View Single Post
Old 02-09-2011   #2
cuopbank
R6 Đệ Nhất Cao Thủ
 
cuopbank's Avatar
 
Join Date: Jul 2008
Location: US
Posts: 2,240
Thanks: 2
Thanked 311 Times in 213 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 3 Post(s)
Rep Power: 20
cuopbank Reputation Uy Tín Level 6
cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6cuopbank Reputation Uy Tín Level 6
Default I. CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA HAI BÀ TRƯNG (40-43)

Tháng 3/40, đời Lưu Tú hay Văn Thúc (Hán Quang Vũ, 25-55), hai Bà Trưng dấy binh ở quận Giao Chỉ. Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Thái thú Tô Định (34-40) chạy về Nam Hải (Quảng Đông ngày nay). Bà Trưng Trắc tự lập làm vua. Đóng đô ở Mê Linh.

V́ cổ Việt không có chữ viết riêng, và/hoặc hủ tục mà thế giới lên án là mọi rợ văn hóa [cultural barbarism] đă hủy diệt mọi di tích cổ Việt, sử quan đời sau đành dựa theo truyền thuyết và thư tịch Trung Hoa để tái dựng Kỷ Trưng Nữ Vương, được vỏn vẹn mươi trang giấy. Và, giống như bất cứ cuộc kháng Hán nào của người Việt, sử sách Trung Hoa chỉ chép trong mục “làm loạn” hay “chinh thảo,” giọng điệu khinh bạc. Trong khi đó, sử quan Việt đánh giá như bước diễn tập cho cuộc khai phục quốc thống, giành tự chủ—theo công thức Việt tự chủ/ bá quyền Hán.

A. DIỄN BIẾN:

Sử quan Việt ghi:

Canh Tí, niên hiệu Kiến Vũ thứ 16. Mùa Xuân, tháng Hai. Người nữ Giao Chỉ là Trưng Trắc dấy binh chống thái thú Tô Định, đuổi hắn, tự xưng vua [Canh Tí. Hán Kiến Vũ thập lục niên. Xuân nhị nguyệt. Giao Chỉ nữ tử Trưng Trắc khởi binh công thái thú Tô Định, trục chi, tự lập vi vương]. (1)

Lê Tắc, tác giả An Nam Chí Lược [ANCL], thế kỷ XIV, chép theo quan điểm Hán:

Người nữ Giao Chỉ là Trưng Trắc làm loạn, Cửu Chân, Nhật Nam hưởng ứng, tấn công các quận ấp, chiếm được 60 thành, tự xưng làm vua [Giao Chỉ nữ tử Trưng Trắc phản, Cửu Chân Nhật Nam giai ứng chi, công duyên quận ấp, lược lục thập thành, tự lập vi vương.] (2)

Nguyên văn diễn âm đoạn Quảng Châu Kư về Bà Trưng, trong Mă Viện truyện của Hậu Hán Thư, như sau:

Hậu Chu Diên lạc tướng danh thi sách mê linh, Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê Trắc vi nhân hữu đảm dũng tướng thi khởi tặc công phá châu quận phục chư lạc tướng giai thuộc Trưng Trắc vi vương trị Mê Linh huyện phục Giao Chỉ Cửu Chân nhị quận dân nhị tuế điệu phú.

Hậu Hán khiển Phục Ba tướng quân Mă Viện tương b́nh thảo Trắc Thi tẩu nhập Kim Khê cứu tam tuế năi đắc.

Nhĩ th́ Tây Thục tịnh khiển binh cộng thảo Trắc đảng tất định quận huyện vi lệnh trưởng dă”

[Quảng Châu Kư (III-IV); Tư Mă Trinh, Sử Kư sách ẩn (VII-VIII), dẫn Giao Châu Kư của Diêu Văn Hàm]

Lối viết ngắn gọn, không dấu chia câu hay kết đoạn, không phân biệt tên người, tên đất trong sách cổ khiến văn gia Việt và Hoa đi đến những diễn giải khác nhau.

1. Về thân thế Hai Bà Trưng, Cương Mục Tập Lăm và Thủy Kinh Chú—do nhóm Li Dao-yuan [Lịch hay Lệ Đạo Nguyên, (ca 466 [472]-527) diễn giải sách cổ Thủy Kinh của Tang Khâm [?], nhưng cũng nguồn tư liệu chính của sử quan Việt và Hoa—giải thích Trưng vương nguyên họ Lạc, con gái Lạc tướng huyện Mi [Mê] Linh. Sau khi lên ngôi đổi sang họ Trưng. Ngô Sĩ Liên đặt nghi vấn chi tiết họ Lạc, trong khi sử quan Nguyễn chép “Vương vốn họ Lạc, lại có họ riêng là Trưng” (dựa theo Cương Mục tập lăm). Sử quan Tây Sơn (Ngô Th́ Sĩ et al) chỉ ghi họ Trưng.(3) Thực ra, Lạc hay Trưng cũng không đúng hoàn toàn. Đó chỉ là cách người Việt xướng âm hai chữ Hán “Lạc” và “Trưng.” Tên họ hai bà vẫn chưa ai biết.

2. Bà Trưng đă lập gia đ́nh với con trai Lạc tướng Chu Diên là Thi Sách (theo sử Việt) hay Thi (dă sử Trung Hoa). Trong đoạn “Hậu Chu Diên lạc tướng danh thi sách mê linh lạc tướng nữ danh trưng trắc vi thê,” sử quan Việt đọc hai chữ thi sách thành Thi Sách (họ Thi, tên Sách), nhưng văn gia Hán hiểu chữ “sách” là lấy, không phải tên: Như thế, “con trai Lạc tướng Chu Diên tên Thi lấy con gái Lạc tướng Mê Linh tên Trưng Trắc làm vợ.” (4)

3. Sử Việt c̣n ghi bà Trưng đă dấy binh báo thù chồng bị Tô Định giết, trong khi dă sử Trung Hoa ghi cả hai vợ chồng cùng nổi lên kháng Hán [Trắc vi nhân hữu đảm dũng tướng Thi khởi tặc công phá châu quận phục chư lạc tướng giai thuộc].

4. Đa số sử quan Việt ghi Bà Trưng thu phục được 65 thành ở Lĩnh Nam (phía nam núi Ngũ Lĩnh), tự xưng làm vua. Bảng nhăn Lê Văn Hưu, soạn giả bộ quốc sử đời Trần (1226-1400), nhận định: Hai bà Trưng “hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay.” (5) Bảng Nhăn Lê Quí Đôn, ghi 65 thành, nhưng chỉ liệt kê được 56 thành theo Đông Hán Chí [địa dư chí của Hậu Hán thư], với phụ chú: “Đời xa, sự tích mai một; các thành huyện xưa nay không biết ở những xứ sở nào, dấu cũ không c̣n mấy;” chỉ c̣n lại Long Biên và Phong Khê (Yên Lăng).” (6) Lê Tắc ghi 60 thành. Ngô Th́ Sĩ ghi 56 thành; có lẽ dựa theo Hậu Hán Thư, rằng thuộc địa Giao Chỉ bộ gồm bảy [7] quận, 56 thành—Nam Hải (7 thành), Thương Ngô (11), Uất Lâm (11), Hợp Phố (5), Giao Chỉ (12), Cửu Chân (5), Nhật Nam (5). Nhóm sử quan Tây Sơn và Phan Huy Chú ghi là hơn 50 thành. (7) Nhưng Hai bà Trưng có thể chỉ chiếm được 27 thành ở Giao Chỉ, Cửu Chân và Hợp Phố. Thủy Kinh Chú ghi Trưng Vương thu thuế,miễn thuế hai quận Cửu Chân và Giao Chỉ hai năm, tức thực sự cai trị chỉ có 22 thành. (8) hay

Chúng ta chỉ biết hai bà đă lên ngôi vua, nhưng không rơ tổ chức chính quyền, hay quân đội. Truyền thuyết về các nữ tướng, hay anh hùng dân gian tham dự cuộc dấy binh quá sơ lược. Ngay đến vị tướng bị Mă Viện đả bại ở Cửu Chân và 5,000 người bị thảm sát cũng chịu cảnh liệt sĩ vô danh.

Những chi tiết ngắn ngủi dị biệt về Hai Bà Trưng—cùng nhiều tác nhân lịch sử khác—là điều khó tránh. Thứ nhất, văn sử về Bà Trưng chủ yếu dựa trên tài liệu tuyên truyền Bắc sử, theo đó cuộc khởi nghĩa được tóm lược như phản loạn, phụ chú bên lề [anecdotes] chính sách tham ô, bạo ngược của Tô Định (34-39), cùng chiến công của Mă Viện. Thứ hai, truyền khẩu sử khó tránh khỏi yếu tố thần thoại đương thời, rồi thêm thắt chi tiết theo thời gian. Thông tin khả tín, đáng ghi nhớ, là Trưng Vương phất cờ tiên phong khởi nghĩa chống lại ách đô hộ Hán từ năm 40 tới 43. Hai bà là những người đầu tiên, nhưng không phải cuối cùng, đă viết nên lịch sử dân tộc Việt suốt hai ngh́n năm luôn luôn bị đe dọa tận diệt hoặc đồng hóa. Tư liệu Trung Hoa khẳng định điều này, và cũng xác nhận Bà Trưng đă xưng vương.

V́ lư do nào đó—có thể v́ hủ tục trọng nam, khinh nữ—sử quan Việt chưa dành cho Hai Bà Trưng vị trí xứng đáng hơn trong quốc sử. Ngọn đuốc kháng Hán đă thắp lên từ hai Bà Trưng—không phải thái thú Sĩ Nhiếp, Giám quân Lư Bôn tự Bí, hay Bố Cái Đại Vương. Và cũng có thể từ đời Lưu Tú, nhà Hán mới trực trị, khởi sự đồng hóa dân cổ Việt qua giáo dục, tập quán (cưới hỏi) và khai thác kinh tế. V́ thế, sau cuộc khởi nghĩa của hai Bà, suốt thời Đông Hán, loạn lạc khắp nơi, khác hẳn với sự im lặng khó hiểu và khá dài từ 207 TTL tới đầu thiên kỷ thứ nhất Tây lịch.

5. Vấn đề lănh thổ vương quốc thời hai Bà Trưng cần những nghiên cứu nghiêm túc mới. Sử sách Trung Hoa hàm ư hai Bà chỉ cai trị được Giao Chỉ và Cửu Chân. Tại những quận huyện khác, Thứ sử và các thái thú chỉ lo tự bảo toàn. [Giao Chỉ thứ sử cập chư thái thú cẩn đắc tự bảo]. (9) Theo Quận Quốc Chí trong Hậu Hán Thư, khoảng năm 110-106 TTL, Lưu Triệt đă chia vương quốc Nam Việt cũ thành chín [9] quận, thuộc Giao Chỉ Bộ, dưới quyền Thạch Đái. Ngoài hai quận Chu Nhai, Đam Nhĩ ngoài biển, bảy quận c̣n lại nằm về góc đông nam Hoa lục. Cho tới năm 264, phần Giao Chỉ Bộ trên đất liền vẫn giữ nguyên tên bảy quận Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Những thay đổi lănh thổ không được ghi chép. Có thể sử quan Hán tộc kiến thức hời hợt về cơi ngoài hoang vực—gọi chung là xứ mọi rợ, man di—nhưng không thể không nghĩ đến dụng tâm chính trị của vua quan Hán.

Hai vấn đề nổi bật lên trên lănh vực địa lư. Thứ nhất, không rơ số phận của quận Tượng đời Tần ra sao. Theo Tiền Hán Thư, Lưu Phất Lăng (Hán Chiêu đế, 86-74 TTL) bỏ quận này năm 76 TTL, ghép đất vào Uất Lâm [Yu lin, đông nam Quảng Tây] và Thương Ngô [Tsang ko, tây Quí Châu]. (10) Nhưng khoảng hơn 30 năm trước, tại sao Tượng Quận bỗng biến dạng, hoặc bị bỏ quên trong giai đoạn 110-76 TTL? Nếu Lưu Triệt đă chia Tượng Quận làm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam sau khi diệt Nam Việt, tại sao năm 76 TTL c̣n mất công xoá tên, và Lưu Phất Lăng lấy đất nào để chia cho Uất Lâm và Thương Ngô? Ngắn và gọn, văn gia đời sau đă tái dựng những việc Tượng Quận, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam hay Lâm Ấp, và mức khả tín là những dấu hỏi lớn. Không chỉ về sử liệu (như gán ghép “Thương Ngô” vào cái chết của cha con Điêu Trùng Hoa (Thuấn, 2255-2208 TTL) mà c̣n dụng tâm chính trị của thời họ. (11)

Thứ hai, từ năm 135 TTL, Lưu Triệt đă xâm lược Dạ Lang (dân Miêu) lập ra quận Tường Kha, và Điền (Tien, Lạc, tây Vân Nam), tách khỏi Nam Việt. Cũng có tin Thương Ngô tách ra từ Dạ Lang cũ, lệ thuộc vào Nam Việt trước ngày Lộ Bác Đức “giết Lă Gia, mở 9 quận.” Thương Ngô vương Triệu Quang (thông gia của Tể tướng Lă Gia và cùng họ với vua Nam Việt) xin hàng ngay khi nghe tin Bác Đức đến. Trong khi đó, Giám quận Quế Lâm là Cư Ông khuyên dụ Âu, Lạc hàng. (12)

Cách nào đi nữa, Henri Maspéro đă đi quá xa khi qui trách mọi lỗi lầm của Tiền Hán Thư cho sự dốt nát về địa lư của Vi Chiêu, Vương Ẩn, Chu Khứ Phi v.. v.. Họ có lư do riêng khi cung cấp những chi tiết hỗn độn trên. Trong thời gian 675-680, Hoàng Thái tử/Giám quốc Lư Hiền (654-684), con thứ 6 Đường Cao Tông và Vơ Hậu, chẳng hạn, sai Trương Đại Yên và Lưu Nạp Nguyên chú giải Hậu Hán Thư của Phạm Việp (398-446). Đỗ Hữu (735-812) là cựu kinh lược Lĩnh Nam, và hoàn tất Thông Điển trước khi về triều làm tể tướng năm 803. Hữu liên hệ đến cuộc tấn công Hoàn Vương (Lâm Ấp) vào đầu thế kỷ IX (809), khi t́nh h́nh Giao Châu hỗn loạn [nổi dạy của Bố Cái Đại Vương (791), và rồi cuộc nổi loạn của binh sĩ chống Bùi Thái]. Cũng thời gian này, truyền thuyết Mă Viện phục sinh. Phong trào “kim tiêu”—dựng trụ đồng làm biên giới theo gương Mă Viện—được phát động. Ở kinh đô, Đỗ Hữu rao giảng thuyết Nhật Nam là Tượng Quận nhà Tần, trong khi tại thực địa vài đô hộ dựng trụ đồng mới “tại chỗ cũ.” (13)

Như một hệ luận, không thể không tự hỏi đâu là thời điểm chính xác Nhật Nam được đặt “vào bản đồ” đế quốc Hán? Có tin đời Triệu lập ra Nhật Nam—bởi thế có sách chép ba đại diện ở cổ Việt, tương ứng với Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam đón đường Bác Đức ở Hợp Phố xin nộp trâu, rượu và sổ bạ dân quận xin hàng. Nhưng sử quan Tây Sơn và Nguyễn bác thuyết này. Lư do đưa ra là trước đó, năm 198 TTL, Triệu Đà chỉ gửi hai sứ giả qua cai trị Âu Lạc cũ. Từ năm này tới năm 111 TTL, không có tin nào về sự thay đổi quận huyện ở Âu Lạc cũ. Măi tới năm 110 TTL hay 106 TTL, Lưu Triệt mới tách năm [5] huyện ở phía nam Cửu Chân ra, đặt quận Nhật Nam.

Ngay thời điểm 110-106 TTL cũng cần nghiên cứu thêm. Khoảng hơn một thế kỷ sau, Lưu Trang (Hán Minh đế, 58-75) c̣n rất mù mờ về Nhật Nam. Mặc dù Hậu Hán Thư ghi tên năm [5] thành Tây Quyển, Chu Ngô [dọc băi biển], Lư Dung [có bến t́m vàng], Tượng Lâm [sau là Lâm Ấp], Tị Ảnh, với 15,460 hộ và 60,485 nhân khẩu—nhưng Phạm Việp hoàn tất sách vào thế kỷ thứ V, khi “Nhật Nam” đang do Lâm Ấp quản trị (trễ nhất từ năm 242) và quan lại Hán đặt một hành lị sở ở Cửu Chân để chờ ngày tái chiếm. (14) Rất có thể Nhật Nam chỉ tách ra thời Lưu Phất Lăng hay Vương Măng (8-23), hoặc sau cuộc viễn chinh của Mă Viện. Bởi thế không thể không tra cứu thêm thời điểm cổ Champa tách khỏi đế quốc Hán (năm 100, 137 hay 192?), hoặc—rất có thể—chưa hề dưới quyền trực trị của nhà Hán, mà chỉ bị nhà Ngô [Wu], Tấn [Jin], Tống [Liu Song], Tề [Wei], Lương [Liang], Tùy [Sui] liên tục đánh cướp, chiếm đoạt đất đai?

Về thực địa, kinh đô Mê Linh vẫn c̣n là một ẩn số. Đại Nam Nhất Thống Chí [ĐNNTC] triều Nguyễn cho rằng Mê Linh thuộc Phong Châu, kinh đô triều đại huyền sử Hồng Bàng. Địa danh Phong Châu chỉ xuất hiện từ đời Tùy-Đường, nhưng sử Việt chép nó thuộc Văn Lang (khoảng Bạch Hạc-Sơn Tây), một trong 15 bộ của nhà Hồng Bàng. Chúng ta cũng được biết c̣n dấu “thành cổ Mê Linh” ở huyện Phúc Thọ, Sơn Tây, nay là xă Hạ Lôi, huyện Yên Lăng, Vĩnh Phú. Dấu tích ra sao? Có giống một ṿng tṛn xếp bằng đá đánh dấu chỗ họp triều đ́nh để chống giặc Bắc trên đền Hùng? (15)

Tài liệu Hán c̣n lên án hai bà Trưng mang quân quấy nhiễu biên giới, khiến dân t́nh khổ sở. Lối cáo buộc “xâm phạm biên giới” —phần nào nhằm biện minh cho cuộc viễn chinh của Mă Viện—là chiêu bài quen thuộc khi vua quan Hán muốn cướp bóc, thôn tính lân bang, hay tạo áp lực, dưới thứ chính nghĩa tự nhận là “chinh thảo”. Trước thế kỷ XIX, với vua quan Hán không hề có chiến tranh, mà chỉ có trừng phạt lân bang không thờ kính thiên tử như con với cha theo “sự đại chi lễ” [phép thờ nước lớn], hợp với thiên mệnh [số trời]. (16)
cuopbank_is_offline  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
 
Page generated in 0.10518 seconds with 10 queries