung Quốc giúp Việt Nam chiến thắng hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, giành được độc lập cho đất nước, giải phóng dân tộc. Họ vốn quen tiếp nhận quan niệm giá trị của phương Tây, luôn cao giọng nhất trong vấn đề Tây Sa và Nam Sa, không những đ̣i chủ quyền đối với hai quần đảo này, họ c̣n đ̣i chủ quyền toàn bộ Nam Hải.
Trong những năm 1991-1993 sau Chiến Tranh Lạnh, trong t́nh h́nh Mỹ đi đầu cấm vận đối với Trung Quốc, một số người Việt đă nh́n thấy cơ hội té nước theo mưa về vấn đề Nam Hải, cố sức xây dựng “Tổng hội người Việt Nam ở nước ngoài” [đích xác là “Tổng Liên Hội Người Việt Tự Do,” đă họp ở Canada và Washington, DC. Ghi chú của NBT]. Sau khi nỗ lực đó bị thất bại, từ năm 1995-2000, họ đă bốn lần tổ chức hội nghị trù bị [có lẽ tác giả muốn nói đến 4 lần Hội nghị Liên kết họp ở Virginia, Quận Cam, Milpitas Bắc-Cali, và Washington, DC - Ghi chú của NBT], có ư đồ xây dựng một mặt trận dân tộc bảo vệ “quần đảo Trường Sa.” Để phối hợp với tâm lư dân tộc ngày càng lên cao ở trong nước xung quanh vấn đề Trường Sa, họ đă lần lượt tổ chức hai lần “Đại hội bảo vệ lănh thổ” [đích xác là “Hội nghị Diên Hồng Hải ngoại Bảo toàn Lănh thổ ”- Ghi chú của NBT] vào năm 2002 và 2005. Thậm chí, họ đă tổ chức biểu t́nh bên ngoài Lănh Sự Quán Trung Quốc ở Houston. Đương nhiên, những tổ chức này cũng ủng hộ hành động ở trong nước phản đối chính phủ Việt Nam “bán nước,” dâng lănh thổ, lănh hải cho Trung Quốc, đặc biệt là ủng hộ những hoạt động nhiều lần biểu t́nh trái phép ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Tổ chức người Việt ở Mỹ có ảnh hưởng lớn nhất đối với chính sách của Mỹ về vấn đề Nam Hải là “Hiệp hội Người Việt ở hải ngoại” (?).Tổ chức này đă vận động chính trị thông qua đề xuất chính sách một cách rộng răi, cung cấp tiền cho các nghị sĩ tranh cử, gặp mặt các nghị sĩ và đă thu được hiệu quả khá rơ rệt… Ví dụ, tháng 11, 2003, trong lúc diễn ra chuyến thăm Mỹ của Bộ Trưởng Bộ Quốc Pḥng Việt Nam Phạm Văn Trà, tổ chức này đă gửi một kiến nghị cho Bộ Ngoại Giao Mỹ, [7] hoan nghênh sự phát triển tích cực của quan hệ Việt-Mỹ. Tuy nhiên, họ cho rằng phải quan tâm toàn diện: Về lư luận, tính chất của hai chính quyền vẫn khác biệt về bản chất, Việt Nam vẫn là một quốc gia một đảng chuyên chế; hai nước vẫn c̣n tồn tại bất đồng lớn trong các vấn đề như nhân quyền, tự do tôn giáo, quyền chính trị của công dân… Bản kiến nghị ấy cũng cho rằng mục đích chuyến thăm của Phạm Văn Trà phần nhiều không phải là phát triển quan hệ song phương mà là phối hợp kiềm chế Trung Quốc. Thượng Nghị Sĩ Jim Webb, Chủ tịch Tiểu ban Đông Á và Thái B́nh Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại của Thượng Viện Mỹ đă từng trải qua cuộc chiến tranh Việt Nam cho rằng Việt Nam và Hoa Kỳ là bạn bè tự nhiên. Việt Nam có ư nghĩa chiến lược đối với Mỹ, sự có mặt của Mỹ ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Chính sách ngoại giao cân bằng nước lớn của Việt Nam hết sức quan trọng đối với việc tăng cường quan hệ Việt-Mỹ, cũng hết sức quan trọng đối với việc ổn định khu vực Đông Nam Á và Nam Hải. Tháng 7, 2009, Jim Webb đă chủ tŕ một cuộc điều trần về “Vấn đề chủ quyền và tranh chấp trên biển ở Đông Á.” Bài phát biểu của ông ta đă ảnh hưởng rơ rệt đến những người Việt ở Mỹ. Khi đề cập đến vấn đề Trung Quốc bắt giữ các ngư dân Việt Nam, ông nói: “Những tranh chấp này đă ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quốc gia khác trong khu vực, chỉ Mỹ mới có đủ khả năng và biện pháp chống lại sự mất cân bằng sức mạnh do Trung Quốc gây ra. Nếu Mỹ muốn duy tŕ sự cân bằng địa chính trị trong khu vực, bảo đảm sự công bằng cho tất cả các quốc gia, bảo vệ tiếng nói của những quốc gia muốn giải quyết tranh chấp bằng biện pháp ḥa b́nh, th́ Mỹ phải có nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ này.” Sau một tháng, trong thời gian thăm Việt Nam, Jim Webb một lần nữa nhấn mạnh Mỹ phải giúp Việt Nam đối trọng với Trung Quốc.”
Năm 2009 là năm người Việt ở Mỹ vận động chính trị tích cực nhất xung quanh vấn đề Nam Hải. Điều này ảnh hưởng quan trọng đến chính sách của Mỹ xung quanh vấn đề Nam Hải năm 2010. Tháng 4, 2009, các tổ chức như “Đại hội Toàn quốc người Việt” [tức Nghị hội - Ghi chú của NBT], “Tiếng nói người Mỹ gốc Việt” [“Voice of Vietnamese Americans” trong tiếng Anh - Ghi chú của NBT], đă gặp Jim Webb và bày tỏ quan điểm của họ đối với vấn đề chủ quyền quần đảo Nam Sa [tức Trường Sa - Ghi chú của NBT], đồng thời yêu cầu ông ta hăy lên tiếng thay cho Việt Nam. Tháng 7, 2009, khi đại sứ Mỹ ở Việt Nam Michael Michalak về Mỹ công tác, những người thuộc các tổ chức trên cũng đă đến gặp ông này. Khi đề cập đến vấn đề Nam Hải, ông nói: “Mỹ không thể đứng về bên nào,” mà sẽ theo đuổi một “phương pháp giải quyết mang tính khu vực.”
Tháng 12, 2009, “Đại hội Toàn quốc người gốc Việt” [= Nghị hội] và một số tổ chức của người Việt khác đă gặp 6 nghị sĩ Đảng Dân Chủ trong Quốc Hội (bao gồm Sam Brownback, Chris Smith, Ed Royce, Zoe Lofgren, Frank Wolf, Mike Honda). [8] Mặc dù mục đích chính của cuộc gặp là thảo luận vấn đề nhân quyền của Việt Nam, nhưng cũng thảo luận về vấn đề tranh chấp Nam Hải. Tháng 6, 2010, “Đại hội Toàn quốc người Việt” [= Nghị hội] một lần nữa cử đại diện đến vận động chính trị ở Quốc Hội, gặp gỡ 6 nghị sĩ trên và Ủy ban Đối ngoại của Thượng Viện Mỹ. Sứ mệnh chủ yếu của cuộc gặp này là để hoàn chỉnh “phương án giải quyết vấn đề Nam Hải.” Nội dung chủ yếu bao gồm: (1) Thống nhất tên gọi quốc tế khu vực Nam Hải là “Biển Đông Nam Á”[9] để thuận lợi hơn khi thảo luận vấn đề này; (2) Tổ chức một cuộc thảo luận giữa các học giả quốc tế và Việt Nam, thống nhất quan điểm, lập trường và chính sách của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông; (3) Tổ chức hội nghị quốc tế bao gồm các đại diện của các nước có lợi ích ở Biển Đông – trừ Trung Quốc, để cùng “ngăn chặn hành động bá quyền của Trung Quốc” ở khu vực này; địa điểm tổ chức hội nghị có thể lựa chọn Đông Nam Á hoặc Nhật Bản. Sau khi lắng nghe phương án này, hai thượng nghị sĩ là thành viên chủ yếu của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ đă ủng hộ nhiệt t́nh. Họ nói: “Các nước Đông Nam Á đều yêu cầu Mỹ đứng về phía họ… Tuy nhiên, điều này làm cho chúng ta không thể đứng về bên nào. Có được một phương án toàn diện như các ngài nêu ra th́ Mỹ mới có thể sẵn sàng ủng hộ.”
Do Việt Nam đảm nhiệm chức Chủ tịch Luân phiên ASEAN năm 2010 nên vận động chính trị của người Việt ở Mỹ xung quanh vấn đề Nam Hải lại càng tích cực. Trong đó, tổ chức nổi bật hơn cả là “Hội Người Việt ở Bắc California.” Ngày 20 tháng 5/2010, trước khi Ngoại Trưởng Hillary [Clinton] đến thăm Việt Nam tham dự Diễn đàn Khu vực Đông Nam Á (ARF, tắt cho ASEAN Regional Forum – Ghi chú của NBT), tổ chức này đă kiến nghị Bộ Ngoại Giao và bà Hillary, mong muốn Mỹ giúp đỡ các ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc bắt, lên án Hải Quân Trung Quốc và quan tâm đến t́nh h́nh Nam Hải. Sau khi Hillary lên tiếng can dự vào Nam Hải tháng 7, 2010, tổ chức này đă viết thư cho bà ta, trong thư có đoạn bày tỏ “cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất,” đồng thời mong muốn Bộ Ngoại Giao Mỹ tiếp tục quan tâm đến vấn đề này.
Cuộc vận động chính trị của người Việt ở Mỹ trong vấn đề tranh chấp Nam Hải đă mang lại hiệu quả rộng lớn. Điều này không những thể hiện trong tuyên bố của bà Hillary rằng Nam Hải liên quan đến “lợi ích quốc gia,” đồng thời yêu cầu thông qua diễn đàn đa phương để giải quyết tranh chấp ở khu vực này mà c̣n thể hiện trong việc họ đă động viên các nhóm dân tộc khác ở Mỹ tác động lên Quốc Hội Mỹ và các bên tranh chấp Nam Hải. Ví dụ, Thượng Nghị Sĩ Jim Webb vốn luôn ủng hộ các yêu cầu của người Việt ở Mỹ, một lần nữa lại đến thăm Việt Nam vào trung tuần tháng 4, 2011. Trong thời gian chuyến thăm, ông ta không những nói về tranh chấp Nam Hải mà c̣n mở rộng nội dung sang vấn đề xây dựng đập thủy điện lớn trên sông Mê Công. Một ví dụ khác là tính đến nay, nhiều người Mỹ gốc Indonesia, Malaysia, Philippines… đă kư tên đ̣i đổi tên gọi Nam Hải thành “Biển Đông Nam Á” theo đề xuất của “Đại hội Toàn quốc của người Việt ở hải ngoại” [= Nghị hội?- Ghi chú của NBT]. Do đó, có thể nhận thấy rất rơ ràng mặc dù Mỹ có chánh sách mang tính hệ thống, nhưng việc vận động chính trị của người Việt xung quanh vấn đề Nam Hải có liên quan chặt chẽ đến căng thẳng trong quan hệ Trung-Mỹ, Trung-Việt, Trung Quốc-ASEAN về vấn đề Nam Hải.
Đương nhiên, cũng cần thấy rằng, trong số người Mỹ gốc Việt cũng có một bộ phận nhỏ có vai tṛ tích cực trong việc hạn chế những nỗ lực vận động hành lang của tổ chức như “Đại hội Toàn quốc người [Mỹ] gốc Việt” [= Nghị hội - Ghi chú của NBT], đó là “Người Mỹ gốc Việt-Trung.” Như đă phân tích ở trên, nhiều người Việt ở Mỹ có gốc gác là người Hoa. Do đó, họ phải xác lập sự đồng thuận phức tạp hơn so với những nhóm người chỉ có một tổ quốc. Người Việt gốc Hoa đều có t́nh cảm với Việt Nam và Trung Quốc, do đó, họ không muốn thấy quan hệ hai nước xấu đi, hoặc các nhân tố khác làm mối quan hệ này xấu đi. Do đó, sự lựa chọn của họ thường là làm cầu nối giữa người Việt với người Việt gốc Hoa, t́m cách lấy khuôn khổ rộng lớn hơn là người Mỹ gốc châu Á để ḥa giải và điều chỉnh hành động chính trị giữa người gốc Việt và người Việt gốc Hoa. Trong đó, tổ chức nổi tiếng là “Ủy ban Hành động Chính trị của người Mỹ gốc Hoa Việt-Lào-Campuchia” (IAPAC, tức Indochinese American Political Action Committee – Ghi chú của NBT). Tổ chức này do người Việt gốc Hoa, người Lào gốc Hoa và người Campuchia gốc Hoa ở Mỹ thành lập năm 2000. Họ động viên người Việt, người Lào, người Campuchia gốc Hoa tham gia vào nền chính trị Mỹ ở tầm rộng lớn hơn. Do lư lịch đa quốc gia của các thành viên, IAPAC có mục tiêu chủ yếu là đoàn kết người Hoa từng sống ở những quốc gia khác nhau, không v́ lợi ích nhỏ hẹp của từng nhóm người. Từ khi thành lập năm 2000 đến nay, tổ chức này đă quyên góp thành công để ủng hộ rất nhiều ứng cử viên chính trị như: Các Hạ Nghị Sĩ [= Dân biểu] Judy Chu (Đảng Dân chủ, bang California), Adam Schiff (Đảng Dân Chủ, bang California) và một số dân biểu bang California như Mike Eng, Trần [Thái] Văn, Nguyễn Phó (LS. Nguyễn Văn Phổ?)… Do nỗ lực của những tổ chức trên của nhóm người Việt gốc Hoa, ảnh hưởng của người gốc Việt ở Mỹ trong vấn đề tranh chấp Nam Hải cũng bị hạn chế nhất định.
4. Kết luận
Sự vận động mang đặc điểm chính trị trong nội bộ nước Mỹ đang ngày càng được các tổ chức của những nhóm dân tộc ít người vận dụng thành thạo. Tuy nhiên, điều đáng chú ư là ảnh hưởng của các cuộc vận động này thường không chỉ hạn hẹp đối với quê hương của họ. Như đă phân tích trong bài viết này, do đặc điểm của quá tŕnh di dân, địa vị kinh tế và quá tŕnh tham gia chính trị, người gốc Việt ở Mỹ có đặc điểm vận động chính trị chống lại tổ quốc trước khi hai nước b́nh thường hóa quan hệ vào năm 1995, nhưng diễn biến t́nh h́nh sau đó phức tạp hơn. Một mặt, họ không phản đối, thậm chí là ủng hộ sự phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước, mặt khác lại có ư đồ gắn kèm theo một số điều kiện chính trị. Do tâm lư phức tạp trên, ảnh hưởng của các cuộc vận động chính trị của người gốc Việt đến chính sách của Mỹ đối với Việt Nam bị hạn chế nhiều.
Tuy vậy, không thể v́ thực tế trên mà coi thường các cuộc vận động chính trị của họ. Bởi v́, ảnh hưởng của họ rất quan trọng đối với tranh chấp Nam Hải. Ngoài người Việt gốc Hoa, đa số người gốc Việt đều nhất trí phản đối Việt Nam “nhượng bộ” Trung Quốc. Ngoài ra, họ c̣n có ư đồ vận động chính phủ Mỹ phát huy vai tṛ tích cực hơn trong tranh chấp Nam Hải, có ư đồ đưa ra “phương án giải quyết toàn diện” vấn đề này. Ảnh hưởng sâu rộng hơn, đáng quan tâm hơn là những nỗ lực của họ có thể động viên dân di cư gốc Đông Nam Á đang sinh sống tại Mỹ hành động về quyền lợi của quê hương họ ở Nam Hải, dẫn đến quốc tế hóa tranh chấp Nam Hải, đồng thời tranh chấp Nam Hải trở thành công việc của nội bộ nước Mỹ.
———————–
Chú thích
[1] Tác giả bài báo đang muốn nói đến tổ chức “Americans Friends of Vietnam” (AFV) là một tổ chức vận động hành lang dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, được tài trợ một phần bởi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm.
[2] Một đặc điểm của bài nghiên cứu này là không đưa được ra tên chính thức của các tổ chức người Mỹ gốc Việt. Lư do gần như chắc chắn là tại v́ các tác giả của bài viết đă phải dịch từ các nguồn tin bằng tiếng Anh nên họ đă không biết tên thật của các tổ chức của người Việt hải ngoại. V́ vậy nên chúng tôi đă cố gắng cung cấp các tên chính thức này cho người đọc có thể nhận diện được dễ dàng các tổ chức được nhắc đến trong bài báo.
[3] Thông tin này không chính xác. Ông Đoàn Văn Toại chỉ bị bắn trọng thương, sau đó đă phục hồi.
[4] Theo một nguồn tin chính thức th́ tiền kiều hối gởi về trong nước đă lên đến gần 10 tỷ đô la (9.6 tỷ) trong năm 2011. Tuy nhiên, phải biết là chỉ khoảng hơn nửa số tiền này là do người Việt ở Mỹ gởi về, chỗ c̣n lại có những nguồn như từ Âu Châu, Úc Châu và nhất là từ Đông Âu và Liên Bang Nga.
[5] Trong cuộc gặp gỡ này, Tổng Thống Bush và Phó Tổng Thống Dick Cheney đă gặp các ông Lê Minh Nguyên (Mạng Lưới Nhân Quyền VN), ông Đỗ Hoàng Điềm (Đảng Việt Tân), ông Đỗ Thành Công (Đảng Dân Chủ Nhân Dân) và BS Nguyễn Văn Ngăi (Đảng Dân Chủ VN). GS Đoàn Viết Hoạt (IIV, tức International Institute for Vietnam) có được mời nhưng không tham dự.
[6] Đây là một bằng chứng bài viết do nhiều người phác thảo xong được gom lại. V́ thế nên nếu đoạn cuối bài nói đến những sinh hoạt cập nhật hơn th́ đoạn này c̣n đang nói về cuộc chạy đua vào Ṭa Bạch Ốc năm 2008.
[7] Tưởng cũng nên nhắc là trước khi bà cho ông Phạm Văn Trà đến gặp, nữ Dân Biểu Nancy Pelosi, lúc bấy giờ là chủ tịch Hạ Viện Mỹ, đă có cuộc gặp gỡ trước để trao đổi với một phái đoàn của người Mỹ gốc Việt gồm Pháp sư Thích Giác Đức thuộc Văn pḥng II, Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất, ông Nguyễn Ngọc Bích đại diện cho Nghị hội và ông Đỗ Hoàng Điềm, chủ tịch đảng Việt Tân.
[8] Trong số những nhân vật này chỉ có một người là thượng nghị sĩ, ông Sam Brownback thuộc Đảng Cộng Ḥa, c̣n năm vị kia đều là dân biểu, hai người thuộc Đảng Dân Chủ (Zoe Lofgren và Mike Honda) c̣n ba người thuộc Đảng Cộng Ḥa (Chris Smith, Ed Royce và Frank Wolf).
[9] Cuộc vận động đổi tên Biển Đông hay Nam Hải thành một tên quốc tế là “Biển Đông Nam Á” (Southeast Asia Sea) chính thật là một sáng kiến của Nguyễn Thái Học Foundation đă được đưa lên Petition on Line trên Mạng Lưới Toàn Cầu. Tính đến nay, sáng kiến này đă thu hút được 54 ngh́n chữ kư đến từ trên 100 quốc gia trên thế giới, gồm rất nhiều người kư tên gốc Đông Nam Á. Nghị hội v́ đồng ư với cuộc vận động này nên cũng đă mang lên vận động trên Quốc Hội Hoa Kỳ và lấy được sự đồng t́nh của không ít dân biểu nghị sĩ Mỹ trong vấn đề này.
Theo: Việt báo