View Single Post
Old 02-09-2011   #5
cuopbank
R6 Đệ Nhất Cao Thủ
 
cuopbank's Avatar
 
Join Date: Jul 2008
Location: US
Posts: 2,240
Thanks: 2
Thanked 311 Times in 213 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 3 Post(s)
Rep Power: 20
cuopbank Reputation Uy Tín Level 6
cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6
Default B. KHÔNG CÒN DẤU TÍCH:

1. Hiện nay, không còn dấu tích trụ đồng.

Một sự thực không thể chối cãi là chưa ai tìm được dấu vết trụ đồng. Lối giải thích có vẻ hợp lý là theo thời gian, trụ đồng đã bị mai một. Du Ích Kỳ, từng đến Nhật Nam, cho rằng sau khi dựng hai cột đồng, Mã Viện lưu lại 10 gia đình người Hán, gọi là “Mã Lưu” [người họ Mã bị lưu đầy] ở bờ phía nam Thọ Linh, đối diện trụ đồng, sau này tăng lên đến 200 hộ. Trụ đồng đã chìm trong biển, chỉ dựa vào những người này mới biết vị trí trụ đồng. (39)

Lâm Ấp Ký, không rõ tác giả và đã tuyệt bản, ghi người bản địa gọi những người lưu lại ở trụ đồng ranh giới nhà Hán với nước Tây Ðồ là Mã lưu. Cựu Ðường chí [Cựu Ðường thư] cũng ghi truyện Mã Lưu. Tân Ðường thư cho rằng người Mã Lưu và núi Trụ đồng ở châu Bôn Ðà Lăng, phía nam Lâm Ấp hai nghìn [2,000] lí. Sơ học ký, 6, dẫn Ngô Lục của Trương Bột, ghi trụ đồng và người Mã lưu ở Tây Ðồ, trên một bãi nhỏ dài 30 dặm, của một đảo phía nam Tượng Lâm. Ðời Tùy lên tới 300 hộ. (40)

Thoạt nghe có vẻ khả tín, nhưng xét lại, chẳng ai biết chứng nhân “Mã Lưu” ở đâu, còn hay mất. Trụ đồng không thấy, nhân chứng không biết ở đâu. Sự khả tín của thông tin trụ đồng đành phải dựa trên thư tịch hoặc truyền thuyết.

C. KHÔNG RÕ MỤC ÐÍCH HAY VỊ TRÍ:

Những người nghiên cứu về trụ đồng hầu như nhất trí rằng Mã Viện đã dựng trụ đồng để đánh dấu biên giới phía nam đế quốc Hán, nhưng chỉ có thế. Ðịnh nghĩa hay cách diễn giải biên giới phía nam, tức vị trí của cái gọi là trụ đồng trái ngược, thay đổi theo thời điểm và hoàn cảnh, hoặc do sở kiến mỗi cá nhân.

1. Một số người cho rằng Mã Viện dựng trụ đồng để phân định biên giới đế quốc Hán và cổ Việt .

Những người theo thuyết này đi tìm trụ đồng ở vùng Lạng Sơn hay Quảng Yên.

a. Chu Khứ Phi, tác giả Lĩnh Ngoại Ðại Ðáp, từng làm thông phán ở Quế Lâm (Quảng Tây) đời Tống (960-1279), cho rằng trụ đồng ở khu động Cổ Sâm, Khâm Châu, phía tây châu Khâm khoảng ba [3] lí. (41)

b. Minh Nhất Thống Chí, theo Nhất Thống Chí nhà Nguyên, và Thanh Nhất Thống Chí, theo Chu Khứ Phi, chép trụ đồng Mã Viện ở “Ðèo Phân Mao,” động Cổ Sâm, châu Khâm. Ghi thêm sau khi dựng trụ đồng, Viện có lời thề: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt.” (42)

c. Nguyễn Thiên Túng, khi chú thích Dư Ðịa Chí (hay An Nam Vũ Cống) của Nguyễn Trãi, nói Kim Tiêu là Trụ Ðồng, Phân Mao [tại Yên Bang] là “núi Phân Mao.” (43)

d. Lê Quí Ðôn ghi trong Văn [Vân] Ðài Luận Ngữ Mã Viện dựng hai “kim tiêu” ở Quỉ Môn Quan. Quỉ Môn Quan có lẽ là huyện Bắc Lưu, gần châu Tân An [Tiên Yên], trấn Quảng Yên. Tại Phân Mao Lĩnh, cách Khâm Châu 300 lí về phiá nam, có một đồng trụ lớn hơn 2 thước. Có lẽ do Mã Tổng [Ðổng] dựng lên trong niên hiệu Nguyên Hòa (806-820). (44)

Như thế, nhà Thanh, giống như nhà Minh, có vẻ tạm thời chấp nhận biên giới hiện hữu giữa hai nước.

2. Một số người khác cho rằng trụ đồng là biên giới Giao Chỉ bộ và Lâm Ấp.

a. Du Ích Kỳ cả quyết Mã Viện dựng hai cột đồng phía bắc Lâm Ấp. (45)

b. Tùy Thư [Sui shu] ghi trụ đồng cách phía bắc kinh đô Lâm Ấp tám [8] ngày đường. Tư Mã Quang, trong Tư trị Thông giám [đời Tống, 294 quyển], dẫn lại chi tiết trên. (46)

Vị trí trụ đồng, như thế, nằm vào khoảng ranh giới Nghệ An và Quảng Bình, tức đèo Ngang trên Hoành Sơn (đạo Hà Tĩnh thời Tự Ðức)

c. Các tác giả Ðại Nam Nhất Thống Chí và Ðào Duy Anh ghi ở núi Hùng Sơn, Nghệ An. (47)

d. [Thái Bình] Ngự Lãm 74 dẫn Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ: Mã Viện chất đá làm bờ tới ngách sông Tượng Phố, dựng cột kim tiêu làm biên giới. (48)

Những người diễn giải trụ đồng dựng lên ở cực nam Giao Chỉ bộ thời Mã Viện—tức quận Nhật Nam—khó thể xác định lãnh thổ Nhật Nam, hay nước Lâm Ấp. Thế kỷ I Tây lịch, hơn một thế kỷ sau khi sử sách TH đặt “quận Nhật Nam” [hay Tượng Lâm] vào bản đồ, nhân ngày Tết, Lưu Trang (Hán Minh đế, 58-75) hỏi Trương Trọng, một tiểu quan từng ở Nhật Nam, là phải chăng nhà ở Nhật Nam đều mở cửa về phía Bắc để ngóng ánh mặt trời [Nhật Nam quận bắc hướng thị nhật da?] (49)

Khó xác định Lưu Trang có hàm ý gì. Nhưng đọc kỹ chú giải của văn gia đời sau, rõ ràng vua quan Hán tin mặt trời mọc ở phương Bắc của xứ “hoang phục.” Nhan Sư Cổ (581-645), làm việc dưới triều Lý Uyên (Ðường Cao Tổ, 618-626) và Lý Thế Dân (Thái Tông, 627-647) thường chú giải ngũ kinh và Hán Thư của Ban Cố, nói “Nhật Nam là nói về phía nam mặt trời; là bảo mở cửa phía bắc để hướng về [đón ánh] mặt trời.” Khi nói về việc Ðàn Hòa Chi đánh cướp Lâm Ấp, năm 436 hoặc 447, Vương Sung chép trong Luận Hành: “Quận Nhật Nam cách Lạc Dương ngót muôn dặm, vậy ở phía nam mặt trời.” Như dựng cây nêu tại thành Khu Túc, lị sở huyện Tượng Lâm (Nhật Nam), cây nêu 8 thước bóng của nó ở phía Nam là 8 tấc; dựng nêu ngày 5/5 âm lịch [mùa Hè] cũng thấy bóng ở phía nam cây nêu! (50)

Khoảng ba thế kỷ sau, đời Lý Long Cơ [Ðường Huyền Tông, 713-755], khi Dương Tư Húc và Nguyên Sở Khách đi đánh Mai Thúc Loan, cũng đo bóng mặt trời ngày Hạ Chí ở Giao Châu, thì khám phá ra bóng của cây nêu ở phía nam ba tấc, ba phân—chẳng khác biệt gì với cuộc đo của Ðàn Hòa Chi. (51) Ðến đời nhà Minh (1368-1644), Ngũ Sùng Diệu [Âu Ðại Nhâm?] tác giả Lĩnh Nam di thư, còn nhắc lại sự cố “Nhật Nam nằm về phía nam mặt trời”. (52)

3. Trụ đồng được dựng lên ở phía nam Lâm Ấp, giáp ranh với nước Tây Ðồ.

Vài tác giả dời trụ đồng xa hơn nữa về phía nam.

a. Lưu Hân Kỳ, tác giả Giao Châu Ký, đã tuyệt bản, là một trong các tác giả được trích dẫn nhiều nhất. Lịch Ðạo Nguyên có vẻ đồng ý khi dẫn Lưu Hân Kỳ: Mã Văn Uyên [Mã Viện] lập dấu mốc phía nam đất Hán. (53)

b. Lâm Ấp Ký, một tựa sách không rõ tác giả và cũng đã tuyệt bản, chép năm 43, Mã Viện trồng hai trụ đồng ở phía nam Tượng Lâm, làm ranh giới nhà Hán với nước Tây Ðồ. Lịch Ðạo Nguyên cũng dẫn sách này. (54)

c. Trương Bột, tác giả Ngô Lục, nói trụ đồng ở Tượng Lâm, đánh dấu biên giới cực nam của nhà Hán. (55)

d. Trong mục Nam Hải (ch 54) của Lương Thư, Yao Ssu lien (d. 637) cho Mã Viện từ Nhật Nam đi về hướng nam bốn trăm [400] lí mới đến Lâm Ấp; đi thêm về hướng nam hai trăm [200] lí nữa rồi dựng trụ đồng ở biên giới Tượng Lâm và Tây Ðồ. (56)

e. Văn gia Ðường và Tống có vẻ tán thưởng sự khai sinh thực thể “Tây Ðồ” này. Ðỗ Hữu ghi trụ đồng nằm 2,000 lí phía nam Lâm Ấp. Nhạc Sử (990-1007) đời Tống, nói đi từ Nhật Nam bốn trăm [400] lí tới Lâm Ấp, đi hơn hai mươi [20] lí nữa tới nước Tây Ðồ Di. (57) Tân Ðường thư của Âu Dương Tu 1007-1072) và Tống Kỳ (998-1061) cho rằng Lương Thư viết sai, tự động đưa trụ đồng xa hơn về phía Nam: Núi Trụ đồng nằm ở châu Bôn Ðà Lăng; từ Nhật Nam Mã Viện đi bốn trăm [400] lí đến Lâm Ấp; từ Lâm Ấp đi thêm hai nghìn [2,000] lí nữa về hướng Nam mới dựng trụ đồng. Cựu Ðường Chí thêm: Ðường thủy, từ phủ An Nam tới Lâm Ấp 3,000 lí. Từ quận Giao Chỉ tới trụ đồng là 5,000 lí. (58)

Như thế trụ đồng nằm ở khoảng núi Ðá Bia, phía Bắc Ðèo Cả (Phú Yên).

g. Từ phía nam Giao Chỉ theo đường thủy 3,000 lí tới Lâm Ấp. Từ quận Giao Chỉ tới cột đồng 5,000 lí. (59)

4. Lại có tác giả nói Nhật Nam bao gồm Phù Nam.

Vậy trụ đồng Mã Viện có thể ở gần Cà Mau hiện nay.

Cố Tổ Vũ, tác giả Ðộc sử phương dư kỷ yếu (đời Thanh), ghi: Phù Nam là một hòn đảo lớn nằm về phía tây Nam Hải, thuộc quận Nhật Nam, bắc cách Nhật Nam 7,000 lí, nằm về hướng tây nam của Lâm Ấp khoảng 3,000 lí; rộng 3,000 lí. (60) Theo Việt Nam Tạp Yếu: Trụ đồng của Mã Viện ở phía nam Quảng Hòa. Nước Tây Ðồ Di là nước Mãn Thích Gia, sau đổi là Ca la phú sa; rồi bị Chiêm Thành diệt. Trải dài tới Vĩnh Long. (61)

Ðiều đáng ghi nhận là trong nỗ lực xác định vị trí của trụ đồng, văn gia TH không ngớt mở rộng biên giới Hoa Hạ khiến vị trí trụ đồng Mã Viện ngày một Nam tiến.

D. SỐ TRỤ ÐỒNG THAY ÐỔI:

Số trụ đồng do Mã Viện dựng lên trong các truyền thuyết cũng thay đổi, từ một tới năm “kim tiêu.”

1. Văn gia đời Tùy nói có một hay hai trụ đồng [Tùy thư chép Lâm Ấp ở phía nam trụ đồng].

Ðỗ Hữu ghi trong Thông Ðiển phía nam Lâm Ấp 2,000 lí có hai trụ đồng sát biên giới Tây Ðồ Di (núi Ðồng Trụ chu vi 10 lí).

2. Tống Bạch suy đoán có ba [3] cột đồng ở biên giới Tây Ðồ Di và Tượng Lâm, 200 lí phía nam Lâm Ấp. Từ Giao Châu tới trụ đồng là 5,000 lí. (62)

3. Hồ Tam Tỉnh đời Tống đưa lên năm (5) trụ đồng hình như cái lọng ở Ðại Phố, phía nam Lãng Ðà (Lâm Ấp). (63)

Việc tự do hiệu đính hay sửa chữa trên có thể do từ đời Tống, Nguyên, Minh, hay Thanh kiến thức địa lý về phương nam đã khá hơn. Nhưng không thể không nghĩ đến thói quen ghi vào sử sách những biên giới hoang tưởng, chờ ngày “thôn tính” [cướp đoạt]–hay “khôi phục,” nếu muốn. Khi sử dụng sử liệu TH, nếu không cân nhắc kỹ lưỡng yếu tố này, rất dễ bị lạc đường. Và, khó thể tách “trụ đồng Mã Viện” khỏi tham vọng bành trướng—như một cái cớ để đòi trả lại những đất đai hoang tưởng đã mất. Miệng kẻ “sang” [mạnh] có gang có thép, dù cái lưỡi uốn lượn trăm chiều. Nhưng “Quốc sử” đời Hậu Lê và nhà Nguyễn vẫn sao chép huyền thoại trụ đồng, theo kiểu “dĩ nghi, truyền nghi,” sa vào lưới nhện tham vọng bành trướng của Hán tộc.( 64)

Từ đầu thế kỷ XX, những nghiên cứu của Tây phương, đặc biệt là học giả Pháp—áp dụng những phương pháp làm việc khoa học hơn, khảo sát khá kỹ các di vật còn sót trên mặt đất—để tái dựng lại lịch sử nghệ thuật [arts history] của Champa và Kambojas. Ðược chính phủ Bảo hộ Pháp trợ cấp, những người như Louis Finot, Georges Coedès, Partmentier, v.. v. .. đã làm việc trên 250 di chỉ khảo cổ—đặc biệt là các tháp chứa linh vật như Linga, tượng Phật, những tấm bia có khắc chữ Sanskrit hay một loại chữ Chàm biến thái từ Sanskrit, cùng những “hoa văn” điêu khắc (như voi, sư tử đều nhảy múa). Nhiều cổ vật đã bị thời gian, thiên tai, chiến tranh, và những hành vi mọi rợ văn hóa—như tàn phá dấu tích nước bại trận hay trộm cắp (Hán, Việt cũng như Tây phương) —khiến chứng tích sự hiện hữu của một quốc gia hưng vượng trong nhiều thế kỷ ngày một hiếm hoi. Dù còn thiếu sót, những công trình trên giúp đặt xuống những viên đá lót đường đầu tiên cho việc tìm hiểu về dân Chàm nói riêng, và lịch sử Việt Nam nói chung. Dựa trên những mẩu thông tin trái ngược nhau và mức khả tín vô cùng giới hạn trên, người phỏng đoán trụ đồng nằm ở “Phân Mao Lĩnh,” Cổ Sâm, Khâm Châu (theo Lĩnh Ngoại Ðại Ðáp [của Chu Khứ Phi] đời Tống, dẫn trong ANCL, và Nhất Thống Chí nhà Minh, nhà Thanh). Người suy đoán ở đèo Ngang, tức Hoành Sơn, ranh giới tự nhiên của hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay (theo Lịch Ðạo Nguyên, trong Thủy Kinh Chú; Lưu Hân Kỳ, trong Giao Châu Ký). Có tác giả nghĩ nó ở vùng Huế. (Aurousseau, Claeys) Lại có người cho Mã Viện xuống tới tận núi Ðá Bia (Ðèo Cả), Phú Yên (theo Tân Ðường Thư). Tự điển Từ Hải cũng theo thuyết này, có lẽ do mục tiêu chính trị hơn sự thực sử học. (65) Và khó thể không đồng ý với Maspéro rằng đây chỉ là một huyền thoại. (66)
cuopbank_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.10842 seconds with 10 queries