Nhắc đến Thanh “đại bàng miền Trung” thì ai cũng khiếp sợ về độ lỳ của  kẻ giang hồ này. Hắn từng dùng đá chấn dập mặt, gãy hai hàm răng của  Long “võ sư” nổi tiếng thời đó khiến kẻ này phải chịu nhún mình.
Vào những năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ trước, trong các trại giam hay  ngoài đời, Phạm Thế Thanh, ngụ xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh (Quảng  Bình) khi đã nếm đủ mùi trong giới giang hồ bỗng bắt đầu nhận ra cuộc  sống vô vị của mình giữa trần đời. Gã bắt đầu nghĩ nhiều, đêm đêm gã  ngồi khóc một mình ở góc khuất trong ngục tù. Rồi gã từ bỏ giới giang  hồ, rũ bỏ biệt danh “đại bàng miền Trung” quay về sống cuộc đời lương  thiện…
Hơn nửa đời người sống trong tù 
Thành tích bất hảo của gã tôi đã nghe nhiều, cũng như việc gã vào tù  nhiều đến nỗi hầu hết các trại giam lớn nhỏ ở miền Trung đều quen tên,  điểm mặt.
Thật lạ, không làm quan to chức lớn nhưng khi đến xã Lương Ninh, huyện  Quảng Ninh hỏi đường về nhà Phạm Thế Thanh ai cũng biết. Giờ đây họ  không gọi ông bằng “đại bàng” nữa mà là ông Thanh “giám đốc xưởng đồ gỗ  mỹ nghệ”.
Tiếp chúng tôi trong căn nhà hai tầng khang trang rộng rãi là một người  có nước da ngăm đen, trên khuôn mặt nổi lên đôi lông mày đen rậm, dựng  ngược lên, nó trái hẳn với vẻ giản dị, nụ cười hiền hậu luôn nở trên  miệng của ông.
 Khi chúng tôi gợi ý muốn tìm hiểu về cuộc đời, ông Thanh trầm ngâm: “Quá  khứ qua rồi, tôi cũng không muốn nhắc lại làm gì, hơn nửa đời người của  tôi sống trong ngục tù. Giờ nghĩ lại mới thấy ân hận vì đã phí mất phân  nửa thời gian mà cuộc đời trao tặng”. Nói thế nhưng ký ức lại ùa về,  ông bắt đầu nhớ lại những ngày sống trong thế giới giang hồ của mình.
Sinh ra ở vùng quê nghèo cát trắng bao phủ bên dòng sông Nhật Lệ, Quảng  Bình, tuổi thơ của Phạm Thế Thanh là những chuỗi ngày cay đắng, thiếu  hơi ấm tình thương từ đấng sinh thành ra mình.
Mối tình của bố mẹ Thanh không được hai bên chấp nhận nhưng họ đã lỡ  sinh ra Thanh trên đời. Mới 3 tháng tuổi Thanh đã bị bố mẹ bỏ rơi và  được một bà cô làm nghề buôn bán đưa về nuôi.
Thanh lớn lên cùng với gánh hàng rong của bà cô, sớm theo lẽo đẽo ra  chợ, tối quay về bên túp lều tranh xiêu vẹo. Cuộc sống nghèo khó nên  Thanh cũng chỉ được học đến lớp 3 trường làng rồi nghỉ ở nhà phụ giúp  gia đình. Thanh sống lầm lỳ, khép kín, ít chơi đùa vời bạn bè cùng trang  lứa.
Đầu năm 1968, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của nước ta đang bước vào  giai đoạn ác liệt nhất, Phạm Thế Thanh quyết định rời quê hương vào vùng  đất lửa Quảng Trị lập nghiệp, mở mang tầm nhìn. Tại đây, Thanh chứng  kiến bao nhiêu người dân vô tội đã phải đổ máu, gia đình chia ly vì  chiến tranh.
Hai năm sau, chàng thanh niên 19 tuổi Phạm Thế Thanh quyết định quay về  quê hương tự nguyện nộp đơn xin lên đường nhập ngũ ra chiến trường đánh  giặc. Nhưng trớ trêu thay gã lại không được nhận vào vì không có lý lịch  nhân thân rõ ràng, không hộ khẩu, giấy khai sinh cũng không luôn.
Chán đời, tuyệt vọng, Phạm Thế Thanh bắt đầu đi bụi, sống lang thang,  bất cần đời, phó mặc cuộc đời cho số phận. Từ đây gã bắt đầu bước chân  vào giới giang hồ, đánh dấu cho vết trượt dài sau này của gã.
 Năm 1971, gã gây gổ đánh nhau với một tên hơn mình 10 tuổi, khiến tên  này bị gãy xương sườn, Phạm Thế Thanh bị công an bắt giam tại trại giam  Đồng Sơn, TX. Đồng Hới. Tưởng thế là gã sợ xanh mặt, nhưng vào trong tù  gã lại làm cho các quản giáo phải khổ sở. Gã luôn gây sự đánh nhau với  các phạm nhân khác. Nhiều trận đấm đá nhau túi bụi, tỉ thí sức mạnh giữa  Thanh và các tù nhân có máu mặt khác để dành “chức cai” diễn ra như cơm  bữa. Trại giam Đồng Sơn là nơi giam giữ nhiều tên giang hồ có máu mặt,  nhưng nhờ vào sức khoẻ, “máu lỳ” và mấy thế võ học được từ trước, Thanh  đã chiến thắng trong nhiều lần đánh lộn để trở thành một “đại ca” có tên  tuổi.
Biệt danh Thanh “đại bàng”, “Đại bàng miền Trung” cũng ra đời từ đây.  Mỗi khi nhắc đến cái biệt danh này, nhiều tay giang hồ ở đất Quảng đều  phải e dè, có kẻ xanh mặt. Thế mới biết Thanh “đại bàng” lỳ đến mức nào.
Năm 1977, sau nhiều lần bị cộng thêm án phạt vì tội đánh phạm nhân khác  vỡ đầu, gãy tay, bị chuyển qua bao nhiêu là trại giam thì gã được ra tù.  “Thời điểm đó tôi bị chuyển qua 4 hay 5 trại giam gì đấy, có lần bị đẩy  vào trại giam số 3 Bộ công an đóng trên địa bàn huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ  An, tôi trốn ra ngoài nhưng thấy chán đời nên lại quay về ở tù”, gã tâm  sự.
Bước ra khỏi trại giam với cái mác “đại bàng miền Trung” nổi tiếng khắp  dọc giải đất miền Trung, gã thấy cô độc vì không người thân thích. Thế  rồi gã bắt xe vào Huế tìm bố mẹ đẻ hồi trước nghe nói vào đây sinh sống.  Với tên tuổi có số má trong xã hội đen nên gã đã tìm lại được bố mẹ sau  27 năm biệt ly.
Lúc này bố mẹ gã giàu nổi tiếng ở đất Huế. Gã được ba mẹ gã bù đắp thiệt  thòi không chăm sóc được từ bé bằng cách cho gã thật nhiều tiền để tiêu  xài.
Gã nghiễm nhiên trở thành kẻ lắm tiền, tiêu xài không tiếc tay, sống  buông thả, cờ bạc, rượu chè thâu đêm suốt sáng. Bấy giờ đất cố đô ai  cũng biết đến gã về độ lì lợm, cũng như cách ăn chơi xa hoa.
Rồi gã bước chân vào giới buôn lậu hàng dược và bị bắt, kết án 2 năm tù  giam. Vào tù gã vẫn chứng nào tật ấy, gây sự đánh nhau, xưng hùng, xưng  bá trong trại giam.
Vì mấy trận đánh nhau ở trại giam Huế, Quảng Bình nên Thanh bị chuyển  đến trại giam Hoàn Cát (Quảng Trị). Tại đây, gã đã chạm trán với Nguyễn  Đình Long (biệt danh “Long võ sư”), một kẻ có máu mặt lại giỏi võ, đặc  biệt từng vào tù nhiều lần vì đả thương lính nguỵ, cướp tài sản ăn chơi.
Hai “con hổ” trong một chuồng, qua nhiều lần “tỉ thí” bị Long võ sư “hạ  đo ván”; Thanh Đại Bàng bèn giở máu liều, bất ngờ dùng đá tấn công lại,  làm tên Long bị dập mặt phải khâu 28 mũi, mất nhiều máu và gãy cả hai  hàm răng. Sau trận ấy, Long “võ sư” chùn mình “xuống thế” và buộc phải  giao lại ngôi vị “đại ca” cho Thanh “đại bàng”.
Cứ tưởng cuộc đời của gã sẽ gắn với tù tội trong các trại giam, thế  nhưng khi đã nếm đủ mùi trong giới giang hồ gã bắt đầu nhận ra cuộc sống  vô vị của mình giữa trần đời. Gã bắt đầu nghĩ nhiều, nhiều đêm gã ngồi  khóc một mình ở góc khuất khi nghĩ lại cuộc đời của mình. Rồi gã từ bỏ  giới giang hồ, rũ bỏ biệt danh “đại bàng miền Trung” quay về sống cuộc  đời lương thiện khi đã quá nửa đời người…
Đường về của “đại bàng miền Trung” 
Sau khi được ra tù, Phạm Thế Thanh không quay về gặp bố mẹ nữa, gã lang  thang sống vật vờ. Chính những tháng ngày này khiến gã thấm đẫm về cái  giả phải trả cho những việc làm không lương thiện. Gã khóc nhiều, suy  ngẫm nhiều. Rồi gã quyết tâm quay đầu hướng thiện.
Lúc mới ra tù, kẻ nào cũng khiếp gã, nhưng thấy gã đờ đẫn nên cũng đỡ  sợ, có kẻ còn dám đánh lại gã nữa, thế mà gã không đánh trả như trước  đây. Những lần như thế Phạm Thế Thanh lại tự khuyên nhủ mình: “Phải biết  kiềm chế, nuốt nước mắt vào trong, sẵn sàng đối diện với những lời nghi  kỵ, chửi bới và thậm chí là sỉ nhục để lấy lại niềm tin của mọi người,  để làm người lương thiện”.
Với ý nghĩ “ai đập vào mặt mình cũng kệ”, Thanh bắt tay vào làm ăn bằng  nghề sửa xe đạp ở gần một bãi tha ma của quê hương cũ. Thế nhưng muốn  làm người lương thiện cũng khó, nhiều kẻ giang hồ đến quấy rối gã không  cho làm ăn, cộng với tiếng tăm lừng lẫy trước đây nên tiệm sửa xe của gã  cũng ít khách. Không từ bỏ, gã chuyển nghề đi làm phụ hồ, bốc vác  thuê,… để kiếm những đồng tiền chính đáng do mồ hôi nước mắt mình đổ ra.  Gã bắt đầu nhận thấy ý nghĩa của cuộc sống khi đã hơn 30 tuổi trên đầu.
|  | 
 | Những gốc cây thô qua bàn tay ông Thanh nó trở thành kiệt tác nghệ thuật, trở nên có hồn. | 
 
 Những kẻ bặm trợn thấy gã như vậy cũng không làm khó nữa, dần dần người  ta đã quên đi cái biệt danh “đại bàng miền Trung” một thời lừng lẫy của  gã.
Năm 1982, Phạm Thế Thanh kết hôn với cô gái Lê Thị Cơ cùng quê. Tình yêu  của gã và cô Cơ cũng có thể viết nên một cuốn tiểu thuyết bởi những lần  bị gia đình bên ngoại cản trở tình yêu của hai người và họ đã vượt qua  được rào cản đó như thế nào để đến được với nhau.
Khi đã có vợ, Phạm Thế Thanh không đi làm thuê nữa mà học làm thợ may,  rồi học nấu ăn mở quán nhậu. Kinh tế gia đình bắt đầu khá giả lên từng  ngày, nhờ uy tín, chất lượng nên quán của vợ chồng gã ngày càng đông  khách.
Sau nhiều lần đầu tư làm ăn thua lỗ như mua máy móc, thuê công nhân khai  thác mỏ sắt ở Khe Sanh, Quảng Trị… thì Phạm Thế Thanh quay về nghề học  được trong trại giam, mở xưởng đồ gỗ thủ công mỹ nghệ, thời điểm đó là  năm 2005.
Vốn khéo léo, tài hoa lại được học cơ bản nên những sản phẩm của Thanh  làm ra dần dần được nhiều người để ý. Dưới bàn tay tài hoa của Thanh,  những gốc cây khô bỏ đi trở thành chiếc bàn, cái ghế, chiếc giường… đẹp  mỹ mãn, trở nên sống động.
Phạm Thế Thanh dày công bỏ đi khắp nơi tìm kiếm những gốc cây đẹp, gỗ  tốt về tạo dáng. Miệt mài, yêu nghề, ông Thanh say mê đục, đẽo, bào,  gọt, đánh bóng… để thổi “hồn” vào những gốc cây vô tri, vô giác ấy, biến  chúng thành những tác phẩm đẹp mắt mang giá trị nghệ thuật cao.
Giờ đây đến nhà Phạm Thế Thanh người ta lại được nghe âm thanh đục đẽo  của các công nhân làm việc rất vui tai, cuộc sống trở nên nhộn nhịp.
|  | 
 | Tủ đựng đồ gốm của ông Thanh đã có người trả 1, 2 tỷ đồng nhưng ông không bán. | 
 
 Hiện nay sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ của ông Thanh không chỉ nổi tiếng ở  Quảng Bình mà còn lan rộng ra các nơi khác. Có nhiều bạn hàng từ Hà Nội,  Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng…, vì đam mê cái đẹp ở thú chơi tao nhã này mà  đã vào tận Quảng Bình để đặt hàng của ông Thanh với số lượng lớn.
Bên cạnh thú chơi đồ gỗ mỹ nghệ mang lại thu nhập cao, đậm phong cách  nghệ sỹ, những lúc rảnh rỗi Phạm Thế Thanh còn bỏ công đi sưu tầm mua  lại nhiều loại đồ cổ có giá trị. Chỉ tay vào hai chiếc tủ đựng đầy ấm,  bát, chén, đũa cổ của mình, ông Thanh tự hào: “Tháng trước có vị khách  “sành” đồ cổ từ Hà Nội vào trả giá 1,2 tỷ mà tôi không bán. Vì tôi nghĩ  đã đến lúc mình có điều kiện để được hưởng, chiêm ngưỡng những nét đẹp  tinh tuý của cuộc đời”.
Bất cứ ai khi gặp Phạm Thế Thanh ở cuộc sống hiện tại sẽ không thể biết  được trước đây ông từng được mệnh danh trong giới giang hồ là “Đại bàng  miền Trung”. Giờ đây ông Thanh đã tìm được con đường sống lương thiện và  chính đáng. Hạnh phúc hơn đối với ông là một gia đình đầm ấm, hai đứa  con ngoan, người vợ dịu hiền đảm đang.
Chia tay “Đại bàng miền Trung” một thời, tôi vẫn nghe văng vẳng bên tai  mình câu nói, nó như một lời đúc kết về cuộc đời chìm nổi của ông vậy:  “Quá khứ của tôi là những chuỗi ngày sai lầm tiếp nối sai lầm và thật vô  nghĩa. Nhưng không có gì là quá muộn cả khi con người ta biết nhận ra  sai lầm để quay đầu đúng lúc”.
Uyên Giang
Theo Bưu Điện Việt Nam