R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2005
Posts: 36,967
Thanks: 30,902
Thanked 21,906 Times in 10,131 Posts
Mentioned: 165 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 827 Post(s)
Rep Power: 86
|
Chiến thắng năm 1975 thống nhất đất nước khiến tâm thế các nhà lănh đạo Việt Nam dâng lên ngất ngưởng.
Trong lễ mừng chiến thắng, tổ chức vào ngày 15-5-1975 tại Hà Nội, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đă làm cho hàng triệu con tim “sởn gai ốc” khi, với giọng Quảng Trị trầm ấm, ông tuyên bố:
“Chào mừng tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập tự do”
Bí thư Lê Duẩn nói tiếp:
“Trong 4.000 năm lịch sử của dân tộc ta th́ hơn 100 năm lại đây là chặng đường đấu tranh chống ngoại xâm gay go nhất, quyết liệt nhất, nhưng cũng thắng lợi vẻ vang nhất”.
Tại buổi lễ long trọng này, ông Lê Duẩn bày tỏ niềm tin: “Một dân tộc đă làm nên những chiến công hiển hách ấy xứng được hưởng ḥa b́nh, tự do và hạnh phúc”
Việt Nam thống nhất đất nước là điểm sáng duy nhất trong cuộc chiến ư thức hệ giữa chủ nghĩ Tư bản và Chủ nghĩa xă hội trên toàn cầu, bởi trên thực tế quan hệ của các nước cộng sản đă ch́m trong bóng tối của sự chia rẽ đặc biệt giữa Liên Xô và Trung Quốc.
Con đường đi lên CNXH bắt đầu phá sản tại các nước cộng sản.
Cả Liên Xô và Trung Quốc rơi vào khủng hoảng kinh tế trong muôn vàn những chính sách duy ư chí tệ hại và tàn ác.
Liên Xô nhen nhóm cải tổ, đổi mới.
Trung Quốc không thể chịu được sự lănh đạo của Liên Xô. Mao gọi Liên Xô là “Đế quốc Xă hội Chủ nghĩa” hai nước gầm ghè dẫn đến xung đột biên giới.
Trung Quốc bắt tay với Mỹ chống lại Liên Xô và mở cửa làm ăn kinh tế với phương Tây.
Tại Việt Nam, các nhà lănh đạo Việt Nam vẫn kiên định bằng khẩu hiệu: “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xă hội”.
Họ vẫn tin những ǵ từ học thuyết Mác – Lê "bất diệt" và sự lănh đạo tài t́nh sáng suốt, CNXH sẽ đem lại hạnh phúc, ấm no cho dân tộc.
Chiến thắng đă làm họ tự cao, tự đại, năng lực hạn chế, trí tuệ khiếm khuyết đă che mất tầm nh́n của họ. Kết cục đă không biết biến lợi thế thành cơ hội, ngược lại tự đưa đất nước đi vào vết xe đổ của thứ CNXH đang tan ră.
Người Mỹ ngay sau sự kiện chế độ Việt Nam Cộng ḥa thất thủ, sẵn sàng nối lại quan hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, bởi hai nguyên nhân:
- Vấn đề nhân đạo trong t́m kiếm những lính Mỹ mất tích.
- Mỹ biết quan hệ Việt – Trung sẽ có xung đột bởi những nguyên nhân từ lịch sử và hiện tại khi Lê Duẩn ngả theo Liên Xô, điều Trung Quốc không thể chấp nhận.
Việt Nam sau chiến tranh rất cần tiền, điều cả Liên Xô và Trung Quốc không thể đáp ứng, đồng đô la có thể đưa quan hệ Việt – Mỹ nhanh chóng khôi phục.
Một Việt Nam thân thiện với Mỹ sẽ kiềm tỏa được Trung Quốc vẫn là sách lược lâu dài người Mỹ luôn ấp ủ. Thiết lập mối quan hệ mới với Việt Nam là lợi ích chiến lược của Mỹ ở khu vực châu Á Thái B́nh Dương.
Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc, Andrew Young, đă nói rơ:
“Chúng tôi coi Việt Nam như một Nam Tư ở Châu Á. Không phải là bộ phận của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà là một nước độc lập. Một nước Việt Nam mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ”
Ngày 8-5-1976, Ngoại trưởng Kissinger gửi công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn đề “b́nh thường hóa”.
Ngày 6-1-1977, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra lộ tŕnh ba bước b́nh thường hóa quan hệ với Việt Nam và trước mắt có thể đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ.
Tuy vậy, Tổng thống Mỹ Geral R. Ford có vẻ như vẫn chưa sẵn sàng khi đưa ra điều kiện để nối lại bang giao:
- Việt Nam phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích (MIA), trong đó có việc trao trả hài cốt Mỹ.
Phía Việt Nam cũng đ̣i bằng được Mỹ phải bồi thường chiến tranh, trong khi Mỹ cho rằng Việt Nam đă vi phạm Hiệp định Paris nên không thể bàn đến khoản tiền thỏa thuận trước khi kư Hiệp định Paris được.
Theo ông Đậu Ngọc Xuân, sau những diễn tiến này, ông Lê Duẩn nói: “B́nh thường hóa là thua trận lần thứ hai, họ không chịu đâu”.
Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đă giảm điều kiện “làm đầy đủ hồ sơ lính Mỹ mất tích” xuống c̣n “làm đầy đủ trong khả năng có thể”.
Tháng 3-1977, Carter gửi một phái đoàn sang Hà nội để bàn về việc nối lại bang giao.
Ngày 17-3-1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đă tiếp Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ Leonard Woodcock.
Cùng ngày, Woodcock đến chào Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Những nỗ lực b́nh thường hoá dưới thời Carter là có thật.
Tổng thống Carter nói: “Tôi nghĩ đó là một bước cần thiết để khởi đầu việc hàn gắn và đưa chúng ta ra khỏi nỗi ám ảnh Việt Nam để đi tới một kỷ nguyên mới tốt đẹp hơn”.
Ngày 4-5-1977, chính quyền của ông Carter đồng ư để Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc.
Sau chuyến đi của ông Leonard Woodcock, Mỹ chủ trương b́nh thường hóa vô điều kiện.
Ngày 3-5-1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn Việt-Mỹ đă diễn ra tại Đại sứ quán Việt Nam ở Paris.
Ông Trần Quang Cơ, người tham gia cuộc đoàn đàm phán này, nhớ lại:
“Một trong những điều ngáng trở tiến tŕnh đàm phán là do chúng ta cứ khăng khăng đ̣i Mỹ phải chi 3,2 tỷ đô-la bồi thường chiến tranh”.
Trước khi đoàn lên đường sang Paris đàm phán b́nh thường quan hệ Việt-Mỹ, theo ông Trần Quang Cơ, ông Lê Đức Thọ, theo cung cách xin viện trợ của Liên Xô, đă cung cấp cho đoàn cả một danh sách dài bao nhiêu máy cày, bao nhiêu máy kéo để đ̣i Washington phải trả.
Ông Trần Quang Cơ nhớ lại:
- “Holbrook nói thẳng với ông Phan Hiền: thôi th́ cứ đặt ‘pḥng quyền lợi’ đi, cứ b́nh thường hóa cái đă rồi khoản tiền 3,2 tỷ chúng tôi sẽ t́m cách viện trợ sau.
Trưởng đoàn lúc ấy là ông Phan Hiền lập tức bay về Hà Nội báo với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không được”.
Khi Biên giới Tây Nam gần như được đặt trong t́nh huống chiến tranh và Trung Quốc đă được Ban Chấp hành Trung ương coi là “kẻ thù”, Việt Nam bắt đầu nhận thấy vai tṛ của việc quan hệ b́nh thường với một siêu cường như Mỹ.
Đầu năm 1978, ở Tokyo (Nhật), Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phan Hiền tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng b́nh thường hóa vô điều kiện với Mỹ”.
Những đă quá muộn, Jimmy Carter gần như đă nghiêng về chủ trương “chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” theo đề nghị của Cố vấn An ninh Quốc gia Z. Brzezinski.
__________________
|