Lối thoát duy nhất để điện hạt nhân nhận được sự tin  tưởng của xă hội là tôn trọng và củng cố Văn hóa An toàn ở tất cả các  khâu. PV Tiền Phong tiếptục phỏng vấn TS Tô Lệ Hằng về chủ đề  Văn hóa an toàn hạt nhân - nhân dịp tṛn 25 năm tai nạn ḷ phản ứng hạt  nhân Chernobyl (26-4-1986).  
                           |  | 
                      | Lối vào gần ḷ phản ứng của Chernobyl 
 | 
      
  
Thiết kế và vận hành nhà máy Chernobyl mất an toàn như thế nào, thưa bà?
 Thiết kế của ḷ đă được phê chuẩn nhưng không tuân thủ  tiêu chuẩn an toàn có hiệu lực tại Liên Xô ngay lúc xây ḷ. Thậm chí, nó  c̣n bao gồm một số đặc tính nguy hiểm. Thí dụ, sự bất ổn định của ḷ  phản ứng, t́nh trạng ít tự động hóa các động tác bảo vệ, thiếu nhà che  chắn ḷ có hiệu quả, và sự khắc phục nhược điểm của các thanh điều khiển  ḷ phản ứng. 
 Vận hành ḷ cũng có sai lầm. Chẳng hạn, trước khi bắt  đầu thử nghiệm, nhân viên đă cho ḷ chạy ở trạng thái không bền vững  (công suất thấp dưới 700 MW nhiệt và dưới 30 thanh điều khiển trong tâm  ḷ), một trạng thái vốn không được phép trong các phương thức vận hành.  Rồi lại vi phạm về các chỉ thị an toàn liên quan đến số lượng các thanh  điều khiển được phép thả rơi vào tâm ḷ phản ứng. Thêm nữa là việc ức  chế các dập ḷ khẩn cấp khi có báo động mức nước thấp quá mức cho phép  hay khi có báo động áp suất hơi nước trong b́nh phân cách đến ngưỡng  nguy hiểm.
 
Văn hoá An toàn ra đời
 Vậy bài học Văn hoá An toàn bắt đầu ra sao?
 Trên phương diện quốc tế, một cuộc thảo luận bắt đầu  dưới sự bảo trợ của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) từ tháng  8-1986. Cụm từ văn hoá an toàn xuất hiện lần đầu tiên năm 1987. Sau đó  Nhóm Tư vấn Quốc tế cho An toàn Hạt nhân (INSAG) công bố một số văn bản  liên quan tới an toàn hạt nhân theo thứ tự, năm 1990 cho “Nguyên tắc cơ  bản An toàn cho Nhà máy điện Hạt nhân”, năm 1991 cho “Văn hóa An toàn”,  năm 1993 “An toàn của Năng lượng Hạt nhân” , và năm 1997 cho “Pḥng thủ  theo Chiều sâu”.
 Làm việc lâu năm ở Pháp, bà thấy nước này tiếp thu kinh nghiệm Chernobyl thế nào?
 Về thiết kế, họ t́m kiếm toàn bộ các khả năng của tai  nạn do độ phản ứng trong tất cả các loại ḷ. Đối với các thế hệ tiếp  theo của ḷ PWR (ḷ nước áp lực), có quy định mới nhằm đảm bảo sự làm  nguội một tâm ḷ nóng chảy và đảm bảo tính toàn vẹn dài hạn của các ṭa  nhà che chắn ḷ.
 Về khảo sát kết quả các tai nạn, họ thiết lập thêm một  nấc thang mức độ nghiêm trọng và sau đó được dùng để xây dựng Thang Sự  kiện Hạt nhân Quốc tế (INES). Ngoài ra họ hướng các tiêu chuẩn lựa chọn  các trục trặc ảnh hưởng đến an toàn về trục trặc tiền thân và hậu quả  tiềm tàng.
 Sau cùng, trong trường hợp xảy ra tai nạn nghiêm trọng,  họ lập kế hoạch phân phát iodine cho những người ở gần nhà máy. Ngoài  ra họ cũng chú trọng thêm vào các Kế hoạch Khẩn cấp Nội bộ (PUI) cùng  với các Kế hoạch Tác động Đặc biệt (PPI), nhất là việc hợp thức hóa  chúng qua thực hành. 
 PUI được áp dụng bên trong các cơ sở hạt nhân và thuộc  trách nhiệm của nhà khai thác. Các nhiệm vụ chính gồm điều khiển và bảo  toàn cơ sở, cứu trợ người bị thương trong cơ sở, bảo vệ nhân viên trong  cơ sở, và báo động và thông tin cho chính quyền. C̣n PPI được tổ chức  dưới trách nhiệm của các tỉnh trưởng, bao gồm kế hoạch cứu hộ để bảo vệ  dân cư và môi trường bên ngoài cơ sở.
 Đặc biệt, để giảm thiểu nguy cơ che giấu, ém nhẹm thông  tin, người ta t́m cách nâng cao chất lượng thông tin công cộng bằng  cách tăng cường vai tṛ của các Ủy ban Thông tin Địa phương (CLI) để đảm  bảo tôn trọng minh bạch, có cơ chế khuyến khích công dân liên lạc với  CLI.
 Họ c̣n thành lập các nhóm công tác về việc phổ biến  thông tin năng lượng hạt nhân và các nguy cơ của nó. Các điều lệ của Cơ  quan An toàn Hạt nhân (ASN) và Viện Bảo vệ & An toàn Hạt nhân (IPSN)  (chuyên gia kỹ thuật hỗ trợ ASN) cũng được sửa đổi để giúp các cơ quan  này được độc lập hơn đối với chính phủ và quyền lợi công nghiệp khi thi  hành nhiệm vụ.
  
                           |  | 
                      | Quách tang cho ḷ phản ứng số 4. | 
      
  
Áp dụng Văn hóa An toàn thế nào
 
Ḷ phản ứng đầu tiên AES Obninsk-RBMK bắt đầu cấp điện  ngày 27-6-1954 tại Liên Xô. Đă có 32 năm kinh nghiệm hoạt động với  NMĐHN, mà thảm họa Chernobyl vẫn xảy ra vào ngày 26-4-1986. Điều này cho  thấy rơ sự cần thiết phải thường xuyên cảnh giác trong việc vận hành  nhà máy điện hạt nhân. Cách khiến chúng ta luôn ở trong trạng thái cảnh  giác, thức tỉnh một cách tích cực, chính là thấm nhuần văn hóa an toàn.
 Nhưng trước thảm họa Chernobyl, cũng xảy ra một tai nạn điện hạt nhân tại Mỹ khá nghiêm trọng? 
 Không ai bỏ qua bài học đó. Ngày 28-3-1979, các trục  trặc khai thác của ḷ PWR số 2 (900MW điện) tại Nhà máy Đảo Ba Dặm  (Three Mile Island) của Hoa Kỳ đă dẫn tới sự nóng chảy của tâm ḷ. Có  điều, nhà che chắn ở đấy đă hoàn thành phận sự của nó. 
 Phóng xạ thải ra môi trường rất hạn chế. Những người bị  chiếu xạ nhiều nhất vẫn ít hơn 1 mSv, trong khi giới hạn bức xạ cho  phép trên toàn bộ cơ thể cho công chúng là 1 mSv/năm. Tai nạn này chỉ  được xếp vào bậc 5 của INES mà thôi. 
 
Trong đó, với tai nạn Chernobyl, ngay tối hôm xảy ra  tai nạn, 26-4-1986, mức bức xạ ở Pripyat, cách nhà máy Chernobyl ba cây  số, lên tới 10 mSv/h, gấp khoảng 100 ngàn lần tiêu chuẩn cho phép.  Pripryat là thành phố mới để tiếp nhận gia đ́nh nhân viên nhà máy với  50.000 nhân khẩu.
 Nếu tai nạn ở Đảo Ba Dặm làm nổi bật tầm quan trọng của  các lỗi vận hành th́ thảm họa Chernobyl cho thấy sự cần thiết của một  nền Văn hóa An toàn. Nền văn hóa này cần được áp dụng cho mọi giới trong  chu tŕnh công nghệ hạt nhân, kể từ thiết kế, xây dựng, khai thác đến  kiểm tra an toàn.
 Tại Pháp, thiết kế của các ḷ PWR khác hẳn với  Chernobyl 4. Hơn nữa, mức độ an toàn (các phương thức, điều khiển khai  thác, bổ sung đường lối pḥng thủ) cũng như đào tạo nhân viên và tổ chức  công việc đă được hưởng kết quả bài học của tai nạn Đảo Ba Dặm. 
 Các cải tiến chủ yếu từ kinh nghiệm Chernobyl không chỉ  là cải tiến chất lượng quản lư sau tai nạn để hạn chế hậu quả. Như tôi  nói ở trên, Chernobyl c̣n khiến người ta hiểu được cái giá phải trả nếu  không tăng tính minh bạch và chất lượng thông tin công cộng. 
  
                           |  | 
                      | Một nhà máy hạt nhân ở Pháp. | 
      
  
Sau Chernobyl, Pháp cũng tăng cường mạng lưới đo liên  tục phóng xạ trên quy mô toàn quốc cũng như chuẩn bị các phương tiện hữu  hiệu để trợ giúp nạn nhân sơ tán cùng với kế hoạch khử xạ các khu vực  có diện tích lớn.
 Đảo Ba Dặm đă chứng minh kết quả tính toán về hiện  tượng nóng chảy tâm ḷ. Tai nạn này là một tổn hại kinh tế cho nhà khai  thác, nhưng c̣n có thể chấp nhận được cho con người v́ không có liều  lượng hấp thụ nào vượt quá giới hạn quy định cho phép. 
 
C̣n Chernobyl đă chuyển đổi các công thức lư thuyết  thải sản phẩm phân hạch và các biểu đồ phát tán trong khí quyển thành bi  kịch của con người trong thời gian dài. Chernobyl đă gây ra sự phản đối  điện hạt nhân của nhân dân các nước láng giềng như Đức và Thụy Điển  cùng những cuộc tranh luận kịch liệt giữa các chuyên gia.
 
Lối thoát duy nhất để điện hạt nhân nhận được sự tin  tưởng của xă hội chính là tôn trọng và củng cố nền Văn hóa An toàn, ứng  xứ với điện hạt nhân một cách có văn hóa ở tất cả các khâu.
 
Cám ơn bà.
   
                           | Từ sợi chỉ đỏ Văn hóa An toàn, c̣n dẫn đến việc thành lập: * Các bậc thang xếp hạng mang tên Thang Sự  kiện Hạt nhân Quốc tế (INES). INES được xác định từ các bậc cảnh báo của  Pháp lập ra sau thảm họa Chernobyl. Hệ thống có bẩy bậc, từ bậc 1  (tương ứng với một bất thường đơn giản mà không có hậu quả ǵ về an  toàn) tới bậc 7 (mức lan thải phóng xạ tai hại lớn cho sức khoẻ và môi  trường).
 * Một hệ thống báo cáo các trục trặc (IRS) cung cấp thông tin hỗ tương ở cấp độ quốc tế.
 * Một hiệp định quốc tế về mức độ nhiễm xạ của hàng hóa thực phẩm trong thương mại quốc tế;
 * Một hiệp định trong Cộng đồng Âu châu  (EU) về thông tin nhanh chóng về tai nạn hạt nhân và hỗ trợ khẩn cấp  trong trường hợp phóng xạ từ nước này sang nước khác.
 * Hội Thế giới các Nhà Khai thác Hạt nhân. Hội đă phát triển Văn hóa An toàn  thành Văn hóa An toàn Tổng quát.
 
 | 
      
 
  
 TS Tô Lệ Hằng 
Cựu chuyên viên Viện Bảo vệ & An toàn Hạt nhân Pháp 
Quốc Dũng thực hiện