R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
Việc điều hành quốc gia yếu kém, kết hợp với liều lượng xung khắc đảng phái hàng ngày, đă đẩy sự tán thành của dân chúng đối với Quốc hội xuống mức thấp nhất trong lịch sử. Sự thất vọng đều khắp của dân chúng đă sản sinh Phong trào Chiếm Phố Wall (the Occupy Wall Street movement) – gồm một loạt các cuộc biểu t́nh chống đối kéo dài của dân chúng lần đầu tiên diễn ra kể từ thời Chiến tranh Việt Nam. Sự bất măn của cử tri chỉ làm sâu sắc thêm những thách đố trong việc điều hành quốc gia, khi những chính trị gia v́ thấy ḿnh thất thế phải nhắm vào những lợi ích hẹp ḥi của cơ sở đảng phái, v́ thế hệ thống chính trị quốc gia mất luôn cả sức đẩy nhỏ nhoi.
Trong khi đó, cuộc khủng hoảng về khả năng điều hành tại châu Âu mang dạng thức của một cuộc tái quốc gia hóa (renationalization) nền chính trị tại đó. Nhiều bộ phận dân chúng châu Âu đang nổi lên chống lại cuộc xáo trộn kép gây ra do tiến tŕnh hợp nhất châu Âu và xu thế toàn cầu hóa. Hậu quả là, các nước thành viên EU (Liên minh châu Âu) đang bận rộn đấu tranh giành lại những quyền lợi chủ quyền của ḿnh, do đó có thể gây nguy cơ cho dự án hợp nhất chính trị và kinh tế châu Âu được khởi động sau Thế chiến II. Cũng như tại Mỹ, t́nh h́nh kinh tế là gốc rễ của vấn đề. Trong hai thập kỷ qua, mức thu nhập của giai cấp trung lưu trong hầu hết những nền kinh tế quan trọng của châu Âu liên tục giảm sút và t́nh trạng bất b́nh đẳng ngày một gia tăng. Tỉ số thất nghiệp tại Bồ Đào Nha lên trên 20%, và thậm chí tại Đức, nền kinh tế hàng đầu của EU, giai cấp trung lưu bị thu nhỏ 13% kể từ năm 2000 đến 2008. Những kẻ sa cơ thất thế thấy ḿnh đang rơi xuống trên một tấm lưới an toàn đă sờn rách; các hệ thống an sinh êm ái của châu Âu, không c̣n đứng vững trước sức cạnh tranh toàn cầu, đang bị cắt xén nhanh chóng. T́nh trạng khắc khổ phát sinh từ cuộc khủng hoảng nợ nần trong khu vực đồng euro chỉ làm cho vấn đề trở nên tồi tệ thêm. Người Hy Lạp phẫn nộ về chính sách thắt lưng buộc bụng mà khối EU thực thi bao nhiêu, th́ người Đức lại giận dữ về việc họ phải cứu giúp các nước đ́nh đốn kinh tế tại châu Âu bấy nhiêu.
Dân số đang già nua của châu Âu đă khiến việc nhập cư của người nước ngoài trở thành một tất yếu kinh tế (an economic necessity). Nhưng sự tŕ trệ của người di dân Hồi giáo trong việc hội nhập vào ḍng chính của xă hội châu Âu đă gia tăng sự bất b́nh của người bản xứ đối với thái độ sốt sắng của EU trong việc thu nhận thêm người nước ngoài vào xă hội của họ. Những đảng chính trị cực hữu đă khai thác mối lo âu này, và chủ nghĩa dân tộc gay gắt của họ không những chỉ nhắm vào người nhập cư mà c̣n nhắm vào cả EU nữa. Sự thay đổi thế hệ đang làm giảm bớt nhiệt t́nh của dân chúng đối với việc hợp nhất châu Âu. Những người châu Âu với kư ức kinh hoàng về Thế chiến II coi EU như một lối thoát của châu Âu để tránh xa dĩ văng đầy máu lệ của nó. Nhưng những thế hệ châu Âu trẻ trung hơn th́ không có dĩ văng nào cần phải trốn chạy. Trong khi những vị trưởng lăo coi dự án châu Âu như một niềm tin tưởng, th́ các nhà lănh đạo hiện nay và các khối cử tri lại muốn thẩm định EU xuyên qua một sự đánh giá lạnh lùng – và đôi khi tiêu cực – dựa trên lợi và hại.
Việc điều hành một chính quyền tập thể mà EU rất cần đến để thành công trong một thế giới toàn cầu hóa không nhận được hậu thuẫn của các phong trào chính trị đường phố, một xu thế rơ ràng đang trở nên xung khắc với dự án châu Âu. Các định chế của châu Âu có khả năng xuống cấp ngang với mức độ của chính trị châu Âu, điều này sẽ có hệ quả là biến EU thành một khối mậu dịch không hơn không kém. Một khả năng khác là, chính trị quốc gia của từng nước thành viên có thể một lần nữa lại khoát lên ḿnh một sứ mệnh châu Âu, điều này sẽ thở một luồng khí chính danh mới mẻ vào một liên minh đang ngày càng rổng ruột. Hậu quả của khả năng thứ hai là tốt đẹp hơn nhiều, nhưng nó đ̣i hỏi tài lănh đạo và quyết tâm, nhưng hiện nay những yếu tố này không biết t́m đâu cho thấy.
Về phần ḿnh, Nhật Bản cũng đang phiêu dạt về chính trị kể từ khi Junichiro Koizumi thôi chức thủ tướng vào năm 2006. Sau đó, Đảng Tự do Dân chủ (ĐTDDC), một đảng từng khống chế chính trường Nhật Bản suốt gần hết thời hậu chiến, đă thất bại thảm hại, nhường quyền cho Đảng Dân chủ Nhật Bản (ĐDCNB) vào năm 2009. Việc củng cố một hệ thống lưỡng đảng (a two-party system) tưởng có tiềm năng cải thiện việc điều hành quốc gia nhưng thay v́ vậy đă chỉ tạo ra bế tắc chính trị và làm mất niềm tin của dân chúng. Nhật Bản trải qua sáu đời thủ tướng trong ṿng 5 năm. Mùa hè vừa qua, mức hậu thuẫn của dân chúng dành cho ĐDCNB đứng ở 18%. ĐDCNB và ĐTDDC bị chia rẽ nội bộ gay gắt cùng với mức độ hai đảng hiện đang kèn cựa lẫn nhau. Việc hoạch định chính sách bị bế tắc trên mọi vấn đề khẩn cấp; phải mất hơn 100 ngày Quốc hội Nhật Bản mới có thể thông qua đạo luật cung cấp cứu trợ cho nạn nhân của cuộc động đất, sóng thần, và thảm họa hạt nhân xảy ra năm ngoái.
Vấn đề bắt đầu diễn ra với việc Nhật Bản vỡ bong bóng tài sản năm 1991, một bước thụt lùi đă phơi bày nhiều vấn đề c̣n sâu sắc hơn trong nền kinh tế quốc gia và dẫn đến một “thập kỷ mất mát” v́ nạn suy thoái kéo dài. Các nhà sản xuất Nhật Bản chịu nhiều thiệt hại, khi công việc và tiền đầu tư chuyển sang Trung Quốc và “các con hổ châu Á”. Khế ước xă hội truyền thống của Nhật Bản, theo đó các tập đoàn doanh nghiệp cung cấp việc làm suốt đời và lương hưu thoải mái, không c̣n đứng vững được nữa. Hai thập kỷ vừa qua đă mang lại một sự suy giảm đáng kể trong mức thu nhập của giới trung lưu, t́nh trạng bất b́nh đẳng kinh tế gia tăng, và tỉ lệ nghèo đă tăng đột biến từ 7% trong những năm 1980 lên 16% trong năm 2009. Trong năm 1989, Nhật Bản đứng hàng thứ tư trên thế giới về GDP đầu người; vào năm 2010, GDP đầu người của Nhật Bản rơi xuống hạng 24.
Chính v́ để đối phó với những vấn đề này mà Koizumi đă lao vào những nỗ lực đầy tham vọng nhằm tự do hóa nền kinh tế và giảm bớt quyền lực của giới quan liêu và các nhóm lợi ích. Sức hấp dẫn của cá nhân ông và hậu thuẫn mạnh mẽ của Quốc hội đă tạo được tiến bộ có ư nghĩa, nhưng những kẻ kế vị thuộc ĐTDDC cũng như ĐDCNB tỏ ra quá yếu kém, không đủ sức thúc đẩy tiến tŕnh đi tới. V́ thế Nhật Bản lâm vào t́nh trạng thiếu lănh đạo, rơi vào nguy cơ chịu những xáo trộn của một nền kinh tế toàn cầu chưa được tự do hóa hay đủ tính chiến lược cho một sự cạnh tranh hữu hiệu.
CHÉN THUỐC ĐẮNG
Không phải t́nh cờ mà cuộc khủng hoảng khả năng điều hành quốc gia tại phương Tây đă xảy ra trùng hợp với sức mạnh chính trị mới mẻ của các cường quốc đang trỗi dậy; sinh lực kinh tế và chính trị đang chuyển từ trung tâm ra vùng biên của hệ thống quốc tế. Và trong khi những quốc gia cởi mở nhất thế giới đang kinh qua t́nh trạng mất quyền kiểm soát khi hội nhập vào một thế giới toàn cầu hóa, các quốc gia phi tự do, như Trung Quốc, đang cố t́nh ḱm hăm xă hội chặt chẽ hơn xuyên qua việc hoạch định chính sách bằng đường lối trung ương tập quyền, kiểm soát phương tiện truyền thông, và thị trường được nhà nước giám sát. Nếu các nước dân chủ hàng đầu tiếp tục mất đi ánh quanh vinh trong lúc các nước đang phát triển phác thảo hướng đi lên của ḿnh, thời kỳ quá độ đang diễn ra của quyền lực toàn cầu sẽ gây thêm nhiều bất ổn đáng kể. Ngược lại, một cuộc tái liên kết theo trật tự phân hạng quốc tế sẽ diễn ra thứ tự hơn nếu các nước dân chủ phương Tây lấy lại tư thế của ḿnh và cung ứng một sự lănh đạo có ư nghĩa.
Điều mà chúng ta cần đến không ǵ khác hơn là một câu trả lời bức thiết mang tính cách thể kỷ 21 đối với những căng thẳng cơ bản giữa dân chủ, chủ nghĩa tư bản và toàn cầu hóa. Nghị tŕnh chính trị mới mẻ này phải nhắm vào việc tái xác quyết quyền kiểm soát của người dân đối với kinh tế chính trị (political economy), điều khiển hành vi nhà nước hướng tới việc đáp ứng có hiệu quả những thực tại kinh tế của thị trường toàn cầu lẫn những đ̣i hỏi của xă hội đại chúng về việc phân chia công b́nh các phần thưởng và các hi sinh.
Phương Tây phải theo đuổi ba chiến lược tổng quát nhằm đáp ứng thách thức này và v́ thế phải trang bị các định chế dân chủ của ḿnh hữu hiệu hơn để đối phó một thế giới toàn cầu hóa. Một là, khi phải đối đầu với chủ nghĩa tư bản nhà nước và sức mạnh to lớn của các thị trường toàn cầu, các nước dân chủ phương Tây không c̣n cách nào khác hơn là phải nhúng tay vào việc hoạch định kinh tế chiến lược trên một qui mô chưa từng có. Việc đầu tư do nhà nước lănh đạo sẽ rất cần thiết trong các lănh vực như việc làm, cơ sở hạ tầng, giáo dục, và nghiên cứu để phục hồi sức cạnh tranh kinh tế. Hai là, các nhà lănh đạo phải t́m cách chuyển hướng sự bất măn của cử tri vào các mục đích cải tổ xuyên qua một dạng thức tiến bộ của chủ nghĩa dân túy (a progressive brand of populism). Bằng cách theo theo đuổi những chính sách làm lợi cho đại chúng hơn là phục vụ các đảng viên trung kiên và các lợi ích đặc biệt, những nhà chính trị không những lấy lại được ḷng dân mà c̣n tạo lại sinh lực cho những cơ chế dân chủ và phục hồi giá trị của bổn phận công dân và đức tính hy sinh. Ba là, các chính phủ phương Tây phải đưa các khối cử tri của ḿnh ra khỏi sự cảm dỗ của xu thế hướng nội. Lịch sử đă chứng minh, những giai đoạn kinh tế khó khăn có thể nhen nhúm chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch (protectionism) và chủ nghĩa cô lập (isolationism).
Không một chiến lược nào được nêu ra ở trên là dễ thực hiện. Việc theo đuổi toàn bộ những chiến lược này cùng một lúc sẽ đ̣i hỏi một tài lănh đạo phi thường và một thái độ can đảm chính trị tương xứng. Nhưng bao lâu mà một nghị tŕnh như thế chưa được thiết kế và thực hiện, th́ t́nh trạng bất ổn của các nước dân chủ phương Tây vẫn c̣n tồn tại.
C. A. K.
Charles A. Kupchan là Giáo sư Quốc tế Sự vụ tại Đại học Georgetown và là Nhà nghiên cứu Thâm niên tại Council on Foreign Relations, một viện nghiên cứu chính sách tại Mỹ. Bài tiểu luận sau đây phỏng theo cuốn sách sắp xuất bản của ông, nhan đề No One’s World: The West, the Rising Rest, and the Coming Global Turn (Thế giới không của riêng ai: phương Tây, phần c̣n lại đang trỗi dậy và biến chuyển toàn cầu sắp tới), do Oxford University Press xuất bản năm 2012.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN.
|