View Single Post
Old 02-09-2011   #4
cuopbank
R6 Đệ Nhất Cao Thủ
 
cuopbank's Avatar
 
Join Date: Jul 2008
Location: US
Posts: 2,240
Thanks: 2
Thanked 311 Times in 213 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 3 Post(s)
Rep Power: 20
cuopbank Reputation Uy Tín Level 6
cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6
Default II. TRỤ ĐỒNG MĂ VIỆN: SỰ THỰC LỊCH SỬ HAY HUYỀN THOẠI?

Cuộc tái xâm lăng cổ Việt năm 42-44 để lại nhiều huyền thoại. Sách sử Trung Hoa chép vơ công của Mă Viện như một cuộc chinh thảo, tuân theo mệnh trời, dẹp nội loạn do vợ chồng hoặc chị em bà Trưng khởi xướng–đặt Giao Chỉ trở lại bờ cơi Hán.
Trong Trung Quốc thông sử giản biên, Phạm Văn Lan nhận xét rằng xâm lược là sứ mệnh khai hóa của Hán tộc, và Trưng Vương chỉ v́ tư thù Tô Định giết chồng mà dấy binh, không chống sự cướp nước của nhà Hán, giành độc lập. Một tác giả Đài Loan cũng đưa ra lập luận tương tự. (27) Sử sách Việt, ngược lại, đánh giá cuộc dấy binh của hai bà Trưng như sự tiếp nối quốc thống từ nhà Hồng Bàng–một diễn tập cho phong trào đ̣i độc lập, tự chủ. (28)

Trọng tâm bài viết này vượt trên khuynh hướng cung văn và đào mộ nói trên, chỉ xét lại truyền thuyết Mă Viện dựng trụ đồng trong sử văn cũng như thực địa, hy vọng t́m hiểu thêm về biên thùy phía Nam của đế quốc Hán.

A. KHÔNG GHI TRONG HÁN THƯ:

Hậu Hán Thư hoàn toàn im lặng (trong “Mă Viện truyện”). Trụ đồng của “Mă Văn Uyên” [Mă Viện] chỉ được nhắc đến từ thế kỷ IV-VI, trong các dă sử đă tuyệt bản như Quảng Châu Kư, Lâm Ấp Kư, Giao Châu Kư của Lưu Hân Kỳ, rồi dẫn lại và b́nh luận trong Thủy Kinh Chú, Thái B́nh Ngự Lăm đời Đường, v.. v... (29)

Chứng từ của các quan cai trị Hán đương thời–kể cả Lư Cố, sau Mă Viện 100 năm, tác giả thuyết “dĩ man trị Man,” hay Tiết Tông (Kính Văn), phục vụ Sĩ Nhiếp vào cuối thế kỷ II, đầu thế kỷ III–không nhắc đến trụ đồng. Trong những thông tin về cuộc cướp phá Champa của Nguyễn Phu năm 353, hay Đàn Ḥa Chi năm 436 hoặc 446 đều im lặng, chỉ nói “ấn vua đă ban xuống mà vàng chưa dâng lên;” cách phá tượng trận do Tông Xác phát minh, hay, công bố kết quả thí nghiệm đo bóng mặt trời. (30)

Truyền thuyết trụ đồng được nhắc đến lần đầu trong Tùy thư, đoạn nói về Lưu Phương đi đánh Champa tháng 1-2/605, v́ “nước Lâm Ấp có nhiều của báu, nhưng lâu đời không đến chầu.” Tháng 3-4/605, sau khi đả bại Sambhuverman Chumnik [Phạm Chi, 595-629, có mộ bia tên nước Champa], giết hàng vạn người, Phương tiến quân qua trụ đồng của Mă Viện. 8 ngày sau, tới kinh đô Champa, cướp đoạt 18 [12] bài vị bằng vàng, ghi công vào bia đá rồi về. Tuy thắng trận nhưng quân lính chết 3, 4 phần 10, và Phương cũng ốm chết dọc đường. (31)

Thoạt nghe, tưởng chừng thông tin khá đầy đủ. Thực ra, khoảng cách “tám ngày đường” quá mơ hồ. Đạo quân viễn chinh di chuyển bằng đường bộ được khoảng 20-30 lí mỗi ngày; như thế trụ đồng ở phía bắc kinh đô Champa từ 160 tới 240 lí, hay khoảng trên dưới 100 cây số. Quái ác là không rơ kinh đô Champa ở đâu. Có thuyết nói 8 đời vua Champa cai trị ở Singapura hay Simhapura [Sư tử thành], tại Trà Kiệu [Quảng Nam] đến năm 750. Nhưng không một bia đá nào cho phép khẳng định vị trí Sư Tử Thành, ngoài di tích một thành bị đốt cháy. Trong thập niên 1830, người Bri-tên mua được của tiểu vương Malay một ḥn đảo có tên Singapura [Sư Tử Thành], hay đảo hải tặc, nằm trên xích đạo, tức Singapore hiện nay. Tuy nhiên, hai vạn quân viễn chinh của Mă Viện khó có khả năng di chuyển trên 2,000 cây số hay 4,000 lí trong ṿng một năm (43-44). Kinh đô Champa có thể là Quảng B́nh, Thừa Thiên, hay Quảng Nam, nơi c̣n dấu tích công tŕnh xây cất của dân Chàm. Thành Vijaya [Đồ Bàn hay Chà Bàn] ở B́nh Định chỉ trở thành kinh đô Champa từ thế kỷ thứ X.

Dù chẳng biết trụ đồng ở đâu—v́ ngay cả kinh đô Champa cũng chỉ suy đoán vu vơ—văn gia Hán đời sau vẫn sao đi chép lại sự tích trụ đồng. Khoảng đời Đường, trụ đồng trở thành ấn chứng hùng hồn của ranh giới phía nam đế quốc Hán. Vài quan lại thực dân “bắt chước Mă Viện.” Trong số này có Hà Lư Quang (năm 751) khi đi đánh Nam Chiếu (Vân Nam); và, Mă Tổng, “khoảng đời” Lư Thuần (Hiến Tông, 806-820), [không rơ cai trị bao lâu ở An Nam], dựng cột đồng “ở chỗ cũ.” Khoảng đầu thế kỷ thứ IX, Liễu Tông Nguyên nhắc đến trụ đồng trong bia mộ Trương Chu, đánh giá vơ công Chu to lớn hơn cả Viện. (32)

Qua thế kỷ X, sau khi cổ Việt giành được độc lập, trụ đồng được lịch sử hóa. Tháng 9-10/980, trong chiến thư gửi Lê Hoàn của Triệu Quang Nghĩa (Tống Thái Tông, 977-997) Vương Vũ Xương chính thức nhắc đến cột đồng. Nó được viện dẫn như một cái cớ [pretext] về việc tranh giành đất đai và “khôi phục” lănh thổ cũ đời Hán—hầu khai thác cái chết đột ngột của cha con Đinh Tiên Hoàng, xâm lăng “Đại Cồ Việt” kiểu “sét đánh không kịp bịt tai” theo đề nghị của Hầu Nhân Bảo và Lư Đa Tốn:

Ngày xưa về thời Thành Chu [nước ngươi] đă đem dâng chim trĩ trắng. Đến thời Viêm Hán dựng cột đồng. Đến đời Lư Đường từng là đất của TQ. Ngươi không nên nấp vào xó tối [úp mặt vào góc nhà] để ta khó chịu, khiến ta dùng đến kế chặt xác bằm xương, làm cỏ nước người, lúc ấy hối cũng không kịp.

Cho dù biển của ngươi có ngọc ta cũng ném xuống suối. Núi của ngươi có vàng ta cũng quẳng vào bụi. Không phải ta tham của báu của ngươi. Nếu theo th́ tha tội, nghịch lại th́ ta đánh [hướng hóa ngă kỳ xá, nghịch mạng ngă kỳ phạt]. (33)

Từ đó, trụ đồng biến thành vũ khí ngoại giao mỗi khi Trung Hoa muốn xâm lấn hay xách nhiễu. Năm 1272, sau khi lập nên nhà Nguyên, Qublai Khan [Hốt Tất Liệt] sai người sang hỏi về trụ đồng để xác định biên giới. Nhưng sau nhiều chuyến khảo sát thực địa, không thấy dấu vết nào—dù theo truyền thuyết, v́ sợ lời đe dọa của Mă Viện, dân Việt không ngừng ném đá, đất vào chân trụ đồng để nó không bị đổ. Việc này xảy ra sau khi sứ đoàn Hốt Lăng Hải Nha và Trương Đ́nh Trăn (Trương Lập Đạo) đă sang Đông Kinh cuối năm 1271, đ̣i Trần Thánh Tông (1258-1278) qua chầu, nhưng vua nêu lư do bị bệnh, từ chối, và cũng không chịu lạy sứ lúc nhận chiếu—v́ theo tục lệ Việt Nam chỉ nhận chiếu ở điện chính, sau đó lui về nhà riêng. Qublai Khan đồng ư cho giữ tục lệ, nhưng vẫn đ̣i phải qua chầu. Vua Trần cả quyết không qua chầu, chấp nhận hai cuộc đại chiến năm 1278 và 1287-1288, và chuẩn bị trận chiến vệ quốc thứ ba vào thập niên 1290—nhưng cái chết của Qublai Khan khiến cả hai nước tránh được cảnh binh đao. Dă sử Trung Hoa cho rằng nhà Trần cuối cùng chấp nhận cống tượng người vàng để đổi ḥa b́nh, nhưng chính sử Hoa và Việt đều im lặng. Thực tế vua Trần c̣n cho đục thuyền giết chết Ô Mă Nhi khi trao trả tù binh, v́ Ô Mă Nhi đă tàn phá lăng tẩm ở Long Hưng (Hải Dương).(34) Tháng 8-9/1345, Thoát Hoan Thiếp Mộc Nhĩ (Nguyên Thuận Đế, 1333-1368) lại sai Vương Sĩ Hành sang khảo sát vị trí trụ đồng. Trần Dụ Tông (1341-1369) sai Phạm Sư Mạnh đi biện bạch, nhưng không rơ kết quả. (35)

Qua đời nhà Minh, năm 1396, thổ tri phủ Tư Minh (Quảng Tây) là Hoàng Quảng Thành tâu lên Chu Nguyên Chương (Thái Tổ, 1368-1398) rằng Đồng Đăng (phía bắc Lạng Sơn 14 cây số) là đất Đồng trụ. Khi Mông Cổ đánh Tống, An Nam—quốc hiệu này được chính thức ban cho Lư Anh Tông năm 1163 hay 1175—cung cấp quân lương tới trại Vĩnh B́nh, cách đồng trụ 100 lí. Cuối đời Nguyên, Giao Chỉ đánh chiếm trại Vĩnh B́nh [có lẽ là đầu nguồn sông Kỳ Cùng], vượt qua Đồng Trụ hơn 200 lí, lấn cướp năm [5] huyện Khâu Ôn, Như Ngao, Khánh Viễn, Uyên và Thoát. Xin sức cho An Nam trả lại đất ấy. Nguyên Chương sai Trần Thành qua bàn thảo, không xong. Năm 1405 Chu Lệ (Thành Tổ, 1403-1424) khai thác việc Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần, sử dụng bọn thái giám đă cống cho Kim Lăng theo đ̣i hỏi năm 1370 để chuẩn bị cho một cuộc chinh phạt. Nhân cơ hội, Quảng Tây lại đ̣i trả sáu [6] động đă mất. Tháng 3/1405, “Cát địa sứ” Hoàng Hối Khanh hăng say cắt đất đổi ḥa b́nh đến độ “trả lại” 59 thôn ở Cổ Lâu. Quí Ly phải đầu độc các tân thổ quan do nhà Minh bổ nhiệm. (36)

Sau đó, năm 1407, Chu Lệ lại sai Trương Phụ và Mộc Thạnh đánh chiếm cả Đại Việt dưới danh nghĩa phù Trần diệt Hồ, bắt gia đ́nh Quí Ly mang về Kim Lăng. Thay v́ đưa con cháu nhà Trần lên ngôi, Trương Phụ cho bọn Mạc Thúy (ḍng giơi Mạc Đĩnh Chi) làm tờ biểu xin vào lại bản đồ đế quốc Minh. Năm 1416, Kim Lăng c̣n tập trung gần 10,000 quan lại bản xứ, phân phát bằng sắc do triều đ́nh Minh bổ nhiệm, với lời khuyên dụ bọn tả Bố chính sứ Nguyễn Huân, Tham chính Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung v.. v.. nên cố gắng trung thành, đánh dẹp các nhóm kháng Minh, để con cháu ngàn đời hưởng lộc, danh thơm sử xanh muôn đời. Nhưng đại đa số người Việt khó chấp nhận. Suốt 20 năm Minh xâm chiếm, khoảng 60 cuộc dấy binh nổi lên khắp nơi. Đế Ngỗi và Lê Lợi chỉ là hai nhân vật kiệt hiệt hơn cả. Sau khi Chu Lệ bị giết tại sông Du Mộc, cháu nội là Chiêm Cơ (Tuyên Tông, 1426-1435), đành gác mộng đặt Đại Việt vào bản đồ, chấp nhận băi binh, thu tiền măi lộ qua h́nh thức “cống lễ” tượng người vàng, cùng sản vật địa phương để đổi ḥa b́nh. (37)

Suốt triều Lê Lợi (1428-1433), Chiêm Cơ chỉ cho tạm giữ quyền việc nước (“Quyền thự An Nam Quốc Sự.”) Một trong những lư do là Lê Lợi lập Trần Cảo làm vua, rồi nhân danh Cảo xin ḥa và cầu phong. Dù Cảo chỉ mạo danh họ Trần, nhưng đủ để gỡ sĩ diện là vẫn trung thành với nguyên tắc “diệt Hồ, phù Trần,” Chiêm Cơ cho Cảo [Cao] làm An Nam Quốc Vương. Ngày 23/3/1428, sai bọn Lư Kỳ tới Đông Kinh phong vương, nhưng hai tháng trước, Lê Lợi bắt Cảo [Cao] uống thuốc độc chết. Trong ba năm 1428-1430, Chiêm Cơ cương quyết đ̣i t́m con cháu nhà Trần. Lê Lợi dùng vàng bạc sính cống, đồng thời ràng buộc việc sắc phong với vấn đề trao trả tù binh. Có lẽ v́ khó áp lực quá đáng, sau khi Lê Lợi hoàn trả hơn 86,000 dân quân, mỗi năm biếu xén khoảng 50,000 lạng vàng/bạc, cùng quà tặng cho cả mẹ, vợ, hay Hoàng tử của Chiêm Cơ, ngày 5/12/1431 Chiêm Cơ phong Lê Lợi làm “Quyền thự An Nam Quốc Sự.” Ngày 19/3/1437, Chu Kỳ Trấn (Anh Tông, 1435-49, 1457-63) mới cho “Lê Lân” [Lê Thái Tông] chức quốc Vương, b́nh thường hóa quan hệ, dựa theo điều lệ năm 1370 của Nguyên Chương. (38)
cuopbank_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.10692 seconds with 10 queries