(Phunutoday) - Mặc dù đă sở hữu hàng không mẫu hạm nhưng Trung Quốc vẫn cảm nhận được sức nóng khi Mỹ cùng đồng minh đang xiết thêm chặt ṿng vây hạn chế tầm ảnh hưởng của quốc gia “tỉ dân” này. Với tư tưởng “Đại Hán” Trung Quốc quyết sẽ không để mất vị thế của ḿnh một cách dễ dàng, và cây gậy Trung Quốc sẽ dùng để “răn” Mỹ sẽ là hệ thống ASBM (đạn đạo phá hạm).
ASBM có là mối lo của Mĩ?
Theo tờ China Daily, tên lửa có khả năng diệt mẫu hạm Đông Phong loại 21D (DF-21D) có tầm bắn đến 2.700 km, được phóng từ dàn phóng di động đặt ở đất liền và sẽ lên đến 4.000 km vào trước năm 2015.
Mặc dù chỉ thừa nhận đang ở giai đoạn thử nghiệm nhưng một số chuyên gia quốc pḥng Mỹ tin rằng DF-21D đă ở giai đoạn có thể hoạt động.
Có vẻ như sự tồn tại của ASBM Trung Quốc là một thực tế hiển hiện đến nỗi trên tờ Proceedings (chuyên san thuộc Học viện Hải quân Hoa Kỳ), hai chiến lược gia Lầu năm góc Henry Hendrix và Noel Williams viết rằng đă đến lúc Mỹ nên ngừng lập tức việc đóng mới mẫu hạm bởi mối đe dọa từ “đạn dạo phá hạm” Trung Quốc khiến thời tung hoàng của mẫu hạm sắp đến hồi cáo chung.

Mô phỏng việc triển khai hệ thống ASBM của Trung Quốc, các tên lửa sẽ được định hướng những mục tiêu cố định để tiêu diệt và phá hủy hoàn toàn hệ thống bảo vệ tầu sân bay của Mĩ
Cho đến nay, chưa quân đội nào có khả năng sản xuất được ASBM, kể cả Mỹ. Trong quá khứ, Mỹ từng nghiên cứu loại vũ khí gần tương tự, hệ thống tên lửa đạn đạo đất đối đất Pershing II, nhưng cuối cùng hủy ngang khi Washington chuẩn y Hiệp ước vũ khí hạt nhân tầm trung với Moscow năm 1987.
Dựa vào ư tưởng Pershing II của Mỹ, Trung Quốc bắt đầu mày ṃ ASBM. Về lư thuyết, một hệ thống ASBM hoạt động hiệu quả phải đi theo 5 bước:
- Có khả năng phát hiện mục tiêu (ở đây cần được nhấn mạnh là mục tiêu di động, tức mẫu hạm đối phương);
- Có khả năng giám sát liên tục mục tiêu;
- Có khả năng thâm nhập hệ thống pḥng thủ của mục tiêu;
- Có khả năng tấn công chính xác mục tiêu;
- Có khả năng gây tổn hại nghiêm trọng đối với mục tiêu.
Bất cứ điểm kết nối nào giữa 5 bước trên bị đứt găy th́ ASBM xem như không hiệu quả. Nói cách khác, ASBM là một hệ thống của những hệ thống mà theo ngôn ngữ quân sự Mỹ th́ đó là C4ISR (command, control, communications, computers, intelligence, surveillance, reconnaissance – chỉ huy, kiểm soát, liên lạc, máy tính, t́nh báo, giám sát, do thám).
Bản thân tên lửa cũng chỉ là một tên lửa vô hại, nếu nó không được vận hành và điều khiển với sự phối hợp đồng bộ, với mức độ chính xác phải ở chuẩn tuyệt đối trong đó bất kỳ một sai lệch nào trong kỹ thuật học, toán học, vật lư đạn đạo học, vi tính học… cũng khiến dàn ASBM chẳng khác ǵ đống sắt vụn chỉ có giá trị trưng bày.
Không dễ qua mặt Mĩ
Một cách cơ bản nhất, bất kỳ cuộc tấn công nào bằng bất kỳ phương cách nào nhằm vào mẫu hạm Mỹ phải vượt qua loạt hàng rào pḥng thủ dày đặc. Như đă biết, hạm đội mẫu Mỹ không là một chiếc mẫu hạm đơn lẻ.
Được đánh giá là pháo đài nổi, luôn cùng đi với nó là đoàn tàu chiến trang bị hệ thống radar, tên lửa bắn chặn, chiến đấu cơ và tàu ngầm…, tạo thành một đội h́nh tác chiến-pḥng vệ gần như bất khả xâm phạm.
Ở ṿng ngoại vi xa nhất của đội h́nh mẫu hạm Mỹ là các con tàu “cọc” đóng vai tṛ trực chiến pḥng thủ, gồm dàn máy bay tuần tiễu và máy bay cảnh báo sớm. Được trang bị trực thăng do thám có thể phát hiện và tiêu diệt tàu ngầm, các đơn vị này hoạt động ở khoảng cách tối đa là 200 hải lư (370 km) so với con tàu mẹ.
Kế đến là dàn khu trục hạm hoạt động ở khoảng cách từ 22-46 km so với tàu mẹ và cuối cùng là hàng rào nội tuyến hoạt động ở khoảng cách 19 km so với tàu mẹ.
Ngoài ra, “hệ thống” mẫu hạm Mỹ c̣n được trang bị nhiều thiết bị điện tử có khả năng làm nhiễu tín hiệu của tên lửa đối phương, dàn radar cảnh báo sớm, dàn điện tử phát hiện sóng điện trường, dàn thiết bị sóng âm có thể ḍ t́m và phát hiện tàu ngầm đối phương cách xa hàng trăm kilomet…
Để có thể hoàn thiện một chiến dịch tấn công bằng ASBM, Trung Quốc phải có một dự án cỡ Discoverer II của Mỹ, trong đó hệ thống (được đề xuất) gồm 24 vệ tinh được trang bị SAR lẫn Thiết bị hướng dẫn mục tiêu di động mặt đất (Ground Moving Target Indicator – dùng xung động Doppler để xác định mục tiêu di động trên phạm vi quan sát rộng, đặc biệt hữu dụng đối với thăm ḍ hải tŕnh).
Tuy nhiên, Discoverer II tỏ ra tốn kém (từ 25-90 tỉ USD theo ước tính của Cơ quan ngân sách Quốc hội Mỹ) thế nên đến nay dự án này vẫn nằm trên bàn giấy.
Rơ ràng, để triển khai thành công ASBM, Trung Quốc c̣n phải mất một chặng đường dài, để trước hết, phát triển cho đủ chín về năng lực kỹ thuật không gian, một thách thức lớn đến nỗi có lẽ chẳng bao giờ Trung Quốc qua mặt được Mỹ, nước duy nhất thế giới hiện nay đă có thể đưa người lên Mặt trăng từ tận năm 1969 và (NASA) là nơi duy nhất thế giới có thể đóng được phi thuyền con thoi từ tận năm 1981.
Thế mới thấy tŕnh độ kỹ thuật không gian quân sự Trung Quốc bây giờ vẫn ở giai đoạn sơ khai đến mức nào.
* Thái Yên