|
R6 Đệ Nhất Cao Thủ
Join Date: Jul 2008
Location: US
Posts: 2,240
Thanks: 2
Thanked 311 Times in 213 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 3 Post(s)
Rep Power: 20
|
Kết Từ:
Cho tới đầu thế kỷ XXI vẫn chưa thể h́nh dung ra h́nh dáng, kích thước, vị trí hay số lượng trụ đồng. Không hề có vết tích trụ đồng trên thực địa. Trong khi đó sách sử đương thời im lặng. Cũng không ai có thể khẳng định trụ đồng là biên giới Hán-Cổ Việt, biên giới Cổ Việt-Cổ Chàm (Lâm Ấp)–hay phía Nam cổ Chàm.
Những nỗ lực truy t́m trụ đồng cho thấy tính chất đàn hồi của biên giới và cuộc Nam tiến không ngừng—từ Cổ Sâm (Quảng Yên cũ, sau là Khâm Châu) xuống tận Núi Đá Bia (Phú Yên), dù măi tới khoảng năm 1,000 vua Champa mới dời đô vào Vijaya (Chà Bàn, B́nh Định).
Huyền thoại Mă Viện mà văn gia Hán hoang tưởng và hiệu đính gần hai ngh́n năm qua—có khả năng thuyết phục mạnh những người chỉ có vốn liếng kiến thức sơ đẳng hay lịch sử nhân dân, lịch sử nhiều người viết như Mao Nhuận Chi—là một trong những bằng chứng về thủ thuật sử dụng sách, sử làm vũ khí tuyên truyền, huyền thoại hóa sự thống trị cùng tham vọng thôn tính lân bang của Trung Nam Hải.
Lưu động tính của các vị trí dựng trụ đồng không chỉ giúp bài bác huyền thoại trụ đồng, nhưng cũng cho thấy lô-gích của nó nằm trong một âm mưu truyền kiếp “quay mặt về hướng nam” của Hán tộc. Việc Hà Lư Quang (năm 751), Trương Chu (809), hay Mă Tổng bắt chước “Mă Viện” dựng cột đồng “ở chỗ cũ” không chỉ để lưu danh. Chúng ta cũng từng ôn lại những sứ đoàn Trung Hoa được gửi sang “An Nam di” để t́m dấu tích trụ đồng. Mỗi lần vấn đề trụ đồng được nêu lên là có hiểm họa binh đao—từ Hốt Tất Liệt tới Chu Lệ.
Nhưng không thể không tự hỏi tại sao văn gia Hán đă hăng say tham dự cuộc ngụy tạo lịch sử này? Từ nhiều thế kỷ, văn gia TH thường rất tự hào về tính chất trung thực của thư tịch cổ thời TH. Một số học giả Tây Phương cũng đánh giá cao các sử liệu trên. Tuy nhiên, sự khả tín của thư tịch TH—ít nhất về cổ Việt và Champa—có nhiều dấu hỏi lớn.
Thứ nhất, là sử quan, những người chép sử không dám phạm thượng. Đa số đều muốn dùng văn tài ḿnh để tô hồng hay cung văn chế độ cho một mục đích nào đó. Thứ hai, sử quan và Nho gia định hướng Khổng Giáo không dám vượt qua những khuôn khổ như Thiên mệnh, “thánh giáo” do Khổng Khâu và các đệ tử “truyền lại.” Thứ ba là hiện tượng mọi rợ văn hóa: Được làm vua, thua làm giặc. Tiêu hủy di sản văn hóa các nước nhỏ hay các tộc dân bị cướp nước, ngụy tạo sử kiện, địa danh, nhân danh để biện minh cho tham vọng “thôn tính thiên hạ,” “đặt vào ṿng lễ giáo,” v.. v.. Dư luận dân chúng th́ được hâm nóng bằng hệ thống tuyên truyền tham vọng thực dân, và sự ưu việt Hán tộc [Han supremacy].
Việt Nam là bằng chứng hùng hồn nhất về hành động mọi rợ văn hóa Hán tộc—bên cạnh chủ trương “tằm ăn dâu” hay “vết dầu loang”: Lấn đất, di dân, rồi công khai xâm lăng, giết lănh đạo, đồng hóa một thiểu số thổ dân làm giai tầng trung gian. Nếu chưa thành công, lại khởi đầu trở lại chu tŕnh “thông hiếu” hay “cống lễ” [tributory networks] định kỳ. Ban mũ áo, đặt tên, dạy học chữ để đồng hóa. Chờ một cơ hội khác. Thời gian thường nằm về phía kẻ mạnh. Dân tộc Việt thường trực bị đe dọa bởi hiểm họa xâm lăng, đồng hóa của những người cầm quyền Bắc Kinh, bất kể màu sắc ư thức hệ, từ chuyên chính quân chủ, phong kiến tới quân phiệt “Tam Dân,” rồi dân chủ tập trung “định hướng xă hội chủ nghĩa.”
Lễ Nghĩa hay những nguyên tắc cao thượng, lư tưởng được nêu ra trong tứ thư, ngũ kinh hay sách vở của bách gia và tư tưởng Mao hay lư luận Đặng Tiểu B́nh chỉ là những tṛ chơi của trí tuệ—được trưng dẫn khi cần thiết. Doanh [Lă] Chính chôn nho sinh. Hạng Vũ hỏa thiêu Hàm Dương. Chu Lệ tịch thu hết sách vở Đại Việt mang về Kim Lăng, thay bằng sách sử nhà Tống. 320,000 Hồng quân đột ngột tràn qua biên giới Hoa-Việt mờ sáng ngày 17/2/1979, san thành b́nh địa hàng chục thị xă và thị trấn, hung hăn mở cuộc tàn sát thường dân để dạy cho tập đoàn Lê Duẩn một bài học. Chủ yếu luôn là thứ luật kẻ mạnh kiểu trung cổ và “nguyên thủy”: luật pháp và chính nghĩa nằm trong tay những kẻ mạnh nhất, và đủ nhẫn tâm giết người, cướp đoạt đất đai, tài sản người khác.
Từ hạ bán thế kỷ XX—tạm thời nghỉ ngơi để tiêu hóa cho xong những vùng lănh thổ khổng lồ của Manchuria, Tibet, Mongol—cơ quan tuyên truyền Bắc Kinh đưa ra thuyết “tổ hợp” [to incorporate] những đất đai và dân chúng mới chiếm đoạt để đồng hóa các nạn nhân. Những việc làm biểu kiến như xóa tên Yue Fei (Nhạc Phi, 1103-42) khỏi danh sách những anh hùng dân tộc [minzu yingxiong] trong sách giáo khoa lịch sử bậc tiểu và trung học (Beijing Youth Daily, Dec 2002) —cùng những khẩu hiệu như đoàn kết dân tộc [minzu tuanjie], hay đa dân tộc quốc gia [duominzu guojia], ngũ tộc cộng ḥa [wuzu gonghe], đại Trung Hoa dân tộc [Da Zhonghua minzu] —chỉ là những lớp bọc đường cho liều thuốc độc tiêu diệt bản sắc những sắc dân đă và đang bị thôn tính, đồng hóa. (67)
Song song với chiêu bài đạo đức giả trên—sẽ bị vứt bỏ khi cần thiết—là những chiêu bài quen thuộc khác khi muốn cướp bóc hay thôn tính lân bang, thứ chính nghĩa tự nhận “chinh thảo” [trừng phạt hay “dạy cho một bài học”]. Với vua quan Hán, như Lưu An đă nhắc nhở Lưu Triệt: không hề có chiến tranh, mà chỉ có trừng phạt những dân tộc không thờ kính thiên tử như con với cha theo lẽ trời [thiên mệnh] “sự đại” [thờ nước lớn]. Bài Chiếu đánh Đại Việt của Triệu Quang Nghĩa (976-997) vào tháng 9-10/980 [tháng 8 Canh Th́n] là một trong những văn kiện tiêu biểu:
Thanh giáo và oai linh của nước nhà vang dội khắp nơi [Quốc gia thanh giáo sở đàm, oai linh hàm kị.]
Gần đây, đất Diên Chỉ chưa [chịu] nhập vào bản đồ, tự đứng một phương, gần Ngũ Lĩnh. [Cố năi Diên Chỉ chi cảnh, vị qui dư địa chi đồ, thẩn tư nhất phương, cận tiếp Ngũ Lĩnh]
Cuối đời Đường loạn lạc, đất đai bị chia xẻ, chúng tiếm xưng làm một nước [bang], tách xa phong giáo, khiến phong hóa như của kẻ mù, đứa điếc [Đường mạt li loạn, khu nội phẫu phân, toại vi tiếm ngụy chi bang, tư thành lung cổ chi tục.]
Từ khi b́nh định Phiên Ngung, ban cho lịch sách mà tuân hành, tuy nhận làm phiên thuộc, mà vẫn lo việc binh bị, có ư tự cường [Cập Phiên Ngung đề định, chính sóc thủy ban, tuy khế thủ dĩ xưng phiên, phả thiện binh nhi tự cố.]
Phép thờ nước lớn, lẽ nào như thế? [Sự đại chi lễ, đương như thị hồ?]
Để cứu dân, chẳng đặng đừng ta phải đưa quân chinh phạt để thay đổi xứ mọi rợ; nay sai bọn Tôn Toàn Hưng qua đánh [Điếu dân chi hành, cái bất đắc dĩ, nghi cung hành ư thiên thảo, dụng phi biến ư man trâu, nghị dĩ Tôn Toàn Hưng đẳng xuất như tấn thảo.”]. (68)
Hạ bán thế kỷ XVIII, năm 1788-1789, Hoằng Lịch [Qian Long] định pḥ Lê đánh Tây Sơn để khôi phục một số quận huyện. Qua thế kỷ XIX, năm 1882-1885, Từ Hi Thái hậu cũng muốn “pḥ Nguyễn” chống di địch Pháp, để chiếm đoạt vùng phía bắc sông Hồng; nhưng cuối cùng bị thảm bại, phải kư thêm hiệp ước cắt đất và bồi thường chiến phí cho Pháp, khiến Đường Đ́nh Canh chịu chết trong ngục.
Hiện t́nh thế giới—sau bao thập niên bị cường quốc Tây phương và Nhật lăng nhục—khiến Bắc Kinh bớt kiêu ngạo, chấp nhận một thứ quan hệ “vừa là đồng chí vừa là anh em” trong “thế giới thứ ba.” Nhưng tham vọng cầm đầu khối những nước nghèo, bành trướng đất đai hầu chiếm đoạt tài nguyên thô, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa nhái và rẻ tiền, nhiễm độc, đồng thời chiếm đất di dân—thành lập những đạo quân thứ năm khắp thế giới—hầu tránh nạn nhân măn, và “thôn tính thiên hạ” vẫn nguyên vẹn nếu không phải ngày thêm thôi thúc.
Hạ bán thế kỷ XX, Trung Cộng gây chiến với Burma [Myanmar], Mongolia và India về biên giới. Bắc Kinh c̣n đ̣i Liên Sô Nga phải trả lại hơn 1.5 triệu cây số vuông lănh thổ mà Nga Hoàng chiếm đoạt trong thế kỷ XIX. Mao Nhuận Chi cho lệnh Vệ Binh Đỏ tŕnh diễn một màn “thanh giáo Mao” bằng cách xếp hàng dài theo biên giới, rồi tụt quần chổng mông về phía Nga. Cơ quan tuyên truyền Nga đối phó bằng cách trương h́nh Mao chủ tịch vĩ đại mỗi khi có màn tŕnh diễn “lễ giáo chổng mông” trong kinh điển tư tưởng Mao. (69)
Mao Nhuận Chi, người tự xưng là lănh tụ CS vĩ đại của “Thế Giới thứ ba,” năm 1936 than thở với Edgar Snow về việc bị thực dân Tây phương chiếm đoạt chư hầu, trong đó có Đông Dương; và từ năm 1949, “cống hiến vô tư” cho Hồ Chí Minh cùng Đảng CSVN. Nếu tin được Luo Guibo [La Quí Ba], mùa Hè năm 1950, khi tiếp đại diện phái đoàn cố vấn quân sự Trung Cộng trên đường qua Cao Bằng, Nhuận Chi căn dặn thuộc hạ đừng nên có tinh thần tự tôn nước lớn [big-state chauvinism]. Rồi, nhấn mạnh Hồ và Đảng CSVN đă mời họ qua giúp, không giống như Ma Yuan [Mă Viện] ngày nào. Mao chỉ không tiết lộ rơ âm mưu của ḿnh: dùng xương máu người Việt để bảo vệ cửa ngơ chiến lược Đông Nam, trước sự vây hăm của Liên bang Mỹ và Đồng Minh. Năm 1979, những tác giả lừng danh Việt Nam như Trường Chinh, Nguyễn Ngọc Minh, v.. v .. sau nhiều năm nung nấu, đă một lần được tự do thoá mạ tư tưởng Mao Trạch Đông phản động, thâm độc cùng cách sử dụng viện trợ theo kiểu “cà rốt và cây gậy,” trong chủ trương bành trướng, bá quyền nước lớn, “tọa sơn quan hổ đấu,” chống Mỹ đến “người Việt Nam cuối cùng.” (70)
Từ năm 1947, chính phủ Tưởng Giới Thạch rồi chế độ Mao Nhuận Chi đ̣i sửa lại các hoà ước bất b́nh đẳng kư với Pháp năm 1885 và 1887 bằng những ḥa ước bất b́nh đẳng Hoa-Việt khác. Sách giáo khoa sử địa vẽ bản đồ lănh hải TH chạy xa về phía biển Nam. Ngày 4/9/1958, Bắc Kinh công bố một bản đồ có lănh hải phía Nam gồm những gạch đứt đoạn. Ngày 19-20/1/1974, để trở lại với thế giới văn minh, Nhuận Chi và Ân Lai cho lệnh xâm chiếm Hoàng Sa bằng vơ lực, trước sự quay mặt làm ngơ của Cố vấn ANQG Henry A. Kissinger. (71) Ngày 17/2/1979, Deng Xiao-ping [Đặng Tiểu B́nh] mượn chiêu bài biên giới để dạy Lê Duẩn và Đảng CSVN “một bài học” luật kẻ mạnh, sử dụng hơn 320,000 Quân Giải Phóng [QGP] cùng tăng pháo tàn phá sáu [6] tỉnh biên giới suốt 30 ngày Xuân Kỷ Mùi [1979]. Rồi chiếm cứ một số cao điểm chiến lược ở biên giới. (72) Sau đó, bắt Hà Nôi cắt đất, cắt biển năm 1999 và 2000, hiệu lực từ năm 2004. Qua năm 2009, lại áp lực kư hiệp ước “tay đôi” về Hoàng Sa [Paracels] và Trường Sa [Spratlys]. Ngày 7/5/2009, Bắc Kinh nộp cho LHQ một bản đồ lănh hải, tự nhận chủ quyền 80% biển Đông, bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, và lănh hải chia làm 9 điểm đứt quăng, sát với VN, Malaysia, Brunei, và Philippines. Ngày 8/5/2009, Việt Nam gửi công hàm số 86/HC-2009 lên Tổng thư kư LHQ bác bỏ nó “không có giá trị v́ không có cơ sở pháp lư, lịch sử và thực tiễn.” (73)
Mới đây, tờ Tuổi Trẻ ở Sài G̣n đi tin Đại sứ Nguyễn Văn Thơ họp báo ở Bắc Kinh ngày 8/1/2010, tuyên bố quan hệ 16 chữ vàng—láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, tiến tới tương lai—nhưng cũng xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Thông tấn xă và báo chí Trung Cộng chỉ nói đến phần hữu nghị, hoàn toàn im lặng về lănh hải. Báo Tuổi Trẻ in thêm vào, hay báo chí Trung Cộng cắt bỏ?
|