View Single Post
Old 11-29-2011   #2
vuitoichat
R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
 
Join Date: Jan 2008
Posts: 148,375
Thanks: 11
Thanked 14,070 Times in 11,233 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 44 Post(s)
Rep Power: 184
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10
vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10vuitoichat Reputation Uy Tín Level 10
Default

Những thay đổi này được thực hiện không những bởi các nhà tư tưởng bảo thủ và các đồng minh của họ trong giới doanh nghiệp. Trong số những người đă thúc đẩy sự chuyển biến phải kể đến những thành phần phóng khoáng mang lư tưởng cao thượng (high-minded liberals), những người theo khuynh hướng McGovern và những người đ̣i cải tổ chính trị sau vụ Watergate, tức những người đă đă tạo ra các luật bầu cử trong sạch cho phép cử tri bầu cử ṿng đầu để chọn ứng cử viên chính thức (open primary, clean election laws). Họ cũng sáng tạo các h́nh thức vận động chính trị “bên ngoài” chủ yếu dựa vào quảng cáo trên TV. Trên lư thuyết, những cải tổ này đă mở rộng hệ thống chính trị cho những người trước đây bị tướt đoạt quyền bầu cử, bằng cách loại bỏ việc lựa chọn ứng cử viên do quyết định của một thiểu số (the smoke-filled room), do một nhóm người trong một đảng chính trị (the party caucus) hay do một đầu sỏ chính trị trong một thành phố (the urban boss) – thay thế Richard Daley bằng Jesse Jackson. Nhưng trong thực tế, những ǵ thay thế sinh hoạt chính trị cũ cũng không mang lại một nền chính trị mới mẻ công b́nh hơn. Thay vào đó, các chính đảng đă mất tính cố kết (coherence) và cả quyền hành đối với đảng viên. V́ bị chính trị cơ sở kiểu mới qua mặt, các đảng chính trị phải vận động bằng cách trực tiếp gửi thư (direct mail) đến các nhóm cử tri, phải chịu ơn các nhóm lợi ích đặc biệt, và nhận tài trợ từ các nhóm vận động hành lang. Trong khi đó, giới cử tri (the electorate) được chuyển hóa từ các liên minh của các khối khác nhau – như lao động, tiểu thương, và nông gia – thành một quốc gia bị phân tán nhỏ gồm những khán giả truyền h́nh. Các chính trị gia bắt đầu tập trung năng lực của ḿnh vào việc vận động tiền bạc thật nhiều để mua các thời khoảng quảng cáo thật lớn. Rốt cuộc, nỗ lực vận động tài chính này đă không cho phép họ có đủ th́ giờ để phục vụ nhân dân: như Nghị sĩ Tom Harkin, đảng viên Dân chủ bang Iowa, có lần đă nói với tôi, rằng ông và các đồng viện của ông đă mất tiêu nửa thời gian ngoài Quốc Hội để vận động tài chính.

Trường hợp sau đây nói lên hiệu ứng lệch lạc của tiến tŕnh dân chủ hóa. Loại bỏ giới quyền lực chóp bu, hay chứng kiến họ từ bỏ thẩm quyền đạo lư, không nhất thiết tăng thêm quyền lực cho người dân b́nh thường. Một khi Walter Reuther của công đoàn Công nhân Xe hơi Thống nhất (UAW) và Walter Wriston của Ngân hàng Citicorp không c̣n sát cánh bên nhau trong Các nhiệm vụ làm cho thế giới tốt đẹp hơn (Commissions to Make the World a Better Place) mà bắt đầu mướn các chuyên viên vận động hành lang để tranh đấu cho quyền lợi riêng của phe nhóm ḿnh tại Quốc Hội Mỹ, cán cân lực lượng nghiêng hẳn về phía các doanh nghiệp. Ba mươi năm sau, ai đă giành lợi thế trong Chính phủ — công đoàn UAW hay Citcorp?

Năm 1978, tất cả những xu thế này đều đi đến một giai đoạn nghiêm trọng. Năm đó, ba dự luật cải tổ [kinh tế và xă hội] được đưa ra trước Quốc Hội để biểu quyết. Một trong ba dự luật đó là thiết lập một văn pḥng mới đại diện cho người tiêu thụ, giúp công chúng có được một tiếng nói bênh vực quyền lợi của giới tiêu thụ ngay trong bộ máy hành chính liên bang. Dự luật thứ hai đề nghị gia tăng một cách khiêm nhượng thuế lợi nhuận tài sản đầu tư (capital gains tax) và bải bỏ việc khấu trừ [ra khỏi lợi tức phải đóng thuế] các chi phí khoản đăi trong doanh nghiệp. Một dự luật thứ ba t́m cách tạo khó khăn để các công ty không thể tránh né luật lao động và cản trở việc tổ chức công đoàn. Những dự luật này đă được sự hậu thuẫn lưỡng đảng [Cộng ḥa và Dân chủ] ở trong Quốc Hội; chúng được đưa ra đúng vào giai đoạn cuối cùng của một thời đại mà sự đồng thuận lưỡng đảng là chuyện b́nh thường, một thời đại mà các dự luật quan trọng và thiết yếu đều được sự hậu thuẫn từ hai đảng. Đấy là lúc Đảng Dân chủ kiểm soát được Nhà trắng và hai viện của Quốc Hội, và các dự luật này rất được dân chúng ủng hộ. Song, từng dự luật một theo nhau đi đến thất bại. (Cuối cùng dự luật thuế vụ được thông qua, nhưng chỉ sau khi nó bị thay đổi; thay v́ tăng thuế lợi nhuận tài sản đầu tư [the capital gains tax rate], văn bản cuối cùng của dự luật đă cắt giảm thuế đó một nửa).

Sự kiện này đă diễn ra như thế nào và lư do tại sao là đề tài nghiên cứu trong tác phẩm gần đây của Jacob Hacker và Paul Pierson, Winner-Take-All Politics (Chính trị kẻ-thắng-chiếm-hết). Lư giải của họ, gói ghém trong hai từ, là “tài phiệt” (organized money). Các nhóm doanh nghiệp đă tung ra một đợt tấn công xuyên qua nỗ lực vận động hành lang (a lobbying attack), một chiến dịch mà Washington chưa bao giờ chứng kiến trước đó. Và khi đấu trường lắng dịu, người ta mới nhận ra một kỷ nguyên mới đă bắt đầu trong sinh hoạt chính trị Mỹ. Cuối năm 1978, các cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tổng thống (the mid-term elections) đă cho phép Đảng Cộng ḥa giành thêm 15 ghế trong Hạ viện và 3 ghế trong Thượng viện. Bản thân của những con số này không ấn tượng bằng bản chất của những thành viên Quốc Hội mới đến Washington. Họ không phải là loại chính trị gia t́m cách làm việc hài ḥa với các đồng viện và giải quyết các vấn đề bằng cách thông qua các dự luật. Nói đúng ra, họ là những nhân vật bảo thủ nằm trong một phong trào vốn xung khắc ngay cả ư niệm chính phủ. Trong số đó có một giáo sư sử học từ bang Georgia tên là Newt Gingrich. Cuộc cách mạng Reagan đă bắt đầu vào năm 1978.

Giới tài phiệt không hề lén lút áp đặt những thay đổi rộng lớn này lên một quần chúng ngây thơ và thiếu cảnh giác. Vào cuối thập niên 1970, làn sóng phẫn nộ của dân chúng đối với Chính phủ đă lên cao, và Tổng thống Jimmy Carter nằm trong tầm nhắm tuyệt vời của họ. Đây không phải là một trường hợp về ư thức sai lầm của người dân, nhưng là một trường hợp về người dân đă chán ngán Chính phủ. Hai năm sau, Reagan lên nắm được chính quyền bằng một số phiếu cực lớn (a landslide). Chính dân chúng đă muốn nhà lănh đạo này.

Nhưng cặp vợ chồng điển h́nh của năm 1978, với chiếc Pacer-AMC nói trên, không đi bầu để thấy phần bánh kinh tế của ḿnh bị cắt giảm một cách thảm hại trong 30 năm qua. Họ không bất măn v́ lợi tức quốc gia đă rơi vào 1% dân số nằm ở chóp bu là quá ít hay v́ luật thuế vụ đă tiến bộ một cách bất công đối với người giàu. Họ không hề muốn dẹp bỏ các chương tŕnh chính phủ như An sinh Xă hội và Bảo hiểm y tế cho người già (Medicare), những chương tŕnh đă mang lại an ninh kinh tế cho giai cấp trung lưu. Họ không đi bầu để làm suy yếu Chính phủ, bao lâu mà Chính phủ c̣n bảo vệ lợi ích của họ. Nhưng suốt 30 năm tiếp theo, thế lực khống chế chính trường đă theo đuổi những mục tiêu [đi ngược với nguyện vọng của cặp vợ chồng nói trên] như thể những mục tiêu này là những ǵ mà tuyệt đại đa số dân chúng Mỹ mong muốn. Giới tài phiệt và phong trào bảo thủ đă nắm lấy vận hội vào năm 1978 để khởi động một cuộc chuyển giao tài sản to lớn và kéo dài cả một thế hệ sang tay những người giàu có nhất nước Mỹ. Sự chuyển giao này đă diễn ra liên tục trong thời kỳ kinh tế hưng thịnh cũng như lúc gặp khó khăn, dưới các đời Tổng thống Dân chủ cũng như Cộng ḥa, khi Đảng Dân chủ kiểm soát Quốc Hội cũng như khi Đảng Cộng ḥa khống chế ngành lập pháp. V́ các nhà chính trị của Đảng Dân chủ cũng lũ lượt đến gơ cửa Wall Street và các tập đoàn kinh tế Mỹ, v́ đấy là nơi có nhiều tiền lắm của. Các đảng viên Dân chủ cũng nhận hối lộ hợp pháp một cách nồng nhiệt như các đảng viên Cộng ḥa, và khi có cơ hội một số trong bọn họ cũng bỏ phiếu ngoan ngoăn để phục vụ giới tài phiệt chẳng khác chi các đối thủ chính trị của ḿnh. Năm 2007, khi Quốc Hội đang xét đến việc khép lại một kẽ hở trong đạo luật cho phép các nhà quản lư quĩ đối xung (hedge fund managers) chỉ trả 15% trên hầu hết lợi tức của ḿnh – nghĩa là c̣n kém hơn tỉ suất thuế cuả các thư kư của họ — Nghị sĩ Dân chủ Charles Schumer của bang New York vội vàng đứng ra bên vực các viên quản lư này và đảm bảo rằng việc này không xảy ra. Cũng như Bob Dole, bấy giờ là một nghị sĩ Cộng ḥa, đă tuyên bố từ năm 1982: “Người nghèo không đóng góp vào quĩ vận động tranh cử”.

LỜI HỨA HẸN CỦA MỸ QUỐC ĐĂ TRỞ THÀNH MAI MỈA

Sự bất b́nh đẳng xă hội là tệ nạn làm đầu mối cho nhiều tệ nạn khác. Cũng như một loại khí không mùi, bất b́nh đẳng xă hội đă thấm vào mọi ngỏ ngách nước Mỹ và làm suy yếu nền dân chủ nước này. Nhưng không ai t́m ra được nguồn gốc để khoá hẳn luồng khí đó lại. Qua nhiều năm, một số chính khách và học giả thậm chí không nh́n nhận sự hiện hữu của t́nh trạng bất b́nh đẳng này. Nhưng bằng chứng của sự chênh lệch giàu-nghèo ngày càng tràn ngập. Từ năm 1979 đến năm 2006, lợi tức hằng năm sau khi trừ thuế của người Mỹ trung lưu đă tăng lên 21% (được điều chỉnh v́ lạm phát). Những người Mỹ nghèo nhất chỉ thấy lợi tức của ḿnh tăng thêm 11%. Trong khi đó 1% dân số ở chóp bu có lợi tức tăng thêm 256%. Mức tăng này đă khiến tỉ lệ lợi tức của họ so với lợi tức quốc gia tăng lên gấp ba, lên tới con số 23%, tức là mức cao nhất từ năm 1928. Đường biểu đồ lợi tức của họ qua thời gian trông gần như bằng phẳng dưới các đời Tổng thống Kennedy, Johnson, Nixon, Ford, và Carter, nhưng tiếp theo đó là các đợt gia tăng đột biến liên tục dưới các đời Tổng thống Reagan, Bush Cha, Clinton và Bush Con.

Có người tranh luận rằng t́nh trạng bất b́nh đẳng nghiêm trọng này là một hậu quả tất yếu của những biến chuyển sâu rộng hơn: sự cạnh tranh toàn cầu, hàng hóa rẻ làm tại Trung Quốc, những thay đổi công nghệ. Mặc dù những yếu tố này có đóng một vai tṛ, nhưng không phải là vai tṛ quyết định. Tại châu Âu, nơi những diễn biến như thế cũng xảy ra, nhưng t́nh trạng bất b́nh đẳng vẫn c̣n dễ chịu hơn Mỹ nhiều. Yếu tố quyết định từ lâu vẫn là chính trị và chính sách công (politics and public policy). Rất nhiều tác phẩm nghiên cứu của các nhà kinh tế và các học giả trong vài năm qua đă tŕnh bày một trường hợp chắc nịch là: trong ba thập niên qua, Chính phủ đă liên tục dành ưu đăi cho người giàu. Đây là cốt lơi của vấn đề: các lănh đạo chính trị của chúng ta, các cơ chế của chúng ta.

Nhưng c̣n cơ bản hơn cả chính sách công, đó là sự chuyển hóa dài hạn về tư cách và đạo lư của giai cấp chóp bu trong xă hội Mỹ –những ǵ bây giờ họ sẵn sàng làm mà ngày xưa họ nhất định không làm, hay thậm chỉ không nghĩ đến việc làm điều đó. Những thay đổi chính trị đă thúc đẩy, rồi lại được hổ trợ bởi, những thay đổi sâu sắc trong các chuẩn mực về trách nhiệm và tự chế. Vào thời điểm 1978, có lẽ vẫn là một điều khả thi về mặt kinh tế và hoàn toàn hợp pháp nếu một giám đốc công ty tự thưởng cho ḿnh hằng triệu đôla trong khi sa thải 40% số nhân viên và đ̣i hỏi những người ở lại hằng năm phải nghỉ phép không lương. Nhưng lúc bấy giờ không một lănh đạo công ty nào muốn chuốc lấy ô nhục và phẫn nộ do một hành động như thế — cũng như một giám đốc công ty ngày nay không muốn bị trích dẫn là đă dùng một từ miệt thị chủng tộc hay bị chụp ảnh chung với một nữ hộ tống có trả tiền (paid escort). Ngày nay, thật khó tưởng tượng khi mở ra một tờ báo mà không chứng kiến những tin tức liên quan đến những món tiền thù lao kếch sù trắng trợn ở giới chóp bu và những khó khăn vật chất diễn ra đều khắp ở các tầng lớp bên dưới. Xoá bỏ một điều cấm kỵ là dễ dàng hơn tạo ra một điều cấm kỵ, và khi một điều cấm kỵ bị xói ṃn, th́ khó hồi phục nó lại như trước. Như Leo Tolstoy đă viết, “Không có một hoàn cảnh sinh sống nào mà con người không thể làm quen, nhất là khi anh ta thấy nó được mọi người chung quanh chấp nhận”.

Sự dai dẳng của xu thế này — một xu thế đă đưa đến t́nh trạng bất b́nh đẳng ngày càng trầm trọng trong ṿng 30 năm qua – cho thấy một cái ṿng luẩn quẩn mà nước Mỹ không thể thoát ra được bằng các đường lối chính trị thông thường. Khi của cải càng ngày càng tập trung trong tay một thiểu số, th́ giới giàu có cánh thế sẽ có thêm nhiều ảnh hưởng và hưởng thêm nhiều đặc quyền. Do đó, thiểu số này và các đồng minh chính trị của họ dễ dàng rủ bỏ sự tự chế mà khỏi phải trả giá về mặt xă hội. Sự dễ dăi này tiếp đó sẽ cho phép họ tự do tích lũy thêm nhiều tiền của, cho đến khi người ta không phân biệt được đâu là nguyên nhân và đâu là hậu quả. H́nh như không có ǵ có thể hăm bớt tiến tŕnh này – dù đó là chiến tranh, dù đó là tác động của công nghệ, dù đó là một cuộc bầu cử lịch sử. Có lẽ, do một sự lo sợ chính đáng là đất nước đang đi tới chỗ suy bại, giới giàu có và đồng minh chính trị của họ cuối cùng sẽ phải biết tự chế và, chẳng hạn, bắt đầu thay đổi tư duy về thuế má — dần dần khác với Stephen Schwarzman và ngày càng giống như Warren Buffet.

Trong khi đó, t́nh trạng bất b́nh đẳng sẽ tiếp tục chế nhạo lời hứa hẹn của nước Mỹ về cơ hội đồng đều cho mọi người dân. Bất b́nh đẳng tạo ra một nền kinh tế khập khễnh, đưa đến t́nh trạng người giàu nắm trong tay quá nhiều tiền của để tha hồ đầu cơ kiếm lợi trong khi giai cấp trung lưu không có đủ tiền để mua sắm những thứ mà họ cho rằng họ xứng đáng được hưởng, do đó họ phải đi vay mượn và lún sâu vào nợ nần. Những điều vừa nói nằm trong những nguyên nhân dài hạn đă dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính và cuộc Đại suy thoái hiện nay. Bất b́nh đẳng sẽ biến xă hội thành một hệ thống giai cấp, giam hăm con người trong hoàn cảnh họ sinh ra — một lời nguyền rủa đối với chính ư niệm giấc mơ Mỹ. Bất b́nh đẳng ngăn cách chúng ta với nhau trong trường học, trong láng giềng, ở sở làm, trên máy bay, trong bệnh viện, trong đồ ăn thức uống, trong điều kiện thể chất, trong những ǵ chúng ta nghĩ, trong tương lai của con cái chúng ta, trong cách chúng ta chết. Bất b́nh đẳng làm cho nhiều người không tưởng tượng ra được đời sống của tha nhân – đó là một lư do v́ sao số phận của hơn 14 triệu người Mỹ gần như thất nghiệp vĩnh viễn không để lại dấu ấn đáng kể nào trong thủ đô chính trị và trong thủ đô truyền thông của nước Mỹ. Bất b́nh đẳng xoái ṃn ḷng tin tưởng lẫn nhau giữa người dân trong cùng một nước, như thể mọi người đang ở trong một tṛ cờ gian bạc bịp. Bất b́nh đẳng dấy lên một sự phẫn nộ rộng lớn, một sự phẫn nộ nhắm vào mục tiêu ở bất cứ nơi nào nó có thể t́m ra đối tượng — chẳng hạn, người nhập cư, các nước ngoài, giới thượng lưu, mọi dạng thức chính quyền – và nó tưởng thưởng những kẻ mị dân trong khi làm mất uy tín những nhà cải cách. Bất b́nh đẳng làm suy yếu quyết tâm t́m kiếm những giải pháp đầy tham vọng cho các vấn đề tập thể to lớn, v́ trong mắt của nhiều người, những vấn đề này không c̣n mang tính tập thể cao. Bất b́nh đẳng kinh tế-xă hội có tác dụng xói ṃn dân chủ.

GEORGE PACKER là một cây viết thường trực của tờ New Yorker. Bài tiểu luận này dựa trên một bài Thuyết tŕnh nằm trong Chương tŕnh Tưởng niệm Joanna Jackson Goldman về đề tài Văn minh và Chính phủ Mỹ mà ông đă đọc vào đầu năm nay tại Trung tâm Cullman dành cho các Học giả và Nhà văn thuộc Thư viện Công cộng New York.

Nguồn: http://www.foreignaffairs.com/issues/2011/90/6
© Trần Ngọc Cư
Tác giả George Packer. Trần Ngọc Cư Dịch
vuitoichat_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.14810 seconds with 10 queries