Mấy hạt đường của mẻ hồ làm ta nhớ đến cái ba lô của tháng họa sĩ trẻ.
Tôi nói với Ngữ :
– Cậu có rỗi phơi đồ đùm cho nó chút !
– Vâng, để em xong việc của em đã !
– Cậu xem nó còn đường khuấy cho nó tí .
– Nó không có đường đâu anh ạ !
– Tại sao vậy ?
– Khi lãnh xong nó gởi về cho gia đình vợ chưa cưới của nó !
– Trời đất !
– Nó nghĩ và nó khỏe như vâm, cày hợp tác xã nó kéo còn nổi mà anh. Em cũng vậy, em đâu có ngờ vô đây sức khỏe tiêu tán nhanh đến thế!
Cái hiệu phở của Ngữ làm mọi người tiếc ngẩn tiếc ngơ :
- Nếu còn tí nước hầm con khỉ gió thì hay quá. Hôm qua lại chê đem đổ hết, chi ăn cái xác. Bây giờ cần để làm nước dùng nấu phở thì không còn chút nào.
Thế mới biết cái gì cũng có thời thế của nó, dùng sai chỗ không bật giá trị lên được như cái anh nhạc sĩ tài hoa kia…
Đi vô con đường này anh ta chửi đổng toàn gamme majeure với dấu biến thượng. Nhiều lúc leo mệt quá, anh quát :
– Ê, tụi bây nói với giao liên đằng trước đi chậm chậm nghe. Con người không phải là máy, không phải là thú vật ! Địt mẹ chứng nó, đi đứng gì như thế này !
Nhìn ông nhạc si ngồi bên gốc cây cặm cụi vá tấm tămg bị gió giật rách đêm qua tôi hết biết nói sao . Tôi kiếm chuyện đùa :
– Bây giờ mà rủi gặp chi Bảy ở đây thì làm sao anh Bảy?
Hoàng nhạc sĩ cười giọng Tenor một tràng dài tưởng chừng vô tận. Rồi nói :
– May chứ sao lại rủi, chú e…em!
– Còn thấy đường xỏ chỉ không ?
Hoàng nhạc sĩ giơ cây kim lên rồi cười :
– Mới sốt dăm cơn mà nhìn cái gì cũng vàng khè.
– Vấn đề không phải là vàng hay trắng mà là có xe chỉ luồn kim được không ?
– Cũng tạm được chớ ! Hớ ! Hớ hớ ớ !
– Vá rồi đi ăn phở khi nghe ! Thằng Ngữ nấu gần xong rồi .
– Mẹ ! Cái món phở này, hiệu Tư Lùn cá thể ở ga Hàng Cỏ nghe qua cũng chạy tét.
– Nè, rồi cái vụ nấu cao của anh có tính thực hiện không? ?
– Thực hiện chớ! – Hòang ngó về phía mấy cái gà mèn còn treo đó
– Để tao trút ra phơi rồi mang tới trạm tao nấu cho mày coi.
– Ừ để rồi coi.
Bỗng thằng Núi rên lên làm mọi người giật mình. Nó còn nói rõ từng tiếng :
– Khát nước !
Cả thằng Ngữ lẫn tôi đều đứng bật lên và chạy lại. Trời đất ơi ! Thằng nhỏ đã mở mắt. Trời cứu nó rồi.
Mi mắt nó chớp chớp. Đôi môi nó mấp máy. Tiếng nó thều thào :
– Uống nước !
Ngữ chụp lấy chiếc bi đông trên đầu võng lắc lắc, nghe còn tí nước, Ngữ mở nút kê miệng bi đông vào mồm Núi khe khẽ rót.
Núi thở khì một tiếng rồi nhắm mắt. Tôi hoảng vía, vì nghĩ là nó hồi dương một chút rồi đi luôn. Ngữ vừa đậy nắp bi đông vừa hỏi:
– Mày uống nữa thôi Núi ?
Mi mắt Núi động đậy rất khẽ.
– Nè, nước nè, nghe không?
Mi mắt Núi lại động đậy như trước. Môi nó hé mở.
Ngữ nghiêng bi đông rót nhẹ và hỏi :
– Nữa thôi ?
Núi ngậm miệng lại. Ngữ lại hỏi:
. Mày có lạnh không?
Núi không đáp.
– Mày biết ai đây không?
Núi cũng không đáp.
Chúng tôi bàn đến việc thay quần áo cho Núi, nhưng câu chuyện không ngã ngũ.
Tôi là kẻ đã từng trông thấy tận mắt mấy bệnh nhân được Bác sĩ Tùng hạ nhiệt độ bằng cách cho vô bồn nước đá, tôi cho là nhờ bi ngâm trong võng nước mưa mà Núi tỉnh dậy tí ti và nhiệt độ thì không cao hãi hùng như hôm qua
– Nhiệt độ vừa mới xuống, nếu bệnh nhân thay đổi môi trường, nó có thể lên cao trở lại.
Nhưng Ngữ và Hoàng thì cho là nếu để Núi nằm trong sự ướt át, cá võng lẫn quần áo, và dưới nắng như thế sẽ bi cảm dễ dàng nhất là cơ thể của Núi đang kém sức đề kháng.
Cuối cùng phe Ngữ thắng thế. Hai người thay quần áo cho Núi với sự vắng mật có hạn đinh của Thu.
Núi là người đã vẽ Thu nhiều nhất trên đường này. Hai bên tỏ ra rất yêu nghệ thuật hội họa.
https://www.youtube.com/watch?v=Mob34vUwF0c
CHƯƠNG 6
Bận rộn chuyện gì chẳng ra chuyện gì, nhưng cuối cùng rồi cũng hết một ngày. Lúc gần tối, thì từ ngoài giao liên dẫn tới một đoàn rất đông, gồm đủ các hạng quân dân chánh.
Bây giờ chúng tôi mới nôn nao nghĩ tới việc đi. Chậm mất một ngày rồi. Trừ Núi ra, tất cả đều có thể đi. Phải đi dù thế nào thì cũng gần với quê hương hơn.
Ngữ nói với tôi bằng một giọng đầy nước mắt :
– Các anh và Thu cứ đi đi, để em ở lại với Núi, nếu nó cố mệnh hệ nào thì cũng có em bên cạnh, như vậy nó đỡ tủi thân. Còn Trời Phật mà phù hộ nó khỏe lên được thì em sẽ dìu nó đi dần tới đâu hay tới đó.
Luật lệ của đường dây là chỉ đưa người vào không cho người ra, mình không thể cưỡng lại được.
Tôi nói :
– Đã đành là các anh phải đi rồi, nhưng trong lòng thấy nó kỳ cục thế nào ấy cậu ạ !
– Thì cũng như lần trước, anh ốm nằm lại chúng em cũng cứ đi đó thì sao ?
Đó là ý định của ở trên mà. Ai bịnh cứ nằm lại, ai khỏe cứ việc đi. Cách mạng Miền Nam đang chờ mình như chờ nước uống !
Thế là chúng tôi dứt khoát chia tay. Tôi và Hoàng, Thu sửa soạn để mai lên đường.
Thu lúc nào cũng nhăn nhó với cái chân đau. Nàng tìm một cây gậy thật chắc, Hoàng thì lo băng đầu gối như cầu thủ bóng tròn trước khi ra sân cỏ.
Riêng tôi thì không cần gậy, còn cái bao tử loét thì không thể băng bó gì được cứ để thế mà đi, được khúc nào hay khúc ấy. Chừng nào mửa ra máu cục thì cách mạng cho nghỉ ngơi.
Lớp học Y Tá cấp tốc chuẩn bị cho Đường Mòn Hồ Chí Minh
Trong đoàn mới vào tôi nhận thấy có một tốp rất phân biệt với mọi người.
Tốp này độ chừng một tiểu đội, nhưng những chiến sĩ thì mang rất nhiều máy móc khác hẳn với bộ đội thường.
Khi đi xuống suối lấy nước, tôi nghe toán chiến sĩ xầm xì với nhau thì tôi biết đây là đội bảo vệ cho một ông kẹ. Nhưng không biết ông kẹ đó tên gì.
Lượt trở lên, khi đi ngang chỗ họ đóng, tôi giả vờ đánh rơi gà mèn nước và ngồi xuống, tay nhặt gà mèn mắt ngó vào cái võng mà tôi ngờ là ông kẹ đang nằm.
Quả nhiên tiếng gà men rơi lầm ông ta giật mình ngóc đầu dậy nhìn ra. Tôi nhận ra ngay ông ta.
Tưởng ai lạ. Một bộ mặt sắt có dấu bấm như vết móp trên chiếc hộp lon chứ không phải cái sẹo. Ông ta nhìn người bằng cặp mắt lúc nào cũng trợn lên trắng dã như muốn nuốt sống đối tượng.
Nếu trên sân khấu cần một vai tướng cướp thì cứ đưa y phục cho ông ta, còn mặt mũi thì khỏi cần vẽ nanh hoặc đeo râu thêm.
Một số cán bộ rất sợ ông ta, nhưng ngược lại một số khác thì lại coi ông ta là một tên chăn bò đắc thời được một bàn tay quyền lực bốc lên ngồi ghế cao và trao cho cây gậy chỉ huy ba quân với cái ga-lông bốn sao và nhành dương liễu rũ.
Tôi đã từng nghe ông ta nói chuyện nhiều lần. Lần sau cùng tại Viện Văn học -cũng còn được nghệ sĩ gọi là Sở Mạ Kền- của bà già trầu móm Hoài Thanh.
Hoài Thanh cũng có một bộ mặt móp một bên như ông kẹ này.
Lần đó ông kẹ đập thêm vài búa vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm vốn đã bẹp dí dưới sức đè của đảng rồi – như những
“nhát ân huệ.”
Ông ta nói rổn rảng, múa tay tít thò lò, nhưng nghệ sĩ che tay cười nhếch mép khi ông ta tuyên bố.
– Dù phải chống Mỹ năm năm, mười năm, hai mươi năm hay một triệu năm chúng ta cũng chống tới cùng.
Một triệu năm ? Sau khi tan buổi họp, Nguyễn Tuân và tôi đạp xe song song trên đường Phan Thanh Giản, ông hỏi tôi :
– Anh có nghe gì không?
– Dạ nghe gì ạ ?
– Chống Mỹ một triệu năm ! Anh không nghe à ?
– Dạ, tôi có nghe.
– Anh nghĩ thế nào về “cái một triệu năm đó ?
– Dạ tôi không nghĩ thế nào cả.
– Rõ một khái niệm kỳ quặc về con số ! Tôi chưa nghe ai nói như vậy bao giờ.
– Tôi cũng thế. Đây là lần đầu tiên.
Cái ông mặt sắt kia coi nghệ sĩ như rác. Và nghệ sĩ cũng coi ông ta không như gì cả. Ông ta hò hét thì to nhưng sau khi ông dứt lời thì người ta chẳng biết ông muốn nói gì.
Bây giờ ông lại vô đây chắc hẳn là đi giải phóng Miền Nam rồi. Bỏ mẹ Miền Nam rồi. Bỏ mẹ Miền Nam rồi. Hợp tác xã là cái chắc !
Mô hình kinh tế 'XHCN' từ miền Bắc được áp dụng cho cả nước sau 1975. Cảnh nông dân trao nộp lúa và hoa màu cho hợp tác xã - ảnh chụp năm 1977 ở một xã gần Hà Nội.
https://www.bbc.com/vietnamese/business-47885898
Tôi chợt nghĩ ngay như thế khi tôi nhác thấy bộ mặt sắt kia. Tôi nhặt chiếc gà mèn trở xuống suốì múc nước rồi trở về chỗ cũ. Tôi đến rỉ tai Hoàng, Hoàng cười :
– Dân Nam kỳ mình chuyên môn gậm cùi bắp mà cứ tưởng nhân sâm.
– Thằng cha Tài Lé (tức Sơn Nam) nói :
Nam kỳ là thuộc địa của Bắc kỳ, đúng vô cùng. Đúng từ Nam ra Bắc rồi từ Bắc vào Nam.
– Ông ta mà vô trỏng thì hợp tác xã, chỉnh huấn, lập trường giai cấp là gốc rồi. Hồi tao ở Bưngari mới về, tao có đọc bài
“Cây đa bến cũ con đò khác đưa” của ông.
– Ừ, lúc đó ổng đang phụ trách Trưởng ban Nông thôn của Trung ương đảng. Do đó ông cỡi ngựa xem hoa các hợp tác xã hàng mã một vòng rồi về nói cho thư ký viết phứa ra bài đó.
– Văn chương hay ra phết đấy chứ nhi ?
– Văn chương mà nói làm chi.
Lập trường kia mới đáng kể. Bọn nhà văn chúng tôi phải lấy bài đó ra làm phương hướng sáng tác đấy. Bên Hội Nhạc sĩ của ông gặm không vô phải không?
– Ai thì tao không biết, chứ tao rặn không ra nốt nào cho hợp tác xã cả !
– Nói đùa cho vui, chứ thực tình là tôi nghĩ đến số phận của Miền Nam qua câu nói bất hủ của Tài
“lé”. Anh chàng này chỉ có một khuyết điểm là cặp mắt lé. Nhưng dù
“lé,” Tài vẫn nhìn sự vật rất chính xác.
Nhà văn Sơn Nam ( 1926 -2008 )
Ông kẹ mặt sắt này làm cho tôi nhớ câu nói của Tài. Nó đã được chứng minh từ hồi kháng chiến.
Nam Bộ là miếng thịt bít tết tươi roi rói mà đám Bắc kỳ từ Trung ương vào là một lũ kên kên , chúng chia nhau không dành cho dân địa phương một thẻo nhỏ.
Ra Bắc cũng thế.
Thằng Bí thư tỉnh ủy ngoài Bắc trong kháng chiến thì hòa bình được vô Trung ương, ngược lại thằng Bí thư của Thành Đồng Tổ Quốc nghe lời cụ Hồ dụ dỗ đi tập kết hai năm về, thì nay đã mười năm mới trốn chui trốn nhũi như ăn trộm trở lại quê hương.
Mười năm trên đất Bắc thằng Tỉnh ủy đi cạo muối, nhà cửa thì ga-ra tư sản.
Ông Chủ tịch tỉnh tôi ở một cái ga ra tệ hơn cả chuồng heo.
Bây giờ Nam kỳ lại bị
“Bắc kỳ thuộc” lần thứ hai.
Người cầm cán cho hai lần Bắc thuộc này
chính là cụ Hồ. Dân Nam kỳ hận tràn lòng, đau như hoạn, nhưng lỡ tin nên mắc, gái Nam ngồi phải cọc Bắc, không dám kêu.
***