Khi lạm phát xảy ra, đồng tiền sẽ mất giá. Vậy phần mất đi  của người nắm giữ tiền mặt sẽ đi đâu? Câu trả lời đơn giản là vào “túi”  của Nhà nước thông qua “thuế lạm phát”.
                                       Với  cùng một lượng tiền mặt như nhau nhưng khi lạm phát xảy ra, sau một  thời gian người giữ tiền sẽ mua được ít hàng hóa hơn. Ví dụ, với mức giá  tăng đến 17,96% trong năm 2010 và giả sử 1kg lương thực có giá 10 ngh́n  đồng vào đầu năm th́ 100 ngh́n đồng sẽ mua được 10kg, nhưng cuối năm  chỉ c̣n 8,5kg. Tính b́nh quân trong năm 2010, những người giữ tiền mặt  đă mất 11,75% giá trị tài sản của ḿnh khi so với rổ hàng hóa chung của  cả nền 
kinh tế.
 
 Phần mất đi của người nắm giữ tiền mặt sẽ đi đâu? Câu trả lời đơn giản là vào "túi" của Nhà nước thông qua "thuế lạm phát".
 
 Lạm phát được định nghĩa là mức tăng giá chung của nền kinh tế mà  nguyên nhân chính của nó là lượng tiền tăng cao hơn lượng hàng hóa sau  một thời gian. Hiểu một cách đơn giản, năm ngoái trong nền kinh tế có  100 đồng và 100 đơn vị hàng hóa th́ giá cả sẽ là 1 đồng/hàng hóa. Năm  nay do Chính phủ in thêm tiền nên trong nền kinh tế có thêm 10 đồng và  tổng số tiền sẽ là 110 đồng. Với giả sử số hàng hóa vẫn không thay đổi  th́ giá của một hàng hóa sẽ là 1,1 đồng hay tăng 10%.
 
 Bằng việc  in tiền để mua hàng hóa trong nền kinh tế của ḿnh, Nhà nước đă làm  giảm giá trị (sức mua) của lượng tiền đang có. Một cách gián tiếp Nhà  nước đă đánh thuế lên những người nắm giữ tiền mặt. Đây chính là thuế  lạm phát.
 
 Thuế lạm phát là thứ thuế mà hầu như nước nào cũng  có, nhưng nó có tính lũy thoái mà hiểu một cách đơn giản người có thu  nhập thấp hơn phải chịu mức thuế suất cao hơn.
  
  Ví  dụ một người có thu nhập 1 triệu đồng phải đóng thuế 200 ngh́n chắc  chắn thấp hơn số thuế 1 triệu đồng của người có thu nhập 10 triệu đồng.  Tuy nhiên, trong trường hợp này, người có thu nhập thấp hơn phải chịu  thuế suất gấp đôi (20% so với 10%) người có thu nhập cao. Điều này ngược  với nguyên tắc công bằng dọc trong thuế khóa, người có khả năng thấp  hơn phải chịu mức thuế thấp hơn.
 
 Nguyên nhân gây ra tính lũy  thoái của thuế lạm phát là do việc tăng giá trong nền kinh tế theo  khuynh hướng các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm - rổ hàng  hóa tiêu dùng chủ yếu của người nghèo - thường cao hơn rất nhiều so với  những mặt hàng khác, nhất là những hàng hóa cao cấp - loại hàng hóa  chiếm một tỷ phần chi tiêu lớn của những người khá giả hơn.
 
 Ví  dụ, nếu thu nhập của một người chủ yếu dành cho lương thực thực phẩm th́  năm 2010 họ phải "đóng thuế" khoảng 17%, trong khi nếu chi cho đồ uống  hay thiết bị và đồ dùng gia đ́nh th́ mức thuế chưa bằng một nửa con số  nêu trên. 
 
 Tóm lại, thuế lạm phát là thứ thuế tồn tại trong hầu  hết các nền kinh tế, nhưng nó có tính lũy thoái đánh vào người nghèo  gây ra bất công trong xă hội nên cần phải hết sức hạn chế bằng việc kéo  mức tăng giá xuống càng thấp càng tốt (thông thường là một vài phần trăm  ở các nước phát triển và dưới 5% ở các nước đang phát triển).
 
  Có một điểm cần lưu ư khác là sở dĩ bất kỳ một Chính phủ nước nào cũng  có thể in tiền và công chúng sẽ sử dụng chúng là do uy tín của Chính  phủ. Nói một cách khác đằng sau giá trị của đồng tiền một nước nào đó  chính là uy tín của Chính phủ. Do vậy, việc in và sử dụng tiền cần phải  tính toán hết sức cẩn thận.
  
Theo Tạp chí Tia Sáng