Khối động cơ 8 lít, 16 xi-lanh được bố trí theo kiểu  chữ W độc đáo,  64 van với hai vòng tuần hoàn trong hệ thống làm mát mang  lại cho  Bugatti Veyron 16.4 Super Sport ngôi vương về tốc độ trong thế  giới  ôtô.
  Mẫu xe thể thao có khả năng đạt tốc độ trên 400 km/h,  tăng tốc từ 0  lên 100 km/h trong 2,2 giây là nhờ có được công suất 1.001  mã lực,  mô-men xoắn 1.250 Nm từ khối động cơ 16 xi-lanh chiều dài 710  mm, trọng  lượng 400 kg, không lớn hơn loại V12 truyền thống.
  Động cơ gồm hai khối VR8, đặt lệch nhau 15 độ. Mỗi  khối có 8 xi-lanh  chia làm hai hàng theo kiểu chữ V với góc nghiêng 90  độ với 2 tubin  tăng áp. Nhờ kết cấu độc đáo động cơ 4 hàng xi-lanh, 64  van mà chỉ cần  dùng đến 4 trục cam (thông thường mỗi hàng cần sử dụng 2  trục, một cho  van xả, một cho van nạp).
 

Bugatti Veyron 16.4 sử dụng động cơ W16, dung tích 8  lít, công suất  1.001 mã lực. Bugatti Veyron 16.4 Super Sport cũng trang  bị đông cơ  tương tự nhưng có công suất 1.200 mã lực và là mẫu xe nhanh  nhất thế  giới.   Đội phát triển của tiến sĩ Franz-Joseph Paefgen và  tiến sĩ  Wolfgang Schreibe đã phải giải quyết hai thử thách lớn. Nếu như  tạo ra  cực đại công suất để đạt danh hiệu số 1 về tốc độ là công trình ý  tưởng  xuất sắc thì làm sao để siêu xe được phép vận hành trên đường lại  là  một thách thức khó vượt qua. Theo lời tiến sĩ Schreiber, để có công   suất đẩy 1.000 mã lực, hệ thống yêu cầu sản sinh ra 2.000 mã lực và một   nửa trong số đó tiêu tốn vào khí xả và nước làm mát.

Hệ thống làm mát sử dụng 2 vòng tuần hoàn. Vòng tuần  hoàn lớn có chức  năng duy trì nhiệt độ ổn định trong khi động cơ làm  việc. Vòng tuần  hoàn nhỏ giúp giảm nhiệt độ khí nạp và khí xả.   Để làm được điều này  khối động cơ Bugatti sử dụng tới 2  vòng tuần hoàn độc lập cho hệ thống  làm mát. Vòng lớn chứa 40 lít nước  làm mát, sử dụng 3 dàn lạnh đặt phía  trước xe để duy trì nhiệt độ làm  việc ổn định cho động cơ. Vòng tuần  hoàn thứ 2 có bơm nước độc lập, chứa  15 lít nước để làm mát không khí  nạp đến nhiệt độ 130 độ trong khi  turbin nén chúng vào xi-lanh. Quá  trình cháy kết thúc, nhiệt độ khí xả  xấp xỉ khoảng 1.000 độ làm quay  tubin tăng áp, được làm mát xuống còn  150 độ, rồi qua bộ chuyển đổi xúc  tác trước khi được thải ra ngoài.
  Trọng lượng được làm nhẹ không chỉ làm tăng tỷ số giữa  công suất và  trọng lượng mà còn giúp các chi tiết bên trong động cơ  phản ứng nhanh  hơn. Các loại vật liệu nhẹ như thanh truyền làm từ titan  (Ti), bơm dầu 8  chế độ sử dụng bánh răng nhôm được tích hợp bên trong  các-te dùng để  bôi trơn khô. Với 16 xi-lanh đảm bảo cho tốc độ động cơ  chạy cực êm nên  chỉ cần một bánh đà nhỏ. Bugatti đã học hỏi nhiều công  nghệ dùng cho  động cơ xe thể thao, bằng chứng là việc mạ plasma mặt  trong của  xi-lanh, sử dụng trục làm từ thép cường độ cao, hay dùng nhôm  để chế  tạo các-te.
  Hệ thống dòng điện ion kiểm soát hiện tượng kích nổ và  lỗi đánh lửa.  Chính bởi số lượng xi-lanh lớn, động cơ làm việc êm nên  vận tốc biến  đổi rất nhỏ khi có lỗi đánh lửa xảy ra ở một xi lanh. Việc  xác định  xi-lanh bị lỗi chỉ dựa vào hiện tượng làm việc không ổn định  của động  cơ là chưa đủ để đảm bảo độ chính xác. Do đó cảm biến dòng ion  BIS  (Bugatti Ion Current Sensing) được sử dụng. Dòng ion chạy qua mỗi  bu-gi  ở thời điểm đánh lửa được giám sát bởi hệ thống cảm biến đánh giá   riêng biệt.
  Thành tựu mà các kỹ sư của Bugatti đặt được với mẫu động cơ W16 xứng đáng là biểu tượng mà các hãng sản xuất xe hướng tới.
 
otofun