R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: Jan 2008
Posts: 148,168
Thanks: 11
Thanked 14,056 Times in 11,219 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 184
|
Hợp tác hay kiềm chế ở châu Á-Thái B́nh Dương?
Mọi hợp tác quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc đă bị đóng băng từ sau hợp đồng bán vũ khí trị giá 5,85 tỷ USD vào tháng 9/2011 giữa Oasinhtơn và Đài Bắc. Tuy nhiên, tạp chí “Affaires Stratégiques” nhận định cuộc gặp tham vấn lần thứ 12 trong lĩnh vực quốc pḥng (DCT) diễn ra ngày 7/12 tại Bắc Kinh được xem là một cơ hội thuận lợi để làm tan băng mối quan hệ giữa hai nước trong lĩnh vực quân sự.
Trong khi Mỹ nới lỏng dần sự kiểm soát ở Ápganixtan và Irắc, giới quan sát cho rằng Mỹ sẽ đầu tư nhiều hơn vào châu Á-Thái B́nh Dương. Tổng thống Obama mới đây thông báo Mỹ sẽ can dự nhiều hơn vào toàn vùng châu Á-Thái B́nh Dương. Tháng 11/2011, giới quan sát nhận thấy các ưu tiên chiên lược của Mỹ được chuyển dịch thêm một chút về phía Đông. Tổng thống Mỹ, Barack Obama, và Thủ tướng Ôxtrâylia, Julia Gillard, cùng tuyên bố tại Canbơrơ sẽ triển khai hơn 2.500 lính thủy đánh bộ Mỹ ở căn cứ Darwin (Ôxtrâvlia) bắt đầu từ giữa năm 2012. Đồng thời Mỹ sẽ tăng cường các cuộc tập trận với các nước trong vùng.
Trung Quốc cáo buộc Mỹ áp dụng chiến lược quân sự kiềm chế chống lại ḿnh thông qua hợp tác chặt chẽ với Việt Nam, Philíppin và Nhật Bản, cũng như không cung cấp đầy đủ thông tin về tham vọng lâu dài của Mỹ ở châu Á-Thái B́nh Dương. Về phần ḿnh, Mỹ tỏ ra lo ngại sau khi Trung Quốc tiến hành thử nghiệm chiếc tàu sân bay đầu tiên trên biển vào cuối tháng 11/2011, v́ đối với Mỹ, đây là biểu tượng của việc gia tăng ư đồ quân sự của Trung Quốc trong vùng. Do vậy, cuộc gặp tham vấn ngày 7/12 cho thấy thực trạng mối quan hệ hợp tác quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc là như thế nào, mặc dù hai nước có quan hệ hợp tác thương mại đáng kể. Dẫn đầu phái đoàn Mỹ là Thứ trưởng Quốc pḥng phụ trách chính sách, Michèle Flournoy, và về phía Trung Quốc là tướng Mă Hiểu Thiên, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Phái đoàn Mỹ bao gồm 20 quan chức thuộc các Bộ Quốc pḥng và Ngoại giao, và đại diện Bộ chỉ huy quân đội Mỹ tại Thái B́nh Dương, Hải quân và không quân.
Các cuộc gặp như thế này nhằm mục đích kiểm soát và ngăn ngừa rủi ro cũng như tránh những sai lầm trong đánh giá t́nh h́nh chiến lược ở phía bên này hay phía bên kia. Các cuộc gặp này cũng giúp các đại diện cao cấp nhất của Bắc Kinh và Oasinhtơn có được khuôn khổ thuận lợi cho việc thảo luận một số vấn đề liên quan đến quốc pḥng và an ninh mà hai nước cùng quan tâm.
Theo tướng Mă Hiểu Thiên, Chính phủ Trung Quốc rất quan tâm đến các cuộc gặp tham vấn v́ qua đó có thể cải thiện t́nh h́nh cung cấp thông tin, tăng cường triển vọng hợp tác và ngăn ngừa rủi ro. Ông c̣n cho rằng cuộc gặp lần này cho thấy thái độ chân thành của hai nước trong việc duy tŕ hợp tác quân sự. về phần ḿnh, bà Michèle Flournoy nói rằng 2011 là năm có tính chất cốt tử đối với mối quan hệ song phương với Trung Quốc. Bà cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải kiểm soát quá tŕnh phát triển hợp tác về các vấn đề mà hai nước cùng quan tâm.
Cuộc gặp tham vấn lần thứ 12 tại Bắc Kinh xác định lịch tŕnh các chuyến thăm viếng lẫn nhau trong lĩnh vực quốc pḥng. Hai bên thảo luận về hợp đồng vũ khí bán cho Đài Loan, mối nguy hiểm của nạn cướp biển, an ninh liên quan đến Internet, thậm chí cả cái được mất tại các vùng nhạy cảm như Bắc Phi, Trung Đông, Ápganixtan-Pakixtan, bán đảo Triều Tiên và biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Các cuộc gặp tham vấn diễn ra gần như mỗi năm một lần kể từ năm 1997 sau thỏa thuận đạt được giữa Tổng thống Bill Clinton và Chủ tịch Giang Trạch Dân. Trong cuộc tham vấn lần thứ 11 vào tháng 12/2010, chủ đề chính là an ninh trong vùng, tại các vùng nhạy cảm như châu Phi, Bắc Triều Tiên, Ápganixtan-Pakixtan, thậm chí cả Iran. Hai bên cũng đưa ra một số ư kiến về cán cân tên lửa đạn đạo cũng như lập trường của Mỹ về vấn đề hạt nhân.
Theo “Affaires Stratégiques”, cuộc gặp tham vấn tại Bắc Kinh là hàn thử biểu đối với mối quan hệ quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc mới được khôi phục sau vụ Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan. Tại đây, chắc chắn Bắc Kinh đ̣i Oasinhtơn phải giải thích rơ ràng về thỏa thuận quân sự mới Ôxtrâylia, các hoạt động quân sự xung quanh Trung Quốc, đặc biệt là các cuộc tập trận ở biển Nam Trung Hoa với các nước có xung đột biên giới với Trung Quốc. Tướng Lạc Viên, thuộc Viện hàn lâm khoa học quân sự Trung Quốc, nói Mỹ luôn yêu cầu Trung Quốc phải minh bạch về chiến lược và bây giờ đến lượt Mỹ phải nói rơ ư định của ḿnh.
Cái được mất của các cuộc tham vấn dường như trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh tái lập các cuộc trao đổi giữa Bộ tổng tham mưu quân đội hai nước, kể từ sau tuyên bố của Tổng thống Obama vào tháng 9/2011 liên quan đến hợp đồng bán vũ khí trị giá 5,85 tỷ USD cho Đài Loan Hợp đồng này quy định nâng cấp kỹ thuật cho 145 máy bay tiêm kích F16 A/B của Đài Bắc, nhưng không cung cấp công nghệ F16 C/D mà Đài Bắc yêu cầu song bị Oasinhtơn từ chối dưới sức ép của Bắc Kinh. Trong những tuần lễ sau khi hợp đồng này được quyết định, Chính phủ Trung Quốc đă hoăn chuyến thăm của Tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái B́nh Dương, cũng như các cuộc tập trận chung hay trao đổi trong lĩnh vực quân y. Mỹ đang có ư định đưa trở lại các sự kiện đó vào chương tŕnh. Việc nối lại các cuộc thảo luận trong khuôn khổ DCT dường như cho thấy Bắc Kinh hiểu họ sẽ không có lợi ǵ nếu ngừng mối quan hệ quân sự song phương. Hơn nữa, tiến bộ trong hợp tác quân sự giữa hai nước c̣n tương đối ít so với sự gia tăng liên tục trong hợp tác kinh tế và thương mại giúp hai nước được lợi về kinh tế.
Tuy nhiên, theo đánh giá của một số nhà phân tích thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế, không chắc Trung Quốc đă sẵn sàng khôi, phục toàn bộ hợp tác song phương trong lĩnh vực quân sự. Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc chắc chắn sẽ phê phán Mỹ về quyết định hồi tháng 11/2011 chuyển 2.500 lính thủy đánh bộ cũng như một số phi đoàn máy bay tiêm kích từ Okinawa ở Nhật Bản sang Ôxtrâylia, số lính này có thể sẽ huấn luyện chung với lực lượng quân đội Ôxtrâylia tại căn cứ quân sự Darwin. Hơn nữa, Mỹ cũng tăng cường hợp tác quân sự với Nhật Bản, Philíppin và Việt Nam. Điều này khiến Trung Quốc lo ngại đây là chính sách kiềm chế của Mỹ chống lại họ. Trung Quốc cũng có thể phê phán Mỹ tiến hành các phi vụ trinh sát và cảnh giới trên vùng đặc quyền kinh tê (EEZ) của ḿnh kéo dài 200 hải lư tính từ bờ biển.
về phần minh, Trung Quốc cũng có những hành động khiến Chính phủ Mỹ lo ngại. Việc thử nghiệm kỹ thuật chiếc tàu sân bay đầu tiên vào cuối tháng 11/2011, theo “Affaires Stratégiques”, là bằng chứng cho thấy Trung Quốc tăng cường sức mạnh quân sự trên biến. Hơn nữa, Chủ tịch Trung Quốc, Hồ cẩm Đào, ngày 5/12 đă kêu gọi Hải quân nước này sẵn sàng chiến đấu và tiếp tục hiện đại hóa để bảo vệ an ninh quốc gia và ḥa b́nh thế giới. Với tư cách là Chủ tịch Quân ủy trung ương, ông ra lệnh cho quân đội, đặc biệt là Hải quân, chuấn bị cho cuộc chiến quân sự trong tương lai. Quân đội Trung Quốc trước đó đă thông báo sẽ tiến hành tập trận ở Tây Thái B́nh Dương. Kế hoạch này được công bố ngay sau chuyển công du châu Á-Thái B́nh Dương của Tổng thống Mỹ, Barack Obama, trong đó ông thông báo tăng cường sự có mặt của Mỹ về quân sự ở Ôxtrâylia.
Mối quan tâm của tất cả các chính quyền ở Mỹ đối với Thái B́nh Dương không phải là mới, nhưng dường như được tăng cường hơn trong thời gian gần đây sau khi Tống thống Obama lên nắm quyền. Liệu đó có phải là một cách để đáp trả tham vọng hải quân của Trung Quốc hay không? Không ai không biết Trung Quốc muốn trong thời gian sắp tới có khả năng kiểm soát toàn bộ việc đi lại trên biển trong vùng và từ đó biến Thái B́nh Dương thành lănh thổ của ḿnh. Rơ ràng là tham vọng của Bắc Kinh đang chống lại các liên minh của Oasinhtơn. Nhưng vào thời điểm này, chuyên gia Nikolas Jucha khẳng định các tham vọng đó rơ ràng đang bị cản trở bởi mạng lưới đồng minh do Mỹ thiết lập, cụ thể với Nhật Bản và Hàn Quốc, hai trong số các cường quốc trong vùng.
Hiện nay, Oasinhtơn đang khai thác mối lo ngại mà Trung Quốc gây ra cho các nước láng giềng, đặc biệt là những bất đồng trên biển liên quan đến các quần đảo Điếu Ngư. (với Nhật Bản), Hoàng Sa, Trường Sa (với Việt Nam, Philíppin…). Theo ông Jean-Vincent Brisset, Giám đốc nghiên cứu thuộc Viện quan hệ quốc tế và chiến lược Pháp (IRIS), những yêu sách của Trung Quốc và lập luận của họ – tính hợp pháp lịch sử – là quá đáng, v́ một vài (Hoàng Sa, Trường Sa) trong số các quần đảo nói trên được quân đội Pháp phát hiện ra trong thời kỳ họ chiếm đóng Đông Dương. Thái độ của Trung Quốc – khi Bắc Kinh tỏ ra không muốn tiến hành đối thoại – rốt cuộc lại có lợi cho chính ngành ngoại giao của Mỹ. Nhưng Mỹ cũng phải chấp nhận một hạn chế không nhỏ: các nước láng giềng khác nhau của Trung Quốc, dù bản chất của bất đồng là ǵ, cũng không thể để xảy ra căi cọ quá mức với nước này v́ họ c̣n có nhu cầu thương mại.
Mỹ lo ngại trước mối nguy Trung Quốc
Thời gian gần đây, đối thoại chiến lược, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc đă được nối lại. Nhưng giới quan sát nhận xét khó khăn ngày càng chồng chất, trái ngược với sự chờ đợi của dư luận. Sau mỗi lần Oasinhtơn đưa ra tuyên bố khá cứng rắn, Bắc Kinh ngay lập tức đáp trả. Tạp chí “Phát thanh” dẫn lời một số nhà phân tích cho rằng tuy bề ngoài mối quan hệ trong lĩnh vực quân sự giữa Trung Quốc và Mỹ có vẻ hài ḥa, song không thể che giấu được những căng thẳng ngấm ngầm và sự ḱnh địch chiến lược.
Các sĩ quan cao cấp Trung Quốc và Mỹ giữa tháng 5/2011 đă gặp nhau tại Oasinhtơn để thảo luận về quan hệ giữa hai nước cũng như những vấn đề quốc tế và khu vực. Cuộc gặp diễn ra dưới sự chủ tŕ của tướng Trần Bính Đức, Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc; và Đô đốc Mike Mullen, Chử tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ.
Tướng Trần cho biết chuyến thăm của ông nhằm mục đích thực hiện thỏa thuận quan trọng đạt được giữa Chủ tịch Trung Quốc, Hồ Câm Đào, và Tổng thống Mỹ, Barack Obama, nhằm phát triển quan hệ song phương trong lĩnh vực quân sự. Đối với Đô đốc Mullen, đây cũng là cơ hội để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ quân sự phục vụ cho lợi ích của hai nước và mở rộng hợp tác trong nhiều vấn đề quốc tế và khu vực.
Đây là chuyến thăm Mỹ đầu tiên của một Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc kể từ 7 năm nay. Tại Mỹ, tướng Trần phê phán các cuộc tập trận của Mỹ ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), mô tả các cuộc tập trận đó là “cực kỳ không đúng lúc” và yêu cầu Oasinhtơn tránh xa các cuộc xung đột trong vùng. Hải quân Mỹ hồi giữa năm 2011 đă tham gia cuộc tập trận kéo dài 11 ngày với Philíppin và sau đó với Việt Nam.
Giới chức Mỹ tuyên bố các cuộc tập trận đó nằm trong một chương tŕnh thông lệ. Tuy nhiên, tướng Trần dường như đưa ra lời phê phán mạnh mẽ hơn. Tạp chí “Phát thanh” dẫn lời ông Trần nói: “Đù phía Mỹ nhiều lần bày tỏ ư định không can thiệp vào tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa, song bằng hành động lại cho thế giới thấy dấu hiệu trái ngược.” Đô đốc Mike Mullen đă bác bỏ lời phê phán đó, nhấn mạnh Mỹ duy tŕ các cuộc tập trận như vậy với các đồng minh của ḿnh trong vùng và cảnh báo những hiểu lầm như vậy có thể dẫn đến một “bệnh dịch không ai có thế báo trước được”. Giới quan sát cho rằng việc Mỹ tập trận chung trên biển với các nước trong vùng khiến Bắc Kinh cảm thấy khó chịu.
Theo tạp-chí “Phát thanh”, tướng Trần cũng than phiền việc máy bay và tàu chiến Mỹ “thường xuyên tiến hành hoạt động do thám ngoài khơi bờ biển Trung Quốc”. C̣n tờ “Wall Street” dẫn lời Đô đốc Mike Mụllen đáp lại rằng “Mỹ sẽ không rời xa biển Nam Trung Hoa” và các cuộc trinh sát là “phù hợp với công ước quốc tế”. Tướng Trần c̣n nhận xét rằng Mỹ chi quá nhiều tiền vào lĩnh vực quân sự và gợi ư một “kịch bản tốt nhất” theo đó Chính phủ Mỹ nên chi tiền nhiều hơn để nâng cao mức sống của dân chúng.
Những lời đối đáp qua lại giữa Mỹ và Trung Quốc, theo giới phân tích, cho thấy tuy đă nối lại đối thoại, song quan hệ giữa hai nước vẫn không êm thấm. Bất đồng quan điểm về t́nh h́nh Bắc Triều Tiên và các vụ bán vũ khí của Mỹ cho Đài Loan, ḥn đảo mà Trung Quốc coi là một tỉnh nổi loạn, cũng như việc Trung Quốc gia tăng tiềm lực quốc pḥng, đă dẫn đến sự căng thẳng giữa hai cường quốc.
Trung Quốc gia tăng đáng kể năng lực quân sự trong những năm gần đây, cụ thể là chế tạo máy bay chiến đấu tàng h́nh thế hệ mới, tăng cường lực lượng tên lửa và các hạm đội tàu ngầm hạt nhân có khả năng mang tên lưa đạn đạo và đưa vào chạy thử tàu sân bay. Lầu Năm Góc đặt nhiều dấu hỏi về hậu quả của những hành động đó đổi với sự ổn định trong vùng.
Theo ông Michael Schiffer, Thứ trưởng Quốc pḥng Mỹ phụ trách châu Á, nhịp độ và quy mô đầu tư ồ ạt vào quân sự cho phép Trung Quốc đạt được năng lực mà Mỹ tin rằng hoàn toàn có thể làm mất ổn định sự cân bằng quân sự trong vùng. Khả năng quân sự của Trung Quốc làm gia tăng nguy cơ gây hiểu lầm và sai lầm trong tính toán, và có thể làm gia tăng căng thẳng và lo ngại trong vùng. Để trấn an thế giới về ư định của Trung Quốc, tướng Trần tuyên bố trước các sĩ quan Mỹ tại Học viện quốc pḥng: “Thế giới không có lư do ǵ để lo ngại. Sự lớn mạnh của Trung Quốc không gây ra mối quan ngại.”
Trong thời kỳ 2000-2008, ngân sách quốc pḥng của Trung Quốc tăng gấp 3 lần. Mỹ, cường quốc quân sự hàng đầu thế giới, tỏ ra lo ngại trước sự gia tăng này. Để theo dơi sự phát triển về quân sự của Trung Quốc, Bộ Quốc pḥng Mỹ hàng năm đều soạn thảo Báo cáo về sức mạnh quân sự Trung Quốc rồi sau đó đệ tŕnh lên Quốc hội. Việc công bố báo cáo này cho năm 2010 đă bị chậm lại 5 tháng để khỏi trùng với chuyến thăm Bắc Kinh của Phó Tổng thống Mỹ, Joe Biden, vào tháng 7/2011.
Trong bản báo cáo 94 trang có tên gọi “Phát triển quân sự và an ninh liên quan đến Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa” nói về sự phát triển gần đây của hải quân và việc quân đội Trung Quốc tiếp cận với công nghệ mới, Bộ Quốc pḥng Mỹ lên tiếng cảnh báo việc năng lực quân sự của Trung Quốc gia tăng sẽ tác động đến sự ổn định trong vùng, nhấn mạnh đến hai điểm chính khiến Lầu Năm Góc lo ngại: kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc được tăng cường và nước này sở hữu tàu sân bay.
Hăng thông tấn Nhà nước Tân Hoa Xă cho rằng sự bành trướng quân sự của Trung Quốc nằm trong khuôn khổ “chính sách quốc pḥng không xâm lược”. Hăng này hoan nghênh Mỹ đă “thừa nhận và tỏ thải độ thuận lợi đối với những đóng góp của Trung Quốc vào an ninh của thế giới”, nhưng cho rằng báo cáo này “không nói ǵ đến chính sách quốc pḥng ḥa b́nh” của Trung Quốc.
Theo ông Jean-Vincent Brisset, Giám đốc nghiên cứu thuộc Viện quan hệ quốc tế và chiến lược Pháp (IRIS), trong số các vấn đề được Bộ Quốc pḥng Mỹ đề cập đến, quan trọng nhất chắc chắn là ư đồ của Trung Quốc trong việc trang bị các loại vũ khí để trở thành cường quốc hàng đàu ở Tây Thái B́nh Dương và biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).
Việc công bố chuyến bay thử đầu tiên của máy bay tiêm kích thế hệ mới J-20, được cho là có thể tấn công tàu sân bay Mỹ nhờ khả năng tàng h́nh, diễn ra ngay vào thời điểm Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ lúc đó là Robert Gates đang ở thăm Trung Quốc để “hàn gắn rạn nứt”. Đối với các nhà quan sát nghiêm túc, sự kiện đó, được dự kiến từ một thời gian trước đó, chắc chắn là một sự trùng lặp ngẫu nhiên hơn là một cái ǵ khác. Cũng như vậy, những lần công bố tiếp sau đó chỉ đơn thuần là sự phát triên lôgích của chính sách chế tạo vũ khí mới, trước Hết là tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D. Thiết kế của loại tên lửa này không phải là mới, song việc chế tạo thực tế đă đặt ra một số vấn đề mà một số nước đă từng nghiên cứu vấn đề này, như Mỹ và Liên Xô, đánh giá phức tạp đến mức họ đă hủy bỏ công tác nghiên cứu v́ cho rằng công sức và tiền của bỏ ra không xứng đáng. Điều đó hơn nữa cũng đúng v́ ngoài sự tồn tại và năng lực tác chiến có thể có của loại tên lửa đó, những hệ lụy chính trị nảy sinh từ việc sử dụng loại trên lửa này có thể sẽ khiến cho việc kiểm soát chúng trở nên khó khăn hơn.
|