Ở nước ta, cho hay cấm và phải quản lư hành vi “đẻ thuê” như thế  nào để giảm tối thiểu những thiệt hại cả về con người, đạo đức lẫn kinh  tế do hành vi này gây ra là một câu hỏi đau đầu chưa thể giải quyết  trong ngày một ngày hai. Các chuyên gia nói ǵ về việc này?
 
 Bác sĩ Lê Thanh Thúy - Phó Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội:
Nguy cơ hạn chế quyền làm mẹ     	|  | 
  	| BS.Lê Thanh Thúy. | 
  
  Xét theo quy điều đạo đức nghiêm ngặt,  việc “đẻ thuê” bằng con đường thụ thai tự nhiên là xem thân xác người  phụ nữ đơn thuần như một phương tiện sinh học, khinh miệt quyền làm mẹ  thiêng liêng của họ và phản ánh một cách trắng trợn nhất ưu quyền ích kỷ  của nam giới.
  Đó là chưa nói đến những hậu quả tâm sinh  lư đối với đứa con không có mẹ, thậm chí ngay trong thời gian ở trong  bụng mẹ mà không đón nhận được t́nh thương đầy đủ.
  Thêm vào đó là nguy cơ hôn nhân đồng  huyết và loạn luân có thể xảy ra sau này. Bởi khi một người “đẻ thuê”  sản sinh ra nhiều đứa con khác nhau; sau đó mẹ chúng lại biệt tích,  những đứa con cùng mẹ này lớn lên, lỡ chúng lấy nhau th́ sao?.
  Chưa kể việc làm giấy khai sinh cho những  đứa con “đẻ thuê” này; thực tế hiện nay đều khai không đúng mẹ đẻ của  chúng. Đứa trẻ khi sinh ra lại mang rắc rối đến cho chính người mẹ mang  thai, nếu như người thuê mang thai không đến nhận đứa trẻ, cháu bé sẽ  được giao cho ai nuôi?.
  Trong quá tŕnh mang thai chắc chắn phát  sinh t́nh cảm giữa người mang thai và đứa trẻ. Khi giao đứa trẻ đó cho  người khác nuôi, có lẽ người mang thai cũng day dứt không ít. Ngoài ra  mỗi một lần mang thai là một lần người phụ nữ đối diện với rủi ro về sức  khỏe. Chưa kể đến việc chính việc mang thai dùm cho người khác lại có  nguy cơ dẫn đến việc hạn chế quyền làm mẹ của người mang thai. Do vậy  không nên lấy tính mạng và số phận của ḿnh để kiếm tiền như vậy.
Việc mang thai hộ không có nguồn gốc huyết thống cho trường hợp người vợ  bị vô sinh là  một trường hợp khác. Ở một số nước, dịch vụ “đẻ thuê”  được nh́n nhận dưới góc độ y khoa, tức thông qua việc cấy ghép tinh  trùng. Trong khi ở ta, một số sự diễn giải, kể  cả trên phim ảnh, vẫn  chưa có được sự minh bạch khi phần nào gắn việc “đẻ thuê” với những quan  hệ tính giao.
  Đă có những đề nghị hợp pháp hóa việc này  trong khuôn khổ kiểm soát và theo dơi chặt chẽ của bệnh viện, như đề  nghị của BS.Nguyễn Thị Ngọc Phượng - nguyên Giám đốc Bệnh viện Phụ sản  Từ Dũ - và của Ban Giám đốc hiện nay. Theo tôi, đây là một đề nghị hợp  lư cần ủng hộ. Trong thực tế, nếu nhu cầu này ngày càng nhiều th́ việc  hợp pháp hóa nó vừa đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của những gia  đ́nh muốn có con, vừa đảm bảo quyền lợi của người mang thai hộ, mà không  vi phạm đạo đức và pháp luật.
PGS.TS Xă hội học Nguyễn An Lịch:
"Sản phẩm quái dị" của nghèo đói và thất học
Những nghiên cứu gần đây cho thấy số người di cư lên thành phố làm việc  ngày càng nhiều, nhất là các thành phố lớn như TP.HCM, Vũng Tàu, Nha  Trang, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Pḥng... Chứng tỏ, thực trạng dịch chuyển  lao động đă có từ lâu, nhưng vài năm trở lại đây mới bùng phát mạnh. Một  năm chỉ 3 vụ lúa, c̣n lại là những ngày ngáp dài, thở vắn, tha thẩn  chơi.
  Có lẽ đôi lần ra phố chợ, nh́n những  thanh niên trang lứa phóng xe tay ga, khoác quần áo đắt tiền, mua sắm  thỏa thích... nên những thanh niên quê mùa cũng không ít lần ước vọng,  và mơ ước làm giàu cứ lớn dần trong họ?. Vùng quê chỉ có nếp vườn, mảnh  lúa, muốn giàu hơn cũng chẳng được. Cứ thế, từng người, từng người một  ra đi. Nhưng làm ǵ khi thất học. Chẳng tay nghề, thế là như một thỏa  thuận ngầm, tất cả đều bắt đầu bằng những ngày làm thuê, làm mướn, hay  chập chững làm công nhân. Phần lớn lao động di cư không có nhiều thông  tin về việc làm mà chủ yếu do người thân giới thiệu.
  Và những người lao động di cư có hoàn  cảnh khó khăn chính là miếng mồi ngon cho những kẻ xấu. Do bất b́nh đẳng  về cơ hội, chỉ cần có ai lợi dụng, dụ dỗ là họ có thể làm bất cứ điều  ǵ. Những thôn nữ phải làm lụng kiếm tiền cực khổ, lương công nhân không  đủ chi trả cuộc sống lẫn đèo ḅng gánh nặng cha già, mẹ yếu, em thơ,  các cô dễ dàng sa vào cám dỗ của những kẻ trong đường dây “đẻ thuê”.
Người con gái miệt vườn, miệt ruộng hoặc bị lừa, hoặc tự nguyện sẵn sàng  dấn thân vào cái nghề quái dị chưa từng có trong nếp nghĩ, nếp làm của  vùng đất chân quê. Hơn thế nữa, người đi đă thế mà xem chừng người ở vẫn  muốn dấn thân, sẵn sàng chịu mạo hiểm hên xui năm ăn, năm thua và rất  dễ bị lừa.
  Những người bán thân, bán máu, bán nội  tạng, đẻ mướn... đều bỏ vốn trên chính cơ thể của ḿnh, điều vốn dĩ để  lại nhiều hậu quả đau ḷng.
  Cái đói văn hóa không ai nh́n thấy nhưng  lại làm phá sản nhân phẩm và tạo ra những điều quái dị, nguồn gốc tất  yếu của đói nghèo...
Về mặt chính sách, tôi cho rằng khi người phụ nữ phải sống với “nghề”  “đẻ thuê”, đă cho thấy những thiệt tḥi và bất b́nh đẳng về cơ hội trong  cuộc sống, đặc biệt ở những vùng nghèo, sự phân biệt nam nữ c̣n cao.  Theo tôi, trước mắt không chỉ có định lượng mà c̣n phải định tính cho  vấn đề này nữa, nghĩa là phải có những điều tra, nghiên cứu xă hội học  cụ thể, để từ đó có những tư vấn cần thiết cho việc h́nh thành các văn  bản pháp luật.
PGS.TS Thanh Tâm (Viện Văn hóa, ĐH Văn hóa Hà Nội):
Không thể mua được t́nh mẫu tử
Nh́n rộng ra th́ trong quan hệ xă hội, có “cầu” ắt có “cung”. Có thể các  cô gái làm công việc đẻ thuê nghĩ đơn giản là: Ḿnh mang thai dùm người  ta th́ người ta trả công cho ḿnh là lẽ đương nhiên. Suy nghĩ rất đơn  giản, hơn nữa cuộc sống khó khăn đă khiến họ không tỉnh táo khi chọn  công việc này. Thế nhưng việc sinh một đứa trẻ không đơn giản như việc  sản xuất một món hàng.
 
  Vấn đề nằm ở việc những người phụ nữ “đẻ  thuê” có nghĩ đến tương lai, hạnh phúc của đứa trẻ hay không, hay đó chỉ  là những nhu cầu nhất thời nhằm thỏa măn những đ̣i hỏi ích kỷ của cá  nhân. Riêng tôi không ủng hộ điều này, bởi mối quan hệ mẹ - con vốn mang  ư nghĩa thiêng liêng. Đứa trẻ nào sinh ra cũng có những cảm nhận đặc  biệt với người mẹ, v́ thế không có đau khổ nào bằng một đứa trẻ sinh ra  mà không được sống trong ṿng tay yêu thương của người mẹ. Nếu ngay cả  t́nh mẫu tử thiêng liêng nhất cũng bị lợi ích vật chất thay thế, những  quan hệ xă hội khác sẽ diễn biến khó lường trước.
Tất nhiên, hầu hết các cô gái đều v́ hoàn cảnh khó khăn nên mới làm cái  nghề này, song tôi dám chắc rằng, dù v́ bất cứ lư do ǵ  đi nữa, các cô  cũng sẽ rơi vào bi kịch. Vài chục triệu đồng có thể giải quyết được khó  khăn trước mắt, song nỗi ân hận, giày ṿ sẽ c̣n ám ảnh, đeo đẳng người  phụ nữ đến cuối đời. Vài chục triệu đồng không thể mua được t́nh mẫu tử.
 
  Tôi đă được nghe câu chuyện về một cô gái  quê ở Thái B́nh, đẻ con rồi đem bán, sau đó cô  ta ân hận mà phát bệnh  tâm thần, bỏ đi lang thang. Lúc nào cô ta cũng ôm khư khư chiếc gối cáu  bẩn trong tay mà ầu ơ con c̣, con vạc. Một ngày cuối năm, dân ṃ sắt vớt  được xác cô gái ở gần làng chài sông Cấm.
 
Thu Hồng