VietBF

VietBF (https://vietbf.com/forum/index.php)
-   Member News | Tin thành viên (https://vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=189)
-   -   CHUYỆN LINH TINH BUỒN VUI TRONG ĐỜI (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=1222074)

trungthuc 09-30-2020 17:37

Quote:

Originally Posted by hoanglan22 (Post 4050093)



Vào cuối năm 1975, hàng ngàn tù nhân sĩ quan cấp tá của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa từ nhiều trại tập trung cải tạo vùng chung quanh Sài-G̣n đă bị chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu, Tam- Hiệp, Biên- Ḥa.

Một đêm giữa tháng 10, 1975, từ Long Giao, tôi bị chuyển tới đây trên một chiếc Molotova bít bùng kín mít. Tôi bị dẫn vào khu K2. Hai tuần sau có lệnh “biên chế,” tôi lại bị chuyển sang khu K3. K3 chỉ chứa sĩ quan cấp thiếu tá. Tôi bị giam ở đây từ ngày 1 tháng 11, 1975 cho tới ngày lên tàu Sông Hương ra Bắc (tháng 7, 1976.)

Thời gian này, tin tức truyền thanh, truyền h́nh về t́nh h́nh thế giới càng lúc càng xấu đi. Người ta đồn rằng, h́nh như Cộng-Sản Việt-Nam đang trên đường tiến chiếm Thái-Lan. Thế Giới Tự Do như càng lúc càng xa chúng tôi hơn.

Anh em chúng tôi gặp nhau thường ngày, tụ tập từng nhóm, đánh cờ tướng, tán gẫu, bàn chuyện nhà cửa, gia đ́nh, nước non, thời quá khứ. Trong những lúc tụ tập chuyện tṛ, chúng tôi nghe bạn bè rỉ tai rằng, “Chính quyền Giải Phóng” đang nghiên cứu hồ sơ cá nhân của từng người, để xét tha (?) Cũng có tin bi quan, cho rằng chúng tôi sắp bị đưa ra Ṭa án Nhân dân để xử tội. Chúng tôi thực sự hoang mang, chẳng biết tương lai ḿnh sẽ đi về đâu.

Tôi ở Lán 24 thuộc K3 (danh từ VC gọi Lán là nhà, K là Khối.) Mỗi lán chứa khoảng hơn 40 tù nhân, trong Lán 24 đó có vài cựu Sĩ quan Đà Lạt gồm anh Trần Ngọc Dương (K10), Nguyễn Lành (K16), Hoàng Thế B́nh (K18), Tạ Mạnh Huy (K19), khóa 20 có Ngô Văn Niếu và tôi (Vương Mộng Long). Lán tôi cách Lán 17 vài thước. Lán 17 có ba anh Biệt Động Quân K20 Vơ Bị là Nguyễn Cảnh Nguyên, Trịnh Trân, và Quách Thưởng. Trong cảnh đói khát thường xuyên, chúng tôi phải chia nhau từng mớ rau dền, tán đường thẻ, miếng cơm cháy.

Lán 24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi nhặng, v́ nó nằm trên đường đi ra cầu tiêu, mà bệnh kiết lỵ của tù nhân cải tạo ở đây hầu như bất trị.

Anh trưởng Lán 24 tên Trần Thành Trai, nguyên là Y sĩ Thiếu tá làm việc tại Quân y viện Duy-Tân, Đà-Nẵng. Bác sĩ Trai luôn luôn xác định lập trường của anh là quyết tâm “học tập tốt” để được tha về với vợ con, v́ vậy mỗi lệnh của ban chỉ huy trại đưa xuống, anh luôn luôn t́m cách thi hành đúng đắn.

Thằng Niếu, bạn tôi, được một chân làm bếp, nó ăn uống dưới bếp, nên phần cơm của nó dư, được mang về tiếp tế cho tôi và anh Nguyễn Phong Cảnh, người nằm cạnh tôi.

Vào những ngày cuối năm Ất Mẹo, không khí ở đây trở nên rộn rịp vô cùng. Những người liên lạc được với gia đ́nh th́ có những gói quà nhỏ gởi vào cho ăn Tết, những kẻ ít may mắn hơn th́ đành trông chờ vào những ǵ ban chỉ huy trại ban cho. Thời gian này, các lán gấp rút tập văn nghệ để tŕnh diễn đêm Giao Thừa.

Để khỏi tập ca hát nhảy múa, tôi t́nh nguyện làm công tác tạp dịch, quét tước. Trong khi mọi người ca múa, xả rác, tôi đi lượm rác và xách nước về cho bạn cùng lán rửa mặt rửa tay.

Hai ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp đi làm cỏ ngoài rào K3.

Trại Suối Máu vốn dĩ là trại tù Phiến Cộng Tam-Hiệp của Quân Khu 3 Việt-Nam Cộng-Ḥa. Trại có hai khu, hai hệ thống hàng rào. Lớp rào trong nhốt tù, rồi tới khu canh tù, ngoài cùng là rào ḿn pḥng thủ. Trại tù Phiến Cộng này có 6 khối. Mỗi khối cách biệt nhau bởi một khoảng đất trống, có rào ḿn. Từ khối này muốn liên lạc với khối kia chúng tôi phải hét lên mới nghe tiếng nhau.

Ra khỏi hàng rào thứ nhất, tôi chứng kiến vài sự đổi đời.

Cái miếu thờ Thổ Địa trở thành cái chuồng nuôi heo. Nhà Thờ và Niệm Phật Đường của trại tù binh đă thành chuồng gà sản xuất. Sư và Cha, Tuyên úy của trại này, chắc cũng đi tù đâu đây không xa!

Ngoài xa, bên kia hàng rào ḿn là băi cỏ trống rồi tới đường Quốc lộ 1.Trên Quốc lộ, xe Lamb chạy xuôi ngược; người người vội vàng buổi chợ cuối năm. Có vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về hướng trại tù, đôi người dân có liên hệ, hoặc ai đó c̣n nhớ tới chúng tôi, những sĩ quan cấp tá của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa, những người bảo vệ chế độ đến giờ cuối cùng, và những người chậm chân, chạy không kịp, đang bị nhốt ở đây, trong khu nhà tù do chính tay Công-Binh Việt-Nam Cộng-Ḥa xây dựng lên trước đó nhiều năm.

Sáng nay bầu trời màu xanh, không một gợn mây. Từ hướng phi trường Biên-Ḥa, bên kia cánh đồng trồng khoai ḿ, những chiếc F5 thực tập lên, xuống, lượn ṿng…

Đưa tay chỉ những cánh chim sắt đang bay trên trời cao, anh bạn Thiếu tá Không Quân, Trần Chiêu Quân nói với tôi rằng, sau 30 tháng 4, có một số phi công của Việt-Nam Cộng-Ḥa bị trưng dụng để huấn luyện cho phi công Bắc-Việt lái những máy bay chúng ta c̣n để lại.

Những chiếc F5 sáng như bạc đảo lộn trong không gian. Tiếng rít của phi cơ làm cho tâm hồn người cựu chiến binh nao nao.

Làm sao quên được? Lần đầu ra trận (Tháng 2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu Xuân, đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà-Kiệu (Quảng-Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi ngồi bên bờ Nam sông Thu-Bồn, say sưa nh́n những cánh F-4C, F-5A Hoa Kỳ đan nhau trên vùng trời Bắc. Bên kia sông, vùng trách nhiệm của Trung Đoàn 51 Biệt Lập, khói đạn bom cuồn cuộn…

Rồi tới trận Mậu- Thân (1968) với những chiếc Skyraider dềnh dàng, chậm răi phóng từng trái Napalm dài như chiếc xuồng màu trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi đạo Cam-Ly, Đà-Lạt. Khi bom chạm mục tiêu, từ đó, những sợi lửa lân tinh trắng xanh, trông giống như những cái ṿi bạch tuộc, vươn cao…

C̣n nữa…

Nhớ thời chống giữ Pleime, ngày ngày, tôi nghe quen tiếng L19 lè xè của Vơ Ư (K17VB). Chiếc L19 như cánh diều mảnh khảnh, lững lờ quanh đỉnh Chư Gô, hay trên Ia Drang, thung lũng Tử Thần…

Chúng tôi trông chờ đôi lúc trời trong, những phi tuần A-37 theo nhau tuôn bom… chờ những chiếc trực thăng rà sát đọt cây, lướt trên ngọn cột cờ căn cứ. Cơ phi, xạ thủ trên tàu chỉ kịp đạp vội xuống sân trại vài thùng điện tŕ, đạn, gạo sấy, con tàu đă lật bụng đảo một ṿng, thoát chạy về Đông. Pḥng không như lưới, thảy xuống cho nhau được thùng nào, hay thùng nấy! Thảy đồ xong là chạy. Đồ tiếp tế, có thùng c̣n nguyên dạng, có thùng vỡ tan, có thùng bay vào băi ḿn. Như thế cũng quư hóa lắm rồi! Cám ơn anh em Phi đoàn 229 Lạc Long!

Rồi đêm xuống, cứ như “Đúng hẹn lại lên!” Chiếc AC 47 của anh Trần Bạch Thanh (K17) đă có mặt trên vùng.

“Thái Sơn! Đây Hỏa Long gọi!”

Những đóm hỏa châu lập ḷe, vừa trải rộng tầm quan sát cho người trấn giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm thấy ấm ḷng.

Đă mất rồi, ngày xưa ấy! Giờ này tôi đang đứng nh́n những cánh chim sắt chao lượn trên đầu, người lái không phải là quân bạn.

Tiếng động cơ F5 nghe sao quá xót xa!

o O o

Tôi đang nhổ cỏ th́ thấy một đoàn người từ hướng ban chỉ huy trại ḥ nhau khiêng một cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong.

Tấm bảng nền đỏ chữ vàng “Không Có Ǵ Quư Hơn Độc Lập Tự Do” được nâng niu như trứng trên vai những người tù nhễ nhại mồ hôi. Những người tù đang bị sức nặng của cái cổng đè trĩu trên vai. Họ phải lên gân chân mỗi lúc bước tới trước.

Mới vài tháng trước đây họ c̣n là những vị chỉ huy oai phong lẫm liệt. Giờ đây đành cam thân sống cảnh đọa đày, đóng vai những anh thợ mộc bất đắc dĩ không công. Ngày nào họ cũng ra đi rất sớm, chiều tối mới trở về trại. Họ dựng những cái cổng chào. Họ tu sửa, sơn phết những khẩu hiệu trên tường. Họ trồng lại hàng rào trại.

Mọi việc làm này là để chào đón ngày Quốc-Hội Việt-Nam Thống-Nhất ra đời. Những vị sĩ quan cao cấp này đă khởi đầu nghề thợ mộc của họ bằng những cái bảng “Không Có Ǵ Quư…” ở trại tù Tam-Hiệp.

Tôi có quen vài người trong số những “cải tạo viên” hằng ngày xuất trại làm mộc, như vị sĩ quan cựu Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/ Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa và vị sĩ quan cựu Tiểu Đoàn Phó Nhảy Dù. Cả hai vị đó, sau này nơi đất Bắc, đă thành hai ông đội trưởng nổi tiếng. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh!

Chỉ chín tháng sau ngày chế độ Cộng-Ḥa sụp đổ, giờ đây tôi đang chứng kiến một hoạt cảnh không ai có thể tưởng tượng nổi: Trên trời, phi công Việt-Cộng đang lái F5; trước cổng trại tù, sĩ quan cấp tá Việt-Nam Cộng-Ḥa đang dựng cổng chào; quanh rào trại tù, sĩ quan cấp tá Việt-Nam Cộng-Ḥa đang làm cỏ. Nơi nơi, người người, chuẩn bị đón Xuân. Mỗi người mang một tâm sự riêng…

Tới trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của nhà bếp, chúng tôi được dẫn trở lại trong ṿng rào trại K3. Khi đi ngang qua sân bóng chuyền, tôi thấy người ta đang cá độ nhau trận đấu tay đôi đang diễn, một bên là Thiếu tá Trần Đạo Hàm, cựu vô địch nhảy cao của Quân Đội Việt-Nam Cộng-Ḥa, bên kia là một tay Thiếu tá Không Quân. Anh Lê Hữu Khái (K15) và thằng bạn Nguyễn Bích (K20) của tôi đang nhảy tưng tưng cổ vũ cho anh Hàm v́ anh Hàm là “gà nhà”, Vơ Bị khóa 17! Cái miệng thằng Bích lớn lắm, nó la hét vỗ tay, b́nh luận ào ào. Anh Hàm thật là may mắn, có cái loa phóng thanh cỡ bự Nguyễn Bích cổ vũ nên anh có vẻ như đang dẫn điểm.

Tôi thấy nhiều người đă để ghế “xí” chỗ tốt cho buổi TV văn nghệ tối; ngày nào cũng thế, cứ đến trưa là bà con đem ghế ra đặt sẵn trên sân bóng để “xí” chỗ xem phim TV của đài Sài-G̣n Giải-Phóng. Ai chậm chân th́ không c̣n chỗ tốt. Thời gian này TV Sài-G̣n Giải-Phóng liên tiếp chiếu bộ phim nhiều tập “Trên Từng Cây Số” và “Đại úy Đen” của Ba-Lan.

Trong các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột nhau bằng những con bài. X́ phé, sập xám và mạt chược là những môn chơi phổ thông khắp nơi trong trại. Tôi đă chứng kiến nhiều anh thua bạc phải bán cả những quà cáp từ gia đ́nh gởi vào, như kem đánh răng, thuốc lào, thuốc tây để trừ nợ.

Sau Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau ḷng ở K3 năm ấy: có một vị Thiếu tá Quận trưởng khi cắt bánh thuốc lào làm đôi để chi cho chủ nợ một nửa, th́ phát hiện ra một bức thư “chui” của người nhà giấu trong ruột bánh thuốc lào. Bức thư vắn tắt đôi lời làm đau ḷng người đọc:

“Chị ấy đă gởi hai đứa con của anh cho bà nội của chúng nuôi. Chị đă đi lấy chồng rồi! Anh đừng buồn, ráng học tập lao động cho tiến bộ để sớm được thả về mà nuôi dạy con anh.”

Cái tin bất ngờ sét đánh ấy đă làm cho ông Quận sững sờ, buông rơi những con bài Cơ, Rô, Chuồn, Bích…

Từ đấy, tôi thấy ông suốt ngày thẫn thờ bên rào, nh́n về phía xa xôi. Đôi lúc tỉnh táo, ông ôm cây Guitar, đàn solo những bài nhạc xưa, buồn đứt ruột.

Tôi bồi hồi nhớ lại lời Tổng thống nói ngày nào:

“Đất nước c̣n, c̣n tất cả. Đất nước mất, mất tất cả!”

Ôi! Lời Tổng thống nói thật là hữu lư!

Tổng thống ơi! Chúng tôi đă cố gắng hết sức ḿnh để giữ nước, nhưng chúng tôi đă không thể giữ nổi. Chúng tôi lấy làm xấu hổ vô cùng! Sao Tổng thống không ở lại giữ nước với chúng tôi? Lúc này chúng tôi đă “mất tất cả” rồi Tổng thống ơi!

Về tới lán, tôi nhận được một vỉ thuốc ho, một nắm xôi đậu xanh, và mười cục đường tán do anh bạn Phan Văn Hải gởi cho.

Tôi, Phan Văn Hải, cùng ba anh bạn khóa 20 Vơ Bị là Phan Độ, Huỳnh Bá An, Trần Hữu Bảo, xuất thân từ trường Nam Tiểu Học Đà-Nẵng. Chúng tôi là học tṛ của cô giáo Phạm Thị Tịnh Hoài, lớp Nhất C.

Phan Văn Hải là sĩ quan khóa Đặc biệt Thủ Đức, anh về phục vụ cùng đơn vị Biệt Động Quân của tôi ở Pleiku. Những ngày cuối của cuộc chiến, Thiếu tá Phan Văn Hải giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 89 Biệt Động Quân. Khi đi tù, bạn tôi không có ai thư từ, tiếp tế, nhưng hắn bài bạc rất giỏi, nên lúc nào cũng sung túc.

Chiều hôm đó, anh lán phó hậu cần, Hải Quân Thiếu tá Bùi Tiết Quư thâu tiền của trại viên trong lán, gởi cán bộ trại mua giùm ḿ gói, tương, chao, x́ dầu và đường tán để ăn bồi bổ thêm trong ba ngày Tết. Tối đến, sau khi đă chia hết phần đường cho người mua, anh Quư cạo được một chén đường chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức nồi chè đặc biệt, nấu bằng đường mót được với hột su su và mấy hạt bắp non anh trồng được bên rào. Làm đội phó hậu cần cũng có chút bổng lộc!

Sáng Ba Mươi Tết, lại gặp ngày tổ tôi trực lán, tôi và một số bạn bị chỉ định xuống làm việc tăng cường cho Lán 9 nhà bếp. Tôi phụ việc vo gạo cho thằng Niếu và anh Cung. Những tạ gạo đựng trong bao viền chỉ xanh rất cũ được chuyển về từ bưng biền. Gạo th́ mốc vàng, mốc xanh.

Những tổ sâu gạo to như nắm tay. Khi tôi tách những cái tổ sâu ra từng phần nhỏ th́ những con sâu gạo trắng ngần có khoang, béo núc, to gần bằng đầu đũa và dài cả phân, ngo ngoe, ngo ngoe…

Anh Cung không cho phép tôi vứt bỏ những cái tổ sâu ấy, anh nói rằng nếu vứt bỏ sâu đi th́ hết gạo, “Nếu vứt sâu đi th́ c̣n cái ǵ mà ăn? Cứ nấu tưới đi! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều Prồ-tê-in, sâu gạo chứ có phải là ḍi ở ngoài chuồng xí đâu mà ngán!”

Khi chảo cơm bắt đầu sôi th́ nhiều khách khất thực nước cơm đă cầm ca đứng đợi. Anh Cung cho vài người, mà cũng từ chối đôi người. Người có phần, th́ riu ríu cám ơn, người không có phần tiu nghỉu ra về, miệng lầm bầm, “Đ! M!… Đ!M!..”

Những trại viên nhà bếp gọi đám người chờ xin nước cơm là “Đội quân cầm ca.” Chữ “cầm ca” ở đây không có nghĩa là ca sĩ, ca hát, hay ca kỹ mà có nghĩa đen chỉ sự cầm cái ca U.S dùng để đựng nước uống, cái ca nằm dưới cái bi-đông bộ binh ấy mà!

Dân “cầm ca” phải đứng xếp hàng cả giờ đồng hồ trước cửa ḷ cơm để chờ xin một ly nước cơm. Nước cơm có Vitamin B1 chữa được bệnh phù thủng (?) Chuyện xếp hàng trước, xếp hàng sau, đôi lúc cũng gây ra ẩu đả.

Sau này, khi ở trại tù Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên, tôi có đọc một tài liệu nói về cái chất độc của nấm cúc vàng từ gạo mục, gạo mốc. Nấm cúc vàng có chứa một loại chất độc nguyên nhân gây ung thư gan. Nước cơm lại là phần đậm đặc nhất của chất độc nấm cúc vàng từ gạo mốc. Không biết có bao nhiêu nạn nhân của bệnh xơ gan sau này có mặt trong đội quân “cầm ca” ngày ấy?

Chiều Ba Mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho. Thằng Niếu đem thêm về cả phần ḷng heo bồi dưỡng nhà bếp của nó.

Thời buổi khó khăn, thuốc lá bắt đầu khan, những tay nghiền miền Nam bắt đầu nói chuyện thuốc lào.

Những danh từ “điếu cày,” “điếu bát,” “Cái Sắn,” “Hố Nai,” “Vĩnh Phúc,” “Tiên Lăng” nghe măi cũng quen tai.

Anh Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân của tôi, từ bên K4 nhờ ai đó chuyển cho tôi được một bao thuốc lá 555 và một lạng cà phê.

Trong khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp núc cúng Tất Niên th́ tôi đi ṿng ṿng tán dóc với anh bạn Lưu Văn Ngọc, cựu Sĩ quan Quân Pháp Quân Đoàn II.

o O o

Tối Ba Mươi Tết ở K3 Suối Máu không khí thật là rộn ră tưng bừng. Mọi lán đều đă chuẩn bị sẵn sàng chương tŕnh văn nghệ chào đón Chúa Xuân. Sân khấu văn nghệ được thiết lập giữa sân tập họp. Đèn điện sáng choang. Cờ Mặt Trận Giải- Phóng Miền- Nam che kín cả sân khấu.

Trước giờ văn nghệ, loa phóng thanh truyền đi những bản nhạc từ đài Sài- G̣n Giải- Phóng mà Tô Lan Phương là giọng ca chính. Những nghệ sĩ tù cũng ăn mặc tươm tất để sẵn sàng tŕnh diễn giúp vui. Đàn ghi-ta, trống, sáo đều làm bằng vật liệu lấy từ kho của nhà bếp như tôle, củi, ván gỗ…các nghệ nhân tự đẽo gọt, cắt xén, dán, ghép thành các nhạc cụ.

Tám giờ tối, buổi “Liên hoan văn nghệ” đêm Ba Mươi Tết bắt đầu.

Mở màn chương tŕnh là bài đồng ca “Như có Bác” tôi không nhớ do lán nào tŕnh diễn.

Kế tiếp, cựu Thiếu tá Không Quân Hoàng Đ́nh Ngoạn (K17 VB) lên đài trong tiếng hoan hô vỗ tay của “đồng bọn” tù Vơ Bị.

Anh vừa hát được nửa bài t́nh ca, nhạc vàng “Mùa Xuân Trên Đỉnh B́nh Yên” th́ bị cán bộ Cộng-Sản chặn lại, đuổi xuống đài. Lư do, “Nhạc Ngụy ủy mị!”

Sau đó, chỉ những bài hát “Giải Phóng” mới được phép tŕnh diễn.

Trên sân khấu, tiếng sáo trúc Tô Kiều Ngân lâm ly bài “Mùa Xuân Trên Thành Phố HCM” ḥa ca cùng tiếng sáo miệng của Nguyễn Tuyên Thùy. Tôi cũng nghe vọng lại từ các khu khác, đại để, bạn tù cũng chỉ hát những bài ca eo éo, nghe rợn tóc gáy, như “Cô Gái Vót Chông,” “Tiếng Đàn Ta Lư,” “Năm Anh Em Trên Chiếc Xe Tăng” vân vân…

Khắp 6 khu của trại tù đều sáng rực ánh đèn và vang rền tiếng nhạc…

Năm mới đang từ từ tiến về…

Đến khi màn tŕnh diễn của Lán 24 vừa được giới thiệu, th́ tôi bỏ chạy về lán. Tôi ngồi một ḿnh trong cái nhà tôle vắng tanh. Nỗi đau đớn nhói tim tôi!

Ngoài kia, bạn cùng lán của tôi, không tự nguyện, đang phải đóng vai “Dân quân chống Tầu, chống Tây, chống Mỹ, chống Ngụy” trong một vở trường kịch. Khi họ tập bài bản trong lán, tôi biết họ cũng đau ḷng lắm.

Bạn Vơ Bị của tôi, Tạ Mạnh Huy v́ là Tây lai phải đóng giả làm Tây cho người ta trói. Thằng Niếu phải đóng vai “Biệt Động Quân Ngụy” giơ tay đầu hàng để anh Dương người Bắc, đóng vai bô lăo nông dân Việt Nam “đả đảo”. Mỗi lần tập xong, các bạn tôi đều buồn, họ đề nghị anh lán trưởng Trần Thành Trai cho tập một kịch bản lịch sử “Vua Quang Trung diệt quân Thanh” nhưng anh lán trưởng không đồng ư.

Anh Trai nói, “Ban chỉ huy trại đă ra lệnh” cho anh phải thực hiện cho được trường kịch này để mừng Giao Thừa, v́ nó có tính cách “Lô gích lịch sử” (?)

Và đêm ấy, anh đội trưởng Trần Thành Trai đă thực hiện thành công xuất sắc vở trường kịch “Việt Nam 4000 năm anh hùng.”

Ngay sau khi bế mạc buổi văn nghệ mừng Xuân Bính Th́n, mùa Xuân đầu tiên của nước “Việt Nam Thống Nhất” cũng là mùa Xuân đầu tiên quân và dân Miền Nam mất nước, anh đội trưởng Trần Thành Trai đă được ban chỉ huy trại “tuyên dương công lao” trước trại.

Khi trên sân khấu người diễn kịch bắt đầu hát bài “Tiến Quân Ca” th́ tôi bật khóc.

Một ḿnh, ngồi trong đêm tối, tôi nức nở khóc vùi. Tôi chưa bao giờ thấy cái khóc lại có hiệu lực chữa đau đớn hiệu nghiệm như đêm ấy!

Chợt tôi nghe tiếng chân ai ngoài cửa lán. Rồi tiếng lên đạn súng AK…

Th́nh ĺnh, tia đèn pin chiếu ngay mặt tôi, làm mắt tôi chói lóa.

“Anh kia! làm ǵ ngồi khóc đấy? Sao không đi “rự nễ” mừng Xuân?”

Tên bộ đội đi tuần tra lớn tiếng hỏi.

Tôi lấy tay che mắt, nhưng không nh́n thấy ǵ. Tôi lặng thinh. Tiếng quát lại tiếp:

“Anh có mồm không th́ bảo? Câm à? Sao không giả nhời tôi?”

Tôi vẫn ngồi im. Ánh đèn đảo một ṿng quanh vách lán rồi tắt. Căn pḥng tối om. Tôi nghe tiếng chửi:

“Địt mẹ thằng câm! Mới xa nhà có mấy tháng mà đă nhớ nhà phải khóc. Ông đây xa nhà hai ‘lăm’ rồi mà ông có khóc đâu! Đồ không biết xấu hổ!”

Tôi vẫn lặng thinh.

“Rầm!” Tên bộ đội giận dữ, đóng sập cửa lán.

“Chảng!” Nó c̣n bồi thêm một cái đá cật lực vào vách tôle.

Vài giây sau, tôi nghe tiếng dép râu bước đi xa dần về hướng sân. Tôi nh́n đồng hồ tay (ngày đó chưa có lệnh thu giữ tư trang của tù) đúng lúc này hai cái kim lân tinh vừa chập nhau trên số 12: Giao Thừa!

Ngoài sân tiếng ca hát c̣n đang tiếp tục. Tôi mồi một điếu thuốc 555. Trong trí óc tôi, h́nh ảnh những Giao Thừa đă qua trong đời hiện về, mờ nhạt như từ thế giới nào rất xa…

Ngày xưa, mỗi độ Giao Thừa, cho dù lúc đó tôi đang đi hành quân với một toán Biên Vụ (Viễn Thám) quân số chỉ có 6 người, lần ṃ trên những nhánh của hệ thống “Đường ṃn Hồ Chí Minh” trên đất Lào, hoặc len lỏi trong rừng tre gai Plei-Trap Valley, hay lúc tôi đang chỉ huy cả năm trăm, sáu trăm quân trấn giữ Pleime, hoặc ải địa đầu Bu-Prang miền biên giới Việt Miên, tôi không lần nào quên nghe chương tŕnh Giao Thừa của Đài Phát Thanh Quân-Đội.

Giao Thừa Xuân Bính-Th́n là Giao Thừa đầu tiên trong đời, tôi không t́m thấy lá cờ nước tôi, không nghe được câu hát: “Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi…”

Bài quốc ca này đă đi vào lịch sử. Một thế hệ đă hát nó với cả bầu máu nóng trong tim. Bao nhiêu người thân của tôi, bao nhiêu bạn bè của tôi đă cống hiến tuổi trẻ và cả thân xác ḿnh cho bài ca đó. Một thế hệ đă lớn lên thành người với bài ca đó. Một thế hệ sẽ mang nó theo, xuống tuyền đài…

Chợt tiếng anh lán trưởng Trần Thành Trai vọng lại trên loa phóng thanh:

“Đổi đời đă tới! Cách Mạng đă thành công!”

Tiếng hô lặp lại hai chữ “Thành công!” của trại viên vang dội đêm Trừ Tịch. Tôi cảm thấy tiếng hoan hô đă làm rung những tấm tôle trên mái.

Trời đêm Trừ Tịch tối đen.

Tôi không biết những vạt đen ẩn hiện sau hè, là bóng những bụi rau dền, giàn mùng tơi hay những hồn ma đói cuối năm chập chờn.

Ngoài xa vẳng lại, từ bên K4, ai đó bắt đầu hát bài “Lá Đỏ”…

o O o

Vài năm sau, tôi nghe tin, cựu Y sĩ Thiếu tá Trần Thành Trai của quân y viện Duy-Tân, Đà-Nẵng, đă được tha khỏi trại cải tạo. Bác sĩ Trai đă cùng Bác sĩ Trần Đông A, cựu Y sĩ Thiếu tá Nhảy Dù, nổi tiếng sau những ca mổ tách rời trẻ song sinh ở Sài-G̣n. Tôi cũng đă nghe tin, giờ này, Bác sĩ Trai đang là một “Dân biểu” của Quốc Hội nước Cộng-Ḥa Xă-Hội Chủ Nghĩa Việt-Nam.

Nhân ngày đầu Xuân Ất Dậu (2005), tôi nhớ lại chuyện xưa, ba mươi năm trước. Nhớ những bạn Vơ-Bị, cựu tù Lán 24 Suối Máu, Tam- Hiệp, Biên- Ḥa.

Trong số những người bạn đó, th́ hai người đă qua đời, là Hoàng Thế B́nh và Ngô Văn Niếu. C̣n những bạn khác như Dương, Lành, và Huy th́ đang ở Mỹ, không rơ họ có c̣n nhớ chuyện ngày xưa hay không?

Riêng tôi, cái đêm Giao Thừa ba mươi năm trước ấy đă trở thành không thể nào quên, v́ đó là lần đầu trong đời, tôi đón năm mới với thân phận một người tù mất nước…!!!

VML – K20 –

Lời bàn

Tập thể tù ở đâu cũng có những tên anten, làm chó săn !!, nhưng không nhiều ,tuy nhiên theo tôi có lẻ trong tất cả các trại tù th́ các trại mà anh em là thành phần tù binh bị bắt tại mặt trận th́ tinh thần vững vàng ,do hầu hết và gần như đồng nhất là lính tác chiến các binh chủng ,hiếm có các loại lính bàn giấy, yễm trợ...nên ngang tàng quen rồi, tính hào hùng có trong máu.

DQY cũng bị tó trên băi biển Thuận An nên cũng như anh em là thành phần tù binh mà luôn luôn hảnh diện điều đó ,sau này cũng có thập tḥ vài tên anten là bị trừng trị thẳng tay, thậm chí sau 5-6 năm khi trại đọc lịnh tha tên anten gộc không dám ra về v́ anh em bà con chờ sẵn bên ngoài để đập cho chết, hắn phải năn nỉ bộ đội ,năn nỉ anh em nói giùm tha cho hắn ra. DQY thuộc trại tù Cồn Tiên-Ái Tử B́nh Điền mà gốc là khi trước thuộc Đoàn 76 giam giử tù binh thành lập từ trước trận Điện Biên rồi chuyễn vào Nam phía bên kia biên giới Lào trong chiến tranh từ 54 tới 75.Tiếp tục cho tới khi giao lại cho ḅ vàng.

DQY cũng xin kể một lần làm anten theo lịnh cán bộ trại :
- Khoăn năm 1978 vào một đêm đẹp trời, DQY được( hay Bị ) cán bộ kêu lên khung ,vừa đi vừa băn khoăn Mẹ họ lại có tên nào báo cáo cái chi rồi ,tự vấn th́ thấy mâm mô cũng có, từ bài bạc ,mua bán đổi chát, hay phát biểu linh tinh...thôi kệ nó tới đâu th́ tới.Nhưng khi lên th́ thấy thái độ cán bộ vui vẻ ,ôn tồn hỏi han ,À, cái này mới lạ v́ DQY biết bản thân ḿnh thuộc loại không chịu tiến bộ !!, nhưng cán bộ quản giáo cho biết là dạo gần đây thấy DQY có tiến bộ , nhưng theo trên khung nói là chưa đủ cần phải tiến bộ nhiều hơn nữa bằng cách giúp cho anh em trong lán trại cùng tiến bộ ,DQY phải báo cáo những ai có tư tưởng chưa tốt ,c̣n cải thiện linh tinh, c̣n quan hệ dân khi ra ngoài lao động...nói chung là làm anten. Chà kẹt dử đa, lúc đó mà say NO th́ nó oánh chết mẹ, mà làm theo lịnh th́ DQY không làm được, cuối cùng DQY có kế sách thoát thận
Khi về tới lán anh em bu hỏi v́ thấy lạ, mấy lần trước kêu lên xong lúc về là lết, có khi máu me tùm lum v́ được tẩm quất tận t́nh ,DQY bảo đăm khi có dịp kể lại các h́nh phạt đă trải qua, sẽ thấy chuồng cọp Côn Sơn ,tra tấn này nọ không tàn bạo bằng ( DQY bây giờ vẫn c̣n sẹo dài cả gang tay dưới thắt lưng phía sau ngay lá gan kết quả trận đánh hội đồng 4 tên vệ binh theo chỉ thị của tên Tŕnh là Chính ũy trại : Đánh cho nó chết !!!

Sau khi về lán DQY xin anh em chú ư nghe DQY nói: Thưa anh em, cán bộ kêu tôi lên và giao nhiệm vụ là về giúp đở cho anh em tiến bộ, cho nên từ nay khi anh em thấy mặt tôi th́ hạn chế nói năng linh tinh, bớt cải thiện hoặc làm kín đáo hơn.....nói chưa hết th́ thấy tên vệ binh bước vào bảo: Mày lên đây, bước ra khỏi lán là hắn đấm DQY liền, Lên tới khung DQY cứ kêu oan là tôi chỉ làm theo lời cán bộ dặn ḍ. Kết quả là cắt thăm gặp ,bị cách chức anten ngay. Đấy lần làm anten của DQY chưa được tới 5 phút là bị cách chức c̣n bị đấm.

Người ta đi tù th́ ráng khai là gia đ́nh cách mạng, riêng phần DQY th́ anh em nói là mày hả, gia đ́nh liều mạng th́ có ,ông già 13 niên hơn ,ông chú ruột cùng với ông anh bà con 17 niên hơn về cuối cùng ( dân t́nh báo ) anh ruột là giặc lái...cho nên DQY cũng có đi thăm nuôi như người ta, thăm ông già ,ông chú..

Nói đến trại "cải tạo" Suối Máu này làm tôi nhớ vào năm 1977 khi từ KàTum (Tây Ninh) chuyển trại về đây do bọn Polpot khuấy phá vùng biên giới, được đưa vô K4 (dành cho cấp Thiếu úy + Trung úy), không khí ở đây tuy ổn nhưng vẩn có t́nh trạng "ăng-ten" t́m cách chọt anh em nào phát ngôn bừa băi hầu được "điểm tốt" để xét tha trở về sum họp với gia đ́nh.
Và hậu quả là những người "thay ḷng đổi dạ" này đă nhận nhiều trận đ̣n vào ban đêm như bị trùm mềm và bị đánh túi bụi (nhưng không gây thương tích) từ các anh em trong trại.
Có thể thấy rằng tuy căm ghét những kẻ "ăng-ten" này, nhưng v́ t́nh đồng đội, không có một ai nở xuống tay hạ thủ, gây thêm nhiều đau đớn vô ích nửa, v́ nổi đau mất nước, nổi đau xa gia đ́nh, xa vợ con c̣n lớn hơn những ǵ chúng tôi đang trăi qua lúc bấy giờ.

hoathienly19 10-01-2020 02:28

NGÀN NĂM MÂY BAY
 
NGÀN NĂM MÂY BAY





NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN H̉A , NỖI ĐAU C̉N ĐÓ !





Cuối tháng 11 năm 1967, Đại Đội 17 – Khóa 25 Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức chúng tôi được vinh dự làm Đại Đội dàn chào, khánh thành Đài Tử Sĩ của Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa vừa được Công Binh xây dựng.


Trung Tướng Trần Văn Trung – Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị - thay mặt Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa khánh thành.

Toàn Đại Đội sinh viên sĩ quan chúng tôi trong quân phục vàng, đứng dàn chào hai hàng từ ngoài đường, dưới chân Bức tượng Thương Tiếc, dài vào đến chân đài Tử Sĩ.


Hàng quân chắc dài hơn 200 mét. Trên bậc thang đi lên Đài Tử Sĩ th́ tay trái mỗi sinh viên đều cầm thêm bó đuốc đang cháy. Quang cảnh buổi lễ vô cùng trang nghiêm, lắng đọng.






Sau khi Tướng Trung đọc xong diễn văn, th́ nghe có tiếng ai đó tiếp đọc sang sảng bài văn tế dài cả tiếng đồng hồ.


Chen lẫn trong từng đoạn là tiếng tiêu ai oán như gọi hồn núi sông. Có khi là tiếng trống trận bừng bừng khí thế.

Rồi tiếp theo là nhạc chiêu hồn tử sĩ trỗi lên nhè nhẹ, ḥa trong bài văn tế.

Lúc đó toàn vùng đồi nghĩa trang vang lên nhiều âm thanh lẫn lộn , ḥa tan vào nhau , khi nhặt khi khoan, lúc hùng dũng, lúc nhẹ nhàng , làm cho tâm hồn mọi người hiện diện nơi đó như say như tỉnh. Ai cũng thấy rợn người, cảm giác như có hàng ngàn hàng vạn oan hồn đang tụ tập mọi nơi trong vùng đồi thấp nầy.


Tiếng trống rộn ràng như thúc giục lên đường, ḥa tan trong tiếng tiêu nhè nhẹ trong mây:

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi





Buổi lễ kéo dài hơn 2 giờ mới kết thúc mà dư âm c̣n lắng đọng trong ḷng mọi người quá nhiều nỗi xót xa ngậm ngùi.

Năm đó v́ mới xây dựng , nên Nghĩa trang chỉ mới có chừng ngót một ngàn ngôi mộ.


Sau nầy khi chiến sự leo thang , tốc độ mai táng tử sĩ càng ngày càng gia tăng .

Nhất là khi cuộc chiến leo thang đến chót đỉnh vào mùa Hè đỏ lửa năm 1972.

Tử sĩ chở về nghĩa trang càng nhiều th́ thành phần cơ hữu của nghĩa trang cũng phải gia tăng theo.


Họ là thành phần tạp dịch, lo việc hậu sự của tử sĩ như :

Tắm rửa tử thi, tẩn liệm, đào huyệt, xây mộ… Từ một trung đội thành một đại đội khi cuộc chiến chấm dứt năm 1975.





Song song đó, Công Binh Cơ Giới cũng bận rộn không kém. Họ tiếp tục đào đất, xây cất thêm những công tŕnh khác. Theo sơ đồ tổng quát toàn khu như đường sá ngăn chia từng khu mộ, bức tường Vành Khăn Tang …


Vào sâu trong trung tâm nghĩa trang, c̣n có Đài Tử Sĩ được xây trang trọng trên ngọn đồi thấp có hàng trăm bậc thang đi lên.


Trước đài có cổng Tam Quan uy nghi… Giữa nghĩa trang là một tháp xi măng cao 43 mét gọi là Nghĩa Dũng Đài, Chung quanh Nghĩa Dũng Đài là một bức tường lớn h́nh tṛn gọi là Vành Khăn Tang.


Không biết ai đặt tên cho bức tường nầy Vành Khăn Tang ? Sao mà nghe ai oán , thê lương, năo ḷng cho người sống và cả cho những linh hồn người lính đă trở về cùng cát bụi, đă nằm im ĺm theo năm tháng đi qua .






Từng dăy mồ tiếp nối, dài thêm theo từng ngày, từng tháng. Bia mộ nằm thẳng hàng, yên lặng, b́nh đẳng, hàng hàng, lớp lớp, mút tầm mắt cho đến cuối chân đồi. Việc xây thêm mồ mả đó dừng lại vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Như một định mệnh, như một sự an bài !






Lúc khánh thành th́ nghĩa trang chỉ có ngót nghét ngàn ngôi mộ. Thế mà khi cuộc chiến chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 , tổng số mộ phần ở đây đă lên gần 16 ngàn ngôi mộ.


Đó là chưa kể nhiều tử sĩ đă được thân nhân đưa về đất nhà, mà con số nầy th́ vô phương tổng kết.





Tại nghĩa trang nầy cũng có hơn mười ông Tướng nằm chung với thuộc cấp của ḿnh. Trong số đó có Đại Tướng Đỗ Cao Trí; nằm lại b́nh đẳng – Huynh Đệ Chi Binh.






Theo đồ án dự trù xây cất th́ chung quanh vành tṛn bức tường Vành Khăn Tang nầy , sẽ thi công nhiều công tŕnh điêu khắc nghệ thuật ghi lại những chiến tích oai hùng chống ngoại xâm của dân tộc ta qua các triều đại , từ thuở vua Hùng mở nước kéo dài cho đến ngày nay.


Việc thi công trên c̣n đang tiếp diễn hàng ngày, th́ xảy ra biến cố 30 tháng 4 năm 1975 .


Những phá hoại lớn bắt đầu từ đó ở nghĩa trang nầy qua nhiều bàn tay của bên thắng cuộc.






Nhà cầm quyền cộng sản quản lư nghĩa trang nầy cắt bỏ 10 mét phần đầu của Nghĩa Dũng Đài đem đâu mất, phần nầy bắng thép, chắc mắc.

“Thương Tiếc” bị xe cần cẩu giựt sập, chở đi biệt tăm. May quá có một kư giả người Pháp chụp được h́nh lúc pho tượng bị kéo sập, phổ biến lên mang nên nhiều người xem được.






C̣n nhiều thứ trong nghĩa trang bị cs đánh cắp, chia chác nhau không ai dám kiểm soát. Con cóc làm sao dám kiện ông Trời ?





Đứng trên khu vực dưới chân Nghĩa Dũng Đài, ta thấy cả một cánh đồng mộ chí trùng trùng điệp điệp, dài đến mút mắt .


Một quang cảnh tiêu điều, hoang vu nhưng lại có giá trị lịch sử, trong suốt thời gian điêu tàn vận nước vừa qua:

Tủi thân người lính nằm trong mộ

Nợ máu xương nầy …biết hỏi ai ?

Đêm bấc hồn oan theo bóng đóm

Vật vờ ghềnh băi …ánh ma trơi






Đại Đội 17 – Khóa 25 Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức chúng tôi , vào tháng 11 năm 1967, là những nhân chứng tận mắt ngày bắt đầu xây dựng Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa. Và nhiều sinh viên khóa 25 nầy c̣n sống sót cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 trong đó có tác giả, lại cũng chứng kiến sự khép cửa Nghĩa trang vĩnh viễn .


Một giai đoạn đau buồn của đất nước Việt Nam đă đến và cũng đă đi qua.

Cầu xin anh hồn của 16 ngàn tử sĩ cùng độ tŕ, phù hộ cho Nghĩa trang không bị tàn phá tiếp.


Xin hỏi núi cao, xin hỏi sông dài, hỏi em bé lên ba, hỏi bà già tám chục, th́ chắc chắn rằng hồn thiêng sông núi và toàn dân Việt đều một ḷng muốn bảo vệ Nghĩa Trang yêu dấu nầy.






Lúc nào toàn dân ở trong nước cũng như ở hải ngoại cũng dành một góc trang trọng trong ḷng, tôn kính những người con anh hùng đă nằm xuống.


Mười sáu ngàn tử sĩ nầy đă đem máu đào bảo vệ từng tấc đất ngọn rau và họ đă đền nợ nước. Mà than ôi !


Kết quả khác nào như việc làm vô ích của những con dă tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán ǵ !

Xin đọc bài thơ “Nghĩa Trang” dưới đây:

Nghĩa Trang

Ở đây lớp lớp mồ vô chủ

Nào có ai dành một nén hương ?

Ở đây tối tối hồn oan khóc

Tiếng dế đêm sâu năo nuột buồn

Bao nhiêu mộ chí nằm nghiêng đổ

Bạn với trâu ḅ mỗi giấc trưa

Lối nhỏ hoang tàn gai mắc cỡ

Nào ai thăm viếng lúc sang mùa ?

Người từ tuyến lửa chở về đây

Tử sĩ Binh Long ngăn đá đầy

Từng dăy Poncho về băi H.

Trực thăng lên xuống bụi mù bay

Về đây rũ sạch trần duyên cũ

Lặng lẽ đi về cơi tịch liêu

Về đây hoàn tất phần chung sự

Đồi thấp thiên thu lộng gió chiều

Ở đây b́nh đẳng nằm thanh thản

Kẻ trước người sau…những dăy mồ

Ở đây tất cả là huynh đệ

Mật thiết nhau từ mảnh vải sô

Đồi vắng chiều hôm ai đứng đó

Bàng hoàng lịch sử đă sang trang

Xa xa Châu Thới xanh màu núi

Thánh giá nghiêng xiêu lệ mấy hàng

Người sống hôm nay c̣n thẹn mặt

Với hồn tử sĩ với trăng sao

Ngoài kia pho tượng …đi đâu mất

Chiếc bệ c̣n nguyên nỗi nghẹn ngào

Ở đây tháng Bảy mùa ân xá

Luống những điêu tàn chẳng khói hương

Ai thỉnh cho hồi chuông siêu độ ?

Giải oan hồn phách lạc mười phương

Bao nhiêu suối lệ , bao nhiêu máu

Rồi cũng ô hô kiếp dă tràng

Một sớm Xuân về nghe băo tới

Sơn hà xao xuyến lệ dầm chan

Từ đấy miền Nam…thành khánh tận

Sạch trơn bờ cơi…trắng tay chung

Nổi trôi vận nước bèo mây dạt

Xí xóa cho rồi cuộc phế hưng

Tủi thân người lính nằm trong mộ

Nợ máu xương nầy …biết hỏi ai ?

Đêm bấc hồn oan theo bóng đóm

Vật vờ ghềnh băi …ánh ma trơi

Nhân chứng là đây…từng dăy mộ

Đoạn trường chi lắm núi sông ơi !

Có nghe tiếng quốc buồn bi thiết

Ḥa tiếng mưa rơi cuối…cuối trời

(Sài G̣n trong tôi/ Hồ Thanh Nhă)

hoanglan22 10-01-2020 04:03

Cái loa
 
1 Attachment(s)


Nhà ông Năm ở vùng Cây Quéo, trong một đường đất nhỏ quanh co không ăn thông qua con đường nào khác. Trong cái ngơ cụt đó chỉ có sáu bảy cái nhà cất theo kiểu xưa, kèo cột gỗ, ngói âm dương. Một vài nhà cũng đă được “tân trang” với mặt tiền đúc bê-tông cẩn gạch màu... Điểm đặc biệt là nhà nào cũng có đất chung quanh đầy cây kiểng và cây ăn trái. Cho nên, tuy ở sát nách thành phố mà thấy như ở đâu trong xa miệt vườn vậy! Và thật là yên tịnh. Nhà ông Năm có nhiều cây vú sữa. Giống vú sữa này màu tím, chỉ to bằng nắm tay, nhưng gịn và ngọt lịm. Bà Năm trồng vú sữa một thời với những cây ăn trái khác, hồi mới mua nhà đất. Sau này, vú sữa lại là nguồn huê lợi của ông bà Năm, bởi v́ năm nào trái cũng sai quằn. Bạn hàng ngoài chợ Bà Chiểu thường hay vào đây “mua mảo cả vườn” khi cây vừa mới trổ bông... Cây vú sữa lớn nhứt nằm gần hàng rào phía trước, cành gie ra ngoài. Những cành này lại ít trái. Có lẽ tại v́ ngoài đường gió nhiều nên làm rụng bớt bông. Đến mùa vú sữa, trẻ con trong xóm hay tới đó thọc vú sữa, nhưng chúng có xin phép đàng hoàng và không bao giờ làm ồn. Chúng có... “tư cách” như vậy là nhờ lời dặn ḍ của trẻ con những thế hệ trước: “Đừng ăn cắp! Ông Năm không ưa đâu. Ổng kêu lính bắt chết. Cứ xin là ổng cho hà. Mà cũng đừng làm ồn, ổng ghét lắm!”. Rồi cứ như vậy, trẻ con thế hệ này truyền cho trẻ con thế hệ sau... vv từ không biết bao nhiêu năm, đă thành nếp. Cho nên, khi vú sữa chín tới là hằng ngày nghe giọng trẻ con “đánh tiếng” từ ngoài rào: “Dạ thưa ông Năm cho tụi con xin vài trái vú sữa, nghen”. Có khi nghe tiếng ông Năm “Ừa” vói ra ngoài. Nhưng thông thường, sau khi xin phép như vậy rồi là chúng yên tâm thọc vú sữa. Và ngầm hiểu “Ổng làm thinh là ổng ừa đó!”. Một hôm, ăn trộm chuyền theo mấy cành vú sữa vào nhà ông Năm. Thời may, người nhà hay kịp nên nó đu người phóng ra ngoài tẩu thoát. Sau lần đó, các con ông Năm định cưa hết mấy cành gie ra ngoài, nhưng ông Năm không chịu. Ông nói: “Má tụi bây trồng mấy chục năm mới được như vậy. Cưa chi uổng. Để đó qua mùa tới cho mấy đứa nhỏ trong xóm nó ăn, nó vui!”. Rồi ông giải quyết vấn đề: “Sợ trộm vô th́ tụi bây kéo kẽm gai chằng chịt trên đó, tía thằng nào mà dám trèo?”. Nhờ vậy, trẻ con trong xóm vẫn được ăn dài dài mỗi mùa vú sữa.
... Tháng tư 1975. Trong bầu không khí hỗn loạn của miền Nam, mấy đứa con ông Năm kéo hết gia đ́nh về tá túc ở nhà ổng để cùng nghe ngóng, bàn tính. Cuối cùng là quyết định di tản. Ông Năm không chịu đi.
- Tao già rồi. Năm nay tám mươi chớ ít đâu. Đi đứng phải chống gậy mà tụi bây biểu tao di tản cái nỗi ǵ? Mà cho dầu tao c̣n sức, tao cũng không đi đâu hết. Nhà cửa đất đai này là của mồ hôi nước mắt của má tụi bây và của tao, bỏ sao được. C̣n mồ mả của má tụi bây ở G̣ Vấp, ai coi? Thôi! Tụi bây đi, đi! Đừng lo cho tao!
Vậy là ông Năm ở lại với đứa cháu gái gọi ông bằng ông chú. Cô này - năm nay trên ba mươi, chưa có chồng – ở dưới quê lên giúp việc cho ổng, “coi trong coi ngoài”, từ ngày bà Năm măn phần, nghĩa là đă bốn năm năm...

Trong lúc bên ngoài đường lớn thiên hạ chạy rần rần, nhốn nha nhốn nháo, ông Năm vẫn b́nh thản nằm trên vơng đọc sách, hút thuốc, uống trà. Lâu lâu, chống gậy ra vườn săm soi mấy chậu kiểng, bắt sâu, tỉa nhánh. Xem rất ung dung nhàn hạ!
Thấy cô cháu gái cứ “chạy ra chạy vào”, ông cười:
- Mầy làm cái ǵ mà như gà mắc đẻ vậy, Hai?
- Trời ơi... Người ta nói Việt Cộng nó vô tới rồi mà ông biểu con không lo sao được?
- Lo cái ǵ? Người ta có chức tước, có ṿng vàng, có tài sản to, có cơ sở lớn... mới sợ tụi nó vô nó giết nó lấy. Chớ... cái thứ dân quèn như tao với mầy th́ có khỉ ǵ cho tụi nó lấy?
- Dạ mà sao con cũng hồi hộp quá hà!
- Cái mà mầy phải lo là coi gạo nước ở nhà c̣n đầy đủ không.
- Dạ đồ dự trữ mấy cô chú mang lại đây để đầy nhà. Ông với con ăn cả mấy tháng mới hết!
- Ờ! Vậy là yên tâm một phần. Bởi v́ ḿnh không biết cái vụ này nó kéo dài tới bao lâu đây!
“Cái vụ này”, mà ông Năm nói, chỉ kéo dài có mươi hôm rồi chấm dứt vào ngày 30 tháng tư...

Tiếp theo đó là kiểm kê – kiểm kê đủ thứ - là khai báo – khai báo cũng... đủ thứ (biết cũng khai, không biết cũng khai!), là hội họp học tập từ đường lối chủ trương đến sổ hộ khẩu sổ gạo... Ông Năm cứ phải chống gậy đi với con nhỏ cháu nay tới tổ, mai tới phường, bữa khác tới ban... vv. Ông Năm có phàn nàn rằng ông già rồi mà cứ bắt đi tới đi lui, th́ được “mấy ông cách mạng” giải thích : “Ai cũng phải học tập hết. Không như thế th́ làm sao thông suốt được đường lối chủ trương của Đảng và Nhà Nước, làm sao thực hiện được quyền làm chủ của nhân dân? Ngoài ra, sự có mặt thường xuyên của các chú các bác trong buổi họp càng làm cho bọn trẻ chúng cháu thêm hồ hởi phấn khởi. Các chú các bác có nhất trí không nào?”.

Mỗi lần đi họp, về đến nhà là ông Năm ngă người lên vơng, vừa đong đưa vừa hút thuốc liên miên, không nói một tiếng. Thấy vậy, một hôm đứa cháu gái an ủi:
- Ai sao ḿnh vậy. Đều trời hết chớ phải có ḿnh ḿnh đâu mà ông buồn.
- Tao đâu có buồn! Tao giận chớ đâu có buồn! Cái giống ǵ mà ăn nói ngang như cua, không biết lễ nghĩa ǵ hết. Cũng may là xóm ḿnh không có nhà nào di tản, nên tụi nó không có tiếp thu để chen vô ở như mấy xóm ngoài mặt tiền. Nghe nói tụi nó ồn ào và hay ḍm ngó lắm. Cái ngơ của ḿnh c̣n đầy đủ bà con, nhứt là vẫn được yên tĩnh như từ hồi xưa tới giờ, là ḿnh có phước đó!

Một buổi sáng, đang nằm đọc sách, ông Năm bỗng nghe xào xạc trên mấy cành vú sữa phía trước. Bỏ kiếng lăo, nh́n ra, thấy gió thổi từng cơn. Yên tâm, ông tiếp tục đọc sách, không để ư đến nữa. Trưa đó, đang thiu thiu ngủ ông bỗng giựt ḿnh hết hồn v́ tiếng la chát chúa phát ra từ một cái loa nào đó ngay trước nhà ông: “Chú ư! Chú ư! Pḥng lương thực chiều nay phân phối rau cải. Mời bà con khẩn trương kẻo rau cải úng thúi chúng tôi không chịu trách nhiệm!”. Tiếng trong loa phát ra nghe điếc con ráy, c̣n lập đi lập lại nhiều lần, làm ông Năm phát bực. Ông chống gậy bước ra xem. Th́ ra “tụi nào” đă gắn một cái loa to trên mấy cành vú sữa! Ông hậm hực trở vô, đầu gậy chống xuống mặt sân gạch nghe côm cốp, miệng lẩm bẩm: “Đù cha tụi nó! Quyền ǵ mà nó gắn loa ở nhà người ta? Quyền ǵ mà nó làm mất sự yên tịnh của xóm người ta?”.

Ông Năm không biết – có đi đâu mà biết – rằng công tác “quan trọng hàng đầu” của nhà cầm quyền là cho gắn loa để đưa tiếng nói của Nhà Nước đến tận... lỗ tai của nhân dân. Để đừng ai trách rằng: “Tôi không hay không biết ǵ hết!”. Cứ nhét riết vô lỗ tai, nhét rồi nhét nữa, không thể nói là không... nghe! Mà cho dù không muốn nghe, cuối cùng rồi cũng phải thuộc! Đó là một quy luật máy móc, nó “vô” trong óc hồi nào không hay. Biết như vậy, nên Nhà Nước cho gắn loa cùng khắp: hang cùng ngơ hẻm, ngă tư ngă ba, chợ búa trường học... thậm chí đến bịnh viện là nơi cần sự yên tịnh! (Có người nói: chung quanh bịnh viện có bảng “Cấm bóp c̣i” đàng hoàng mà Nhà Nước không tôn trọng luật lệ ǵ hết. Nói như vậy là sai, là “lư luận chưa đạt yêu cầu”. Bảng “Cấm bóp c̣i” chớ có cấm bắt loa nói cho dân nghe đâu?).

Tuy nhiên, có một nơi mà Nhà Nước không cho gắn loa: đó là nghĩa địa. Không phải tại v́ Nhà Nước biết tôn trọng “giấc ngủ ngàn thu” của những người quá cố, mà tại v́ Nhà Nước sáng suốt, biết rằng có nói ở đó cũng không có... ma nào nghe! Đỉnh cao trí tuệ có khác!

Chịu trận được mấy hôm, bực ḿnh quá, ông Năm nhứt định đi thưa. Ông chống gậy đi một ḿnh – con cháu gái bận đi họp hội đoàn ǵ đó.
Đầu tiên, ông đi gặp ông tổ trưởng. Ông này dẫn qua ông tổ phó an ninh. Ở đây, sau một lúc bàn qua tính lại (bởi v́ họ cũng không rành cái tổ chức cách mạng quá mới mẻ này), cả ba kéo nhau đến công an phường. Anh này tỏ vẻ sành sỏi, giải thích dông dài thế nào là hàng ngang thế nào là hàng dọc, ta tổ chức có khoa học nên theo hệ thống dọc chớ không theo hệ thống ngang... vân vân, rồi vân vân, rồi vân vân. Để cuối cùng kết luận một cách rất... “bài bản”:
- Đấy! Rơ như thế đấy!
- Tôi không hiểu ǵ hết! Tôi chỉ muốn biết bây giờ anh giải quyết cái loa của tôi làm sao đây?
- À! Chuyện này không thuộc diện xử lư của tôi! Cụ nên đến Ủy ban nhân dân quận xem. Không! Cụ phải đến Ủy ban nhân dân phường trước. Ta theo hàng dọc, phải đi từ dưới lên trên. Phải...
Ông Năm chán nản xách gậy đi ra, bỏ mặc hai ông tổ trưởng tổ phó ngồi ngẩn ngơ với cái mà họ gọi là “vụ việc quá căng”!
Gọi xích lô, ông Năm đi thẳng lên quận. Ở đây, người ta chỉ ông đi đúng chỗ. Mừng quá, ông thuật lại vụ cái loa của ông cho người thanh niên ngồi sau bàn viết đầy hồ sơ (Anh này có vẻ cán bộ, v́ thấy ngồi trong văn pḥng mà vẫn đội nón cối xiêng xiêng giống như c̣n đi dưới nắng!). Rồi ông kết:
- Nhờ cậu giải quyết giùm, tôi cám ơn.
- Bác có làm đơn khiếu nại chưa?
- Ủa? Phải làm đơn nữa sao?
- Coi? Đi thưa th́ phải có đơn. Chớ nói khơi khơi vậy lấy ǵ mà giải quyết?
Nghe như vậy, ông xách gậy quay ra đi thẳng.
Tối đó, ông ngồi dưới đèn rị mọ viết đơn. Cả đời ông chưa kiện cáo ai bao giờ, cho nên ông cứ viết rồi xé, xé rồi viết. Đến chừng ông đọc được vừa ư th́ đă mất gần hai tiếng đồng hồ!

Sáng hôm sau, ông “vác đơn lên quận”. Gă thanh niên hôm qua mở ra đọc, châm chú. Và có vẻ... nghiền ngẫm từng câu từng chữ hay sao mà thấy đọc khá lâu. Ông Năm chống gậy ngồi chờ. Một lúc sau, gă đứng lên – vẫn đội nón cối xiêng xiêng – cầm lá đơn đi vào pḥng trong. “Chắc là để báo cáo cho trưởng pḥng” – ông Năm nghĩ như vậy (Nhờ đi họp đi hội liên miên mà ổng bây giờ nghĩ và nói bằng từ ngữ cách mạng một cách... trơn tru, từ lúc nào không hay biết! Cái hay của chế độ là ở chỗ đó. “Cứ nhai tới nhai lui cho tụi nó nghe riết là tụi nó sẽ nhập tâm thôi”). Độ mười phút sau, gă trở ra với một người cán bộ khác đứng tuổi hơn. Ông ta vui vẻ chào ông Năm, tay cầm lá đơn phe phẩy như cầm quạt:
- Chào bác. Chuyện này các đồng chí đó làm bậy. Rồi ta sửa sai thôi. Bác về đi, yên tâm. Họ sẽ tháo gỡ trong ngày hôm nay cho bác.

Ông Năm cám ơn, rồi ra về. Ngồi trên xích lô, ông nghĩ: “Ít ra, cũng có người biết điều như vậy chớ! Lâu nay ḿnh nghĩ quấy cho họ cũng tội.”
Lối gần trưa, ông nghe có tiếng xe máy dầu ngừng phía ngoài rào, kế đó là mấy cành vú sữa dao động một lúc lâu rồi yên. Ông vui vẻ nói với đứa cháu gái:
- Rồi! Họ gỡ rồi! Mầy thấy không, Hai? Họ cũng đàng hoàng chớ đâu đến nỗi.
Xế chiều, đang nằm đọc sách trên vơng, ông bỗng giựt ḿnh v́ tiếng phát thanh chát chúa ́nh ́nh ́nh ́nh của nhạc tiến quân. Lần này, nghe c̣n lớn hơn hồi cái loa nằm trên cành vú sữa! Ông vội vă chống gậy ra ngoài cổng coi là cái ǵ. Th́ ra cái loa bây giờ đă được gắn trên trụ đèn đường nằm ở phía đối diện, miệng loa hướng về phía nhà ông Năm! “Tiên tổ nó! Hèn ǵ!”. Ông Năm hậm hực trở vô thay đồ rồi hối hả gọi xích lô lên quận.
Lần này, ông đ̣i gặp thẳng ông trưởng pḥng. Ông nói với gă thanh niên ngồi ngoài, mà ông dộng đầu gậy xuống sàn gạch nghe côm cốp. Đủ thấy ông bực ḿnh đến đâu!
Nghe to tiếng, ông trưởng pḥng bước ra, ngạc nhiên:
- Họ chưa gỡ cái loa cho bác à?
- Gỡ rồi! Mà họ đem gắn ở trụ đèn phía bên kia đường th́ cũng như vậy thôi.
- Bác nói không đúng! Sao cũng như vậy được? Hồi gắn loa trên cây nhà bác mà không có sự đồng ư của bác, đó là sai, là phạm chủ quyền của bác. Tôi nhất trí điều đó. C̣n bây giờ gắn trên cột đèn thuộc phạm vi của Nhà Nước, nằm trên lối đi công cộng, là đúng chớ đâu có sai.
- Đành rồi. Nhưng điều mà tôi muốn nói là tôi già rồi, cần được yên tĩnh, mà cái loa nó ồn quá. Tôi...
- À! Chỗ này là bác hiểu sai. Nhà Nước đâu phải gắn loa để làm ồn. Nhà Nước gắn loa để hằng ngày báo cáo cho nhân dân những ǵ Nhà Nước đă làm, những thành quả của cách mạng, từng tháng, từng quí, những đường lối chủ trương của đảng đề ra... Bác thấy không? Quan trọng lắm chớ! Đó là trách nhiệm hàng đầu của Nhà Nước đối với nhân dân mà bác nói là làm ồn sao được!

Ông Năm không nói thêm một tiếng, chống gậy côm cốp đi ra mà có cảm tưởng như ḿnh vừa nói chuyện với... một bức tường!
Về nhà, ông nằm ngă người lên vơng, chửi đổng mà như tự chửi ḿnh:
- Đu mẹ bà nó! Nếu biết như vầy, hồi đó tao đă di tản cha nó rồi.
Từ đó, trên cái bàn thấp kê gần vơng để để trà, thuốc, sách của ông Năm, thấy có hai cục bông g̣n nhỏ! Và lúc nào đi họp đi hội, ông cũng cố ư nhét vô lỗ tai hai cục g̣n bự cho người ta thấy! Có ai ra dấu hỏi th́ ông trả lời lớn tiếng như nói với người điếc:
- Từ ngày tôi nghe loa phát thanh của Nhà Nước, tự nhiên tôi bị... thúi lỗ tai. Kỳ quá!

Tiểu Tử

hoanglan22 10-03-2020 00:04

Dốt Hay Nói Chữ
 
1 Attachment(s)


Thường thường những kẻ thiếu hiểu biết, ít học khi viết văn hay dùng những chữ cầu kỳ khiến trở nên dị hợm. Miền Nam gọi đó là “Dốt Hay Nói Chữ”. Ngày nay thảm trạng “Dốt Hay Nói Chữ” lan tràn trong nước và trên hai trang tin BBC và VOA tiếng Việt. Trong nước, miệng th́ hô hào “thoát Trung” mà ngôn ngữ th́ lai Tàu lạ hoắc. Đó là loại tiếng Tàu thời Mao Trạch Đông, không phải là tiếng Hán đă được cha ông ta Việt hóa và sử dụng cả ngàn năm nay. Thí dụ:

1) BBC ngày 26/7/2019: Ở Việt Nam bây giờ cái ǵ cũng “diện mạo”. Hai chữ “bộ mặt” đă chết trong ngôn ngữ Việt Nam. Thí dụ: Thay v́ viết, “Để tạo bộ mặt mới cho nông thôn”, lại viết, “Để tạo diện mạo mới cho nông thôn.” Rồi, “Để tư pháp VN có diện mạo đẹp hơn th́ cần tôn trọng luật sư.” Bài này của Ô. Luật Sư Ngô Ngọc Trai gửi cho BBC từ Hà Nội.

2) BBC ngày 6/8/2020: “Biển Đông: Việt Nam cần tính đến kịch bản Trung Quốc 'tấn công' từ nhiều hướng?” Kịch bản là một kế hoạch được tính toán từ trước và diễn tiến theo thứ tự, lớp lang. Câu văn không dị hợm chỉ là, “Việt Nam cần tính tới t́nh thế/trường hợp Trung Quốc tấn công từ nhiều hướng.” Ở Việt Nam bây giờ cái ǵ cũng “kịch bản”. Giá chứng khoán, giá vàng lên xuống cũng kịch bản. Rồi cuộc tranh cử tổng thống Hoa Kỳ cũng kịch bản. Rồi những cuộc va chạm ở Biển Đông cũng kịch bản. Đúng là một thứ tiếng Việt dị hợm, điên khùng.

3) BBC tiếng Việt ngày 12/8/2020: “Việt Nam tồn tại nhiều khoảng trống lănh đạo?” Câu hỏi ở đây là, “khoảng trống lănh đạo” là ǵ? Là không có lănh đạo ǵ hết, ai muốn làm ǵ th́ làm? Hoặc thiếu người có khả năng lănh đạo? Viết một câu văn mơ hồ như thế này có lẽ tác giả cũng chẳng hiểu ḿnh viết ǵ !

4) BBC tiếng Việt ngày 13/8/2020: “B́nh luận đa chiều về vụ đ́nh chỉ Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung”. Câu văn giản dị và có học chỉ là, “Những ư kiến khác nhau về vụ ngưng chức Chủ Tịch TP. Hà Nội Nguyễn Đức Chung.” Ngày xưa ở Miền Nam, ông kư giả nào viết, “b́nh luận đa chiều” chắc phải đưa ông này vào nhà thương điên Biên Ḥa quá. Rồi nào là, “tạm đ́nh chỉ công tác”. Tại sao không viết “ngưng chức” cho ngắn gọn? Công tác là công việc, c̣n “chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố” sao gọi là “công tác” được?

5) BBC tiếng Việt ngày 13/8/2020: “Khởi tố vụ án cán bộ gần cận Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung.” Khởi tố là khởi tố một cá nhân nào đó chứ không thể “khởi tố vụ án”. Khi nói “vụ án” tức là đă đưa ra ṭa xét xử rồi đâu cần phải khởi tố nữa? Ngoài ra người ta nói, “thân cận” chứ không nói “gần cận”. Tiếng Việt như thế mà cũng đ̣i cầm bút.

6) BBC tiếng Việt ngày 13/8/2020: “Những người phụ nữ đă tạo thành các chuỗi dây người tại Belarus.”. Chẳng ai nói, “chuỗi dây người” mà người ta nói “nắm chặt tay nhau để làm thành một hàng rào”.

7) Điểm chuẩn và điểm sàn. Hiện nay trong nước các nhà giáo dục ông bà nào cũng có bằng Tiến Sĩ nhưng tiếng mẹ đẻ lại không hơn học sinh Trung Học năm xưa nên chế ra những từ ngữ thật lạ lùng. Thí dụ: Điểm thấp nhất để được xét tuyển biến thành điểm sàn. Điểm để được trúng tuyển (bằng hoặc cao hơn) gọi là điểm chuẩn. Nghe nói điểm sàn và điểm chuẩn sinh viên trong nước cũng ngơ ngác chẳng hiểu ǵ cả phải cần thông dịch viên cho nên đă phải xin giải đáp. Trang tin CỔNG THÔNG TIN TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG LỚN NHẤT VIỆT NAM đă phải giải thích về các danh từ bí hiểm này. Ngày nay ở Việt Nam cái ǵ vui, hấp dẫn, ngoạn mục như đá bóng, đưa xe đạp, tŕnh diễn văn nghệ, giá vàng lên xuống bất thường… được gọi là “kịch tính”. Món ăn truyền thống như bánh giày, bánh chưng biến thành “món ăn kinh điển”. Và rồi cái ǵ cũng “siêu” như “siêu ngon”, “siêu rẻ”, “siêu trường, siêu trọng”. Đúng là ở với cộng sản không điên cũng khùng cho nên bằng mọi cách phải trốn đi. Bây giờ giai cấp quyền thế tham nhũng cả trăm triệu đô-la, trốn đi bằng cách bỏ ra vài triệu mua nhập cảnh/hộ chiếu (visa) của Đảo Sip. Đảo Síp (Cyprus) nằm trong Liên Hiệp Âu Châu và có thể tự do di trú trong 166 quốc gia.

8) Vượt ngưỡng: Trong nước bây giờ chữ nghĩa của cả quốc gia lại do bọn bát nháo, ít học, đứng bến mánh mung quyết định rồi cả nước “học tập” và nói theo. Thậm chí cả các ông thủ tướng, tổng bộ trưởng cũng nói theo như con vẹt. Thí dụ: Vượt chỉ tiêu, vượt mức, vượt qua con số…biến thành vượt ngưỡng! Thí dụ: Báo Pháp Luật Việt Nam ngày 21/8/2020, “Hàn Quốc: Số ca nhiễm Covid-19 lần đầu vượt ngưỡng 300 sau hơn 5 tháng.” Tự điển Việt Nam trong nước định nghĩa “Ngưỡng là đoạn gỗ dài để ngang mà giữ lấy cánh cửa, ngưỡng cửa”. Như vậy chỉ có “bước qua ngưỡng cửa chứ làm ǵ có vượt ngưỡng?” Thảm họa văn hóa trong nước càng nói ra càng xấu hổ.

9) Rồi cũng lại VOV ngày 18/9/2020: “Bà mẹ một con Đường Yên trẻ trung, xinh đẹp như thiếu nữ đôi mươi tại sự kiện.” Tôi đố quư vị hiểu câu văn này nói ǵ. Thực ra cô người mẫu một con này xuất hiện trong một màn tŕnh diễn thời trang và trông vẫn đẹp như gái chưa chồng…nhưng được viết bằng đoạn văn vô cùng bí hiểm và bát nháo.

10) Rồi th́ “rung động ḷng người” hay “chinh phục được ḷng người”, “vô cùng xúc động” biến thành “tan chảy” và “đốn tim”. Thí dụ: Báo Người Lao Động ngày 27/8/2020, “Tan chảy với h́nh ảnh và điệu bộ của Trúc Nhi-Diệu Nhi.” Hai em bé nói ở đây sinh đôi dính vào với nhau được các bác sĩ giải phẫu tách ra và các em đă sinh hoạt b́nh thường khiến mọi người vui mừng hay thương cảm nay được bọn bát nháo biến thành “tan chảy”. Rồi chinh phục được khán giả biến thành “đốn tim”. Thí dụ: Báo Thanh niên, “ca sĩ Hà Vân ‘đốn tim’ người nghe với ca khúc về Phật giáo”. Hiện tượng “tan chảy” và “đốn tim” nhiễm ô cả hải ngoại. Trong một chương tŕnh b́nh luận thời sự của SET (Saigon Entertainmnent TV) ở Nam California, ông điều khiển chương tŕnh thay v́ nói, “Việc Việt Nam mua nông phẩm ở các tiểu bang Cộng Ḥa làm Ô. Trump đẹp ḷng v́ giúp ông tái đắc cử.” lại nói, “Việc Việt Nam mua nông phẩm ở các tiểu bang Cộng Ḥa đă đốn tim Ô. Trump.”

11) VOV ngày 19/9/2020: Ban biên tập của đài này tiếng Việt quá kém nên không hiểu nghĩa của hai chữ “đầu tiên” và “hàng đầu”. Đầu tiên chỉ về thời gian. C̣n hàng đầu chỉ về thứ bậc/thứ tự cho nên mới viết, “Mỹ coi Trung Quốc là thách thức chính sách đối ngoại đầu tiên.” Thế mà cũng tự nhận là tờ báo và tiếng nói tiêu biểu cho cả quốc gia. Câu văn đúng phải viết, “Mỹ coi Trung Quốc là thách thức chính sách đối ngoại hàng đầu.”

12) VOV ngày 19/9/2020: “Sắp công bố thương hiệu bánh Trung thu kém chất lượng”. Thế nào là bánh trung thu kém chất lượng? Chỉ có trời mới biết. Nếu nó không hợp vệ sinh hoặc không ngon…th́ nói rơ ra. “Kém chất lượng” là ǵ? Đúng là ngu dốt cho nên nói ẩu mà cứ tưởng ḿnh đúng và khắp cả nước cứ nhai đi nhai lại ba chữ “kém chất lượng”. Đúng ra phải nói “phẩm chất kém” hoặc “không hợp vệ sinh”.

13) VOV ngày 19/8/2020: “Viện Kiểm Sát nói có cơ sở chứng minh quan hệ t́nh cảm giữa ông Tài và bà Thúy.” Trong luật pháp người ta không nói “có cơ sở” mà phải nói “có bằng chứng”. Ngu dốt thế mà cũng đ̣i viết báo. Nguyên do cũng chỉ v́ bị nhồi sọ từ thuở nhỏ cho nên nói như con vẹt và không cần suy nghĩ ǵ hết.

14) VOV ngày 20/9/2020: “43 năm tham gia LHQ: Tạo ra “Thương hiệu Việt Nam” trong hoạt động ngoại giao đa phương”. Trời đất quỷ thần ơi! Tên tuổi của một quốc gia mà lại gọi đó là “thương hiệu”. Đúng là ngu dốt không thể tưởng tượng được! Nếu có học sẽ viết, “43 năm tham gia LHQ: Tạo ra ‘Tên tuổi Việt Nam’ trong hoạt động ngoại giao đa phương.”

Việt Nam ngày nay không c̣n ăn độn ngô, khoai, sắn và bo bo nữa. Cả làng quê cũng xây lâu đài, “biệt phủ” c̣n sang hơn cả Âu Châu, xe hơi đắt tiền giá vài trăm ngàn Mỹ Kim. Thế nhưng ngôn ngữ lại là một thứ bát nháo như nồi cám heo. Nguyên do là v́ các nhà ngôn ngữ, bác học, giáo sư, nhà văn, nhà biên khảo thuộc thế hệ truyền thống đă chết hết cả rồi. Cầm nắm ngôn ngữ dân tộc ngày hôm nay là một phường bát nháo trưởng thành trong ăn độn, xếp hàng tại cửa hàng bách hóa tranh nhau từng miếng thịt mỡ nhỏ bằng ngón tay, từng khẩu phần vải không đủ may một chiếc quần đùi, buôn lậu, mánh mung, trộm cắp, gian lận… cho nên dù có học ǵ, giàu có thế nào đi nữa…th́ vẫn chỉ là một phường vô cùng ngu dốt, tham lam, gian dối và phá hoại. Cứ thử nh́n vào phong trào diệt tham nhũng hiện nay cho thấy từ hàng tổng bộ trưởng tới thứ trưởng, tướng công an, tướng trong quân đội, đô đốc hải quân, tổng giám đốc các ngân hàng, bí thư tỉnh ủy, chủ tịch UBND, huyện ủy, xă ủy bị tù, bị mất chức…cho thấy hệ thống cầm quyền tại Việt Nam đă ung thư, thối rữa như thế nào. Khi bụng đói và đạo đức suy đồi th́ tất cả đều tan nát. Trong nước “đạo đức suy đồi”, “thối nát” không nói mà lại che dấu bằng cách dùng danh từ “biến chất”. Cả nước có “chất” ǵ tốt đâu mà “biến”? Bản chất cộng sản vốn đă xấu rồi, nếu có “biến”đi th́ tốt chứ sao lại lên án? Rồi th́ các quan mua bằng cấp giả, ăn cắp luận án của người khác để có bằng Cao Học (nay gọi là thạc sĩ), Tiến Sĩ để được tiến cử vào chức vụ lớn hơn. Cái này gọi là ‘biến chất” hay bản chất là gian dối? Ở Mỹ cũng có những vụ ông/bà triệu phú hối lộ để con cái được vào học các trường danh tiếng nhưng đă bị lôi ra ṭa xét xử. Sao không thấy trong nước xử phạt các ông/bà này? Làm chính quyền cai trị là “phụ mẫu chi dân” mà gian trá th́ đừng trách đất nước sao tan nát. Cổ nhân có câu, “Nhà dột từ nóc dột xuống” tức cha mẹ không ra ǵ th́ con cái hư hỏng. Đất nước loạn ly không phải tại dân trước mà chỉ v́ vua th́ u mê ám chướng, quan lại th́ tham ô vơ vét. Một đất nước mà vua anh minh, trăm quan liêm chính th́ đất nước làm sao loạn ly được? Ngoài ra đất nước lụn bại là v́ không có nhân tài hoặc có nhân tài mà không biết sử dụng. Khi có nhân tài th́ đất nước phát triển và ngửng mặt với năm châu bốn biển. Ngày xưa Đào Duy Từ không được Chúa Trịnh trọng dụng bèn vào nam, Chúa Nguyễn biết đây là kỳ tài cho nên đă mở nghiệp lớn ở phương nam. Ở đâu cũng vậy, đảng nào nắm quyền th́ cử đảng viên của ḿnh vào những chức vụ quan trọng trong chính quyền. Thậm chí bổ nhiệm thẩm phán Tối Cao Pháp Viện cũng lựa người cùng với lập trường của đảng ḿnh. Thế nhưng đưa bọn “con ông cháu cha, thái tử đảng” vô tài bất tướng vào những chức vụ quan trọng trong chính quyền th́ chúng sẽ phá nát đất nước.

C̣n đối với hải ngoại, thua một trận chiến không đáng sợ bằng thua về văn hóa và tư tưởng. Chúng ta thừa kế cả một nền văn chương, học thuật, ngôn ngữ tuyệt vời của cha ông để lại rồi được Miền Nam phong phú hóa với đầy đủ ngữ vựng cho tất cả các bộ môn, tại sao lại đi bắt chước loại ngôn ngữ không có học? Chinh phục được ḷng người, tạo thiện cảm sao không nói mà nói “đốn tim”? Cảm động, xúc động sao không nói mà lại nói “tan chảy”? Căn nhà sao không nói mà nói “căn hộ”. Gia đ́nh sao không nói mà nói “hộ dân”? Giải tỏa đất đai sao không nói mà nói “giải phóng”? Giải quyết công việc, lọc chất thải… sao không nói mà nói “xử lư”? Tiết kiệm, rẻ tiền sao không nói mà nói “kinh tế”? Du lịch, thăm viếng sao không nói mà nói “tham quan”? Bực tức, bị dồn nén, bất măn sao không nói mà lại nói “bức xúc”? Bài giảng sao không nói mà nói giáo tŕnh? Gặp gỡ, trao đổi, thân hữu sao không nói mà lại nói giao lưu? Tác động qua lại sao không nói mà nói tương tác? Đoạn đường không nói mà lại nói “cung đường”. Cung là một đoạn cong như “h́nh ṿng cung”, cây cung là cây cong để bắn mũi tên. Rồi “kích thích kinh tế” không nói mà lại nói “kích cầu”. Kích cầu là sự bịa đặt chữ nghĩa một cách điên khùng. Ngay cả tự điển Việt Nam trong nước cũng không có hai chữ “kích cầu”. Cả ngàn năm nay người ta thường nói: kích thích, kích động, kích động nhạc, thuốc kích dục, kích thích tố. Danh từ “stimulus” tự điển trong nước dịch là “sự kích thích” nay bọn bát nháo bịa ra là “kích cầu”. Rồi việc tuyển chọn, đề cử người (trong đại hội đảng) không nói mà lại dùng những câu nhức đầu như “công tác nhân sự” (BBC tiếng Việt). Rồi cũng lại BBC tiếng Việt, “Việt Nam hiện nay c̣n thua xa các triều đại phong kiến về trong việc quy hoạch và đào tạo nhân tài.” “Quy hoạch nhân tài” là ǵ thưa ông tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện? Từ xưa đến nay người ta nói, “đào tạo và sử dụng nhân tài” chứ không ai nói “quy hoạch nhân tài” như quy hoạch một thành phố, một đô thị. Tiếng Việt điên khùng và bát nháo thấm cả vào hàng tiến sĩ, nói mà không biết đúng sai. Nói “quy hoạch nhân tài” cũng như nói “xưởng đẻ” vậy. Đúng là ngôn ngữ của Việt cộng và làm đảo lộn cả ngôn ngữ truyền thống của tổ tiên.

Tôi sẽ c̣n tiếp tục phải viết v́ nếu không viết, không vạch ra được cái kịch cỡm, bát nháo, ngu dốt của ngôn ngữ Việt ở trong nước ngày nay và trên trang tin BBC…sẽ đắc tội với con cháu mai sau.

Đào Văn B́nh

hoanglan22 10-03-2020 00:19

Chuyện t́nh thời chiến tranh
 
Lời nói đầu:“Đây là câu chuyện thật của chị tôi, Cô giáo S. Trường Tiểu Học C.G và Thiếu Úy T.B Thủy Quân Lục Chiến. Bài viết này xin đề tặng cho 2 người và cũng để hoài niệm một thời tuổi trẻ Việt Nam trong chiến tranh”


* * *
Vâng, Câu chuyện ấy xảy ra vào thời kỳ chiến tranh đau thương khốc liệt.


Năm 1967, trong một đêm giao tranh giữa du kích quân và lính Nghĩa quân tại C.G, một trái lựu đạn đă bất ngờ rơi trúng vào nhà dân...


Ánh chớp như sấm sét ghê rợn giáng xuống đầu chúng tôi. Một tiếng nổ kinh hoàng! Rồi th́ mái ngói vỡ toang cùng các thứ vật dụng trong nhà đổ sập xuống...


Trong phút giây hoảng loạn, trong tiếng súng đạn kinh hồn vẫn c̣n đang say mùi bắn giết bỗng nổi lên tiếng thét thất thanh của Chú tôi: “Trời ơi! cứu! cứu, cứu con gái tôi! trời ơi! chết! chết con gái tôi rồi....!”


Vâng, đó chính là cái đêm mà định mệnh đă chụp xuống cuộc đời chị tôi 1 màu đen tăm tối!


Chị không chết nhưng nguyên cánh tay trái của chị đă mất đi vĩnh viễn và 1 mảnh lựu đạn nhắm ngay vào lá phổi của chị, nằm nguyên ở đó như 1 kỷ vật nhức nhối mà đến chết vẫn phải c̣n mang theo.


Năm ấy chị tôi tṛn 20 tuổi, xinh đẹp, dịu hiền với mối t́nh đầu đẹp như giấc mơ.


Người yêu của chị là lính (như phần lớn thanh niên thời ấy đều trở thành lính chiến) Anh là lính Hải quân, được tin dữ, Anh xin 48 giờ phép đặc biệt để tức tốc trở về bên chị, tiếp máu cho chị, túc trực ân cần chăm sóc chị trong bệnh viện với tất cả t́nh yêu chân thành, tha thiết. Để rồi, khi hết phép, anh ngậm ngùi ra đi...


Mọi người ứa nước mắt mỗi khi nh́n chị nhưng chị lặng lẽ không khóc. Chị nhắm mắt lại, quay mặt vào tường để không nh́n thấy ai và cũng không muốn ai nh́n thấy ḿnh.


Vết thương lành, rời bệnh viện chị trở về nhà và trở thành 1 người khác. Lúc chưa bị thương chị là 1 cô gái vui tươi, ḥa ḿnh, thân thiện với mọi người. Giờ th́ chị lặng lẽ như chiếc bóng, ít tham gia vào sinh hoạt chung của gia đ́nh và tránh mọi giao tiếp bên ngoài.


Từ nơi xa, người yêu chị liên tục gởi thư về. Lá thư đầu tiên Anh đề cập tới ngày cưới. Chị đọc thư xong ôm mặt khóc vùi. Lá thư thứ 2 chị không mở ra và cũng không khóc, lá thứ 3 lại đến và lá thứ 4, thứ 5... chị vẫn không mở ra, cứ thế, những lá thư xếp chồng lên nhau trên mặt bàn viết. Chị không khóc cũng không hồi âm... Rồi th́, những lá thư thưa dần, thưa dần theo những tháng ngày lặng lẽ, ảm đạm của chị tôi. Mọi người ái ngại nhưng không ai dám nói ra điều ǵ, lỡ sơ suất lại khiến cho chị đau buồn thêm.


Trung tâm chỉnh h́nh Saigon làm tặng cho chị 1 cánh tay giả v́ thế khi ra ngoài chị có thể mang nó vào và có thể tự ḿnh đi xe đạp. Ống tay áo che dấu cánh tay giả nên ít người nhận ra. Chị đạp xe thong thả, 2 bàn tay đặt lên ghi đông xe như 1 cô gái b́nh thường. Từ sau ngày bị nạn, trang phục của chị tôi đặc biệt thay đổi màu. Chị đă bỏ hẳn những bộ cánh tươi thắm của 1 thời thiếu nữ để mặc toàn những chiếc áo đen như thiếu phụ để tang chồng. Màu đen điểm trang cho gương mặt chị vốn đă đẹp càng thêm đẹp năo nùng với một nét thơ man mác, một nét duyên u ẩn đến lạ kỳ. Chị thường đạp xe lui tới những nơi mà người ta cũng mặc áo đen như chị đó là Tu Viện của các soeurs ḍng Mến Thánh Giá Cái Mơn...


Thời gian dần trôi, vết thương trên thân thể đă quen và vết thương ḷng chừng như đă bớt đau. Năm 1969, Chị tôi bắt đầu vào nghề giáo. Ty giáo dục ưu ái cấp sự vụ lịnh cho chị về dạy trong 1 trường tiểu học ở quê nhà.


Thế là từ ấy, ngôi trường dần dần tạo nên cho chị 1 niềm vui sống... nhưng màu đen th́ vẫn c̣n đó, vẫn là tà áo đen ngaỳ hai buổi đến trường.


Yêu nghề, yêu trẻ, đặc biệt là yêu các em học tṛ côi cút, khó nghèo, chị đă dùng 1 phần lương cô giáo để bù đắp cho những mảnh đời trẻ thơ bất hạnh qua những bộ quần áo mới, bút mực sách vỡ và cả tiền bánh sáng mỗi ngày.... Học tṛ rất yêu cô và đồng nghiệp ai cũng mến thương “cô giáo áo đen”! Ông Hiệu Trưởng, một thầy giáo già, có lần trong buổi họp nhà trường đă cao hứng đọc lên mấy câu thơ:


“Cô giáo trường tôi với cánh tay c̣n lại.

Vẫn lật hàng ngàn trang sách vở.

Vẫn phê hàng vạn điểm học tṛ.

Như đóa hoa trong thời chinh chiến.

Nở buổi ban mai bom đạn tơi bời.

Cô giáo trường tôi với cánh tay c̣n lại.

Vẫn góp bàn tay tô điểm cuộc đời...”.


Một tràng pháo tay nồng nhiệt nổi lên như niềm vui trong trẻo vang vọng cả sân trường. Lần đầu tiên mọi người nh́n thấy cô giáo áo đen nở một nụ cười hạnh phúc.


Những năm ấy, t́nh h́nh chiến sự càng lúc càng sôi động. Hỏa châu thắp sáng những đêm tối đầy bất trắc. Đạn pháo kích nổ vang trong thành thị và tiếng oanh tạc cơ gầm rú thả bom đáp trả. Những cuộc hành quân truy kích và những cánh quân về ngang thôn xóm nghỉ ngơi dăm ba ngày để rồi tiếp tục lên đường đi chinh chiến.


Mùa đông năm 1970, Một đoàn lính Thủy Quân lục chiến dừng chân ghé lại quê tôi. Lều bạt dựng tạm trên những cánh đồng vừa mới gặt c̣n thơm mùi rạ mới. Những chiếc vơng dù giăng mắc rải rác bên những rặng dừa xanh rợp bóng và ngay cả bên hàng hiên yên ả của khu dân cư... Đó đây trong thôn xóm, trên con phố chợ, những anh lính trẻ dạo chơi, cười nói bông đùa với các cô thôn nữ... Nhóm khác ngồi trong quán nhỏ nhậu nhẹt tưng bừng với rượu ba xị đế và mấy con khô nướng thơm lừng như món quà tự thưởng sau những ngày hành quân gian khổ, sống chết khôn lường... Lặng lẽ hơn, có anh lính ngồi trong quán cà phê, trầm tư trong khói thuốc, nghe nhạc hoặc viết thư cho gia đ́nh hay cho người yêu bé nhỏ.


Ngay chiều hôm dừng quân, đang khi thơ thẩn dạo chơi trong làng, nhằm giờ tan học, Thiếu úy TB bắt gặp 1 tà áo đen giữa một đàn học sinh từ cổng trường túa ra như đàn bướm trắng chấp chới bay. Anh bàng hoàng nh́n thấy khuôn mặt cô giáo trẻ xinh đẹp như một bông hoa tím u ẩn nỗi niềm riêng. Cô đi giữa đàn em thơ tíu tít, có em nắm lấy tay cô, có em ngước mặt lên kể lể điều ǵ đó khiến cô mỉm cười xoa đầu... Một sức hút lạ thường bắt anh phải theo gót chân cô... Nhà cô giáo cách xa trường độ 400m, dọc theo lối nhỏ một bên là ḍng sông, một bên là khu vườn dừa xanh ngát. Chiều xuống êm đềm. Gió sông mát cả tâm hồn. Tà áo đen tung bay, tung bay cùng với làn tóc chấm ngang vai đang đùa vui theo gió cuốn. Vô t́nh không biết có một người lính đi theo ḿnh, cô giáo vẫn hồn nhiên bước đi về tới tận nhà. Khi xoay người lại để đóng cửa rào, cô chợt bắt gặp bên kia đường một người lính Thủy Quân lục chiến tần ngần đứng đó như đang lạc bước... Nhưng việc ấy không để lại 1 điều ǵ khác trong tâm trí cô bởi lẽ thỉnh thoảng vẫn có 1 đoàn quân ghé ngang qua làng và các anh lính vẫn thường đi loanh quanh đây đó.


Ngày hôm sau là Chúa Nhật. Buổi sáng cô gái đi nhà thờ dự lễ mi sa. Khi tan lễ cô trở về nhà, vẫn trên con đường ven sông vắng vẻ, yên b́nh. Mặt trời buổi sáng ửng hồng trên rặng dừa phía đông. Cô gái vừa đi vừa bâng quơ nh́n chiếc bóng của ḿnh đổ dài lên phía trước, bất chợt cô nhận ra có một cái bóng thứ hai của ai đó. Tự dưng cô quay lại nh́n th́ thấy một quân nhân dáng h́nh cao lớn đang bước theo sau. Cô bỗng nhớ lại h́nh như đó là anh lính chiều hôm qua mà cô đă nh́n thấy trước cửa nhà. Cô không nh́n rơ gương mặt anh, chỉ thoáng thấy đôi mắt sáng nổi bật trên khuôn mặt dày dạn nét phong sương và một mái tóc bỗng mà những cuộc hành quân dài ngày nên chưa kịp hớt ngắn. Tâm trí cô giáo trẻ chợt dấy lên một cảm giác lúng túng pha lẫn chút linh cảm mơ hồ, bất an... Cô vội vă bước đi, không dám nh́n ra sau nữa. Trên mặt đường không c̣n thấy chiếc bóng người quân nhân tiến lên, có lẽ anh ta đi chậm lại hoặc đă quay đi hướng khác.


Ngày hôm sau Thứ Hai, Cô giáo lại đến trường mà không biết rằng anh lính ấy ngồi trong quán nước trước cổng trường chờ cho đến giờ tan học để theo gót chân cô đi về trên lối nhỏ...


Thiếu úy T.B, một anh chàng Thủy Quân Lục Chiến kiêu bạt đă từng đặt chân lên 4 vùng chiến thuật, một chàng trai gan lỳ biết bao lần xông pha trong lửa đạn, ngạo nghễ giữa tử sinh, một nam nhân hào hoa bao phen từng trải chốn t́nh trường... Thế mà giờ đây bên cạnh một ḍng sông hiền ḥa trôi chảy anh bỗng đắm đuối, lụy t́nh một cô giáo miền quê!


Anh ngồi đó uống từng ngụm cà phê đắng, trầm tư trong làn khói thuốc để rồi nguồn cảm hứng tuôn trào lên giấy trắng. Anh viết miên man như ch́m sâu vào một cỏi mộng du... Chỉ đến khi tiếng trống trường vang lên báo giờ tan học, anh vội vă đút cuốn sổ tay vào túi áo trận bạc màu, vuốt lại mái tóc bồng bềnh và đứng lên xao xuyến đợi chờ...


Ngày một, ngày hai trôi qua... dân chúng trong khu phố nhỏ kháo nhau chuyện ông sĩ quan Thủy quân lục Chiến trồng cây si cô giáo, và, chính chị tôi cũng đă hiểu ra điều đó khi nhận ra buổi tan trường nào cũng có người ấy lặng lẽ nối gót theo sau, không suồng să, không bâng quơ lấy 1 lời...


Đến ngày thứ bảy, (đúng một tuần lễ ngày đoàn quân dừng chân nơi xóm nhỏ). Khi Cô giáo đang ở trong lớp học trông chừng học sinh cắm cuối làm bài th́ người lính đột ngột xuất hiện. Anh gơ nhẹ vào cửa lớp rồi đứng nghiêm chào cô giáo theo kiểu nhà binh. Ngỡ ngàng không kịp phản ứng, cô giáo ngồi sững sờ bất động. Người lính tự động bước vào, tiến đến bên cô, đặt lên bàn viết một tờ giấy học tṛ sạch sẽ, phẳng phiu trong đó là một bài thơ với tựa đề: NÓI VỚI TÀ ÁO MÀU ĐEN, được viết bằng nét chữ rơ, đẹp, mạnh mẽ và đầy cảm xúc. Anh lính nh́n cô giáo mỉm cười rồi khẽ nghiêng đầu quay bước.


Nói với tà áo màu đen


Ai dám bảo màu đen màu tang chế

Màu u buồn và màu của thê lương

Màu tăm tối như đêm dài tận thế

Như tương lai bị nghẽn lối ngăn đường

Riêng ta thấy chỉ 1 ḿnh ta thấy

Màu đen cười, cười bằng mắt bằng môi

Màu đen reo trong gió lùa tóc rối

Màu u buồn màu áo của em tôi

Màu kín đáo như lời yêu chưa ngỏ

Màu bâng khuâng màu ấp ủ t́nh dài

Màu dẫn lối cho ta vào thương nhớ

Màu hoang đường như câu chuyện tương lai

Màu đen ơi ôi màu đen huyền hoặc

Hồn ta say theo tà áo em bay

T́nh vỗ cánh ta nghe chừng chóng mặt

Không rượu nồng không ma túy mà say...



(Thiếu úy T.B )


Sau này chị tôi kể lại không biết tại sao khi đọc xong bài thơ ấy chị bỗng dưng khó thở, nước mắt trào ra... Chị đă cố ngăn mà không ngăn được... Cuối cùng chị cảm thấy ră rời và gục đầu trên bàn viết. Đám học tṛ nhớn nháo lo sợ, Em trưởng lớp chạy đi báo động với cô giáo lớp kế bên... Buổi dạy gián đoạn... Thầy Hiệu Trưởng cho người đưa chị tôi về bằng xe Honda.


Thiếu úy TB chỉ kịp nh́n thấy một chiếc xe chạy ra khỏi cổng trường, phía sau yên xe cô giáo áo đen úp mặt vào vai cô giáo bạn... Anh băn khoăn, lo sợ và khắc khoải mong cho đến sáng hôm sau là Chúa Nhật để đón gặp cô giáo ở trước cổng nhà thờ. Nhưng ḷng chị tôi đang xao xuyến, bất an, Chị muốn trốn tránh người ấy, chị không đi lễ nhà thờ và chị định bụng sẽ xin nghỉ dạy một tuần để lánh mặt sang nhà Ngoại làng bên.


Thế nhưng vào lúc nửa đêm thứ bảy rạng sáng Chúa Nhật, đoàn quân được mật lênh điều đi nơi khác. Các lều bạt, quân trang, quân dụng được sắp xếp gọn gàng và nhanh chóng... Tiếng xe nhà binh nổ máy, từng chiếc, từng chiếc rầm rộ lên đường trong đêm vắng. Những chàng trai Thủy Quân Lục Chiến chen nhau đứng dựa vào thành xe, mắt nh́n về phía trước, mỗi người một ư nghỉ miên man...


Thời chiến tranh, biết nói ǵ hơn! Đường trường xa, những chuyến xe tiếp tục đưa những người lính đến những chiến trường đẩm máu. Biết có lần nào trở về chốn cũ? Dẩu sao cũng nói lời từ biệt và cám ơn một tuần lễ dưỡng quân nơi xóm nhỏ êm đềm...


Thiếu úy TB chợt nhớ đến một câu văn trong tập truyện của Duyên Anh: Giă biệt em và ngôi trường, Anh ra đi với nỗi buồn thơm ngát”.


H́nh ảnh cô giáo với chiếc áo dài đen sẽ c̣n ở trong trái tim người lính cho đến khi nào?


Rồi sẽ có một tà áo xanh hay áo trắng ở trạm dừng quân nào đó tiếp tục đem đến cho anh một niềm hạnh phúc mới? Dẫu thoáng qua nhưng phút đam mê lăng mạn ấy chính ḍng suối mơ tưới mát tâm hồn khô cháy của người lính trên những nẽo đường tàn khốc của chiến tranh mà nơi ấy giữa bom đạn vô t́nh, kẻ chinh nhân không thể hẹn ngày về....


50 năm đă trôi qua kể từ ngày ấy.


Chị tôi không c̣n trẻ nữa.


Giờ đây chị đă là một cô giáo già hưu trí, vẫn sống độc thân bên cạnh ḍng sông cũ.


Đă hơn 70 tuổi rồi, đă ít nhiều hiểu được những uẩn khúc, éo le của cuộc đời...


Thỉnh thoảng nhắc lại chuyện xưa, chị mượn lời cổ nhân đă dạy: “Bất cứ ai có t́nh cảm, có ḷng thương mến đối với ḿnh th́ đừng hỏi tại sao. Hăy mở ḷng ra đón nhận. Những người bạn đến hay đi qua đời ta đều để lại dấu ấn. Hăy học cách cám ơn họ, v́ nhờ họ mà ta nếm hưởng được đủ hương vị của cuộc đời!”


Vâng, 50 năm đă trôi qua kể từ ngày ấy.


Thiếu úy TB kiêu dũng ngày nào giờ cũng đă trên dưới 80 …


Nếu anh c̣n sống sót sau cuộc chiến chinh, ước mong ở một nơi nào đó anh sống vui, sống đẹp với tuổi già thơ nhàn.


Nếu đọc được ḍng chữ này anh khắc hiểu bài viết hôm nay chính là một hoài niệm để TẠ L̉NG XƯA CŨ!


Trước khi dừng bút, xin được nói thật ḷng:


Thiếu úy TB, Anh làm thơ rất hay! Bài thơ tỏ t́nh của anh thật mănh liệt, đáng yêu! nó nằm trong số những bài thơ t́nh tuyệt vời của thế kỷ 20 đấy! V́ thế mà chị tôi vẫn c̣n giữ măi bài thơ ấy của anh cho đến tận hôm nay...!


Nguyễn thị Tự Tập

hoanglan22 10-05-2020 04:12

Chợ trời
 
2 Attachment(s)


Nói đến “chợ trời” chắc ai cũng biết. Ở đó, người ta bán đủ thứ, không cần xếp “ngành nghề” ǵ cả, hàm-bà-lằng! “Thượng vàng hạ cám” ǵ đều ngang nhau hết. Rất b́nh đẳng, không “phân biệt giai cấp”, không “kỳ thị chủng tộc”. “Anh” ti-vi loại “xịn”, loại tổ bố, loại “made in Japan”, vẫn đứng cạnh “anh” quạt máy nhỏ xíu cỡ bằng bàn tay loại “không made in ǵ cả”. Những món hàng ăn cắp vẫn ngang nhiên... kề vai với những món hàng thuộc diện “bảo đảm có phắc-tuya đàng hoàng”. Và cùng đứng rất tự nhiên, không kênh kiệu tự tôn, không tự ti mặc cảm. Thậm chí đến đồ thiệt đồ giả cũng... đứng chung với nhau, lẫn lộn một cách rất hài ḥa thân thiết! Cái thế giới “chợ trời” đúng là cái thế giới lư tưởng bởi v́ đă san bằng được giai cấp và mọi dị biệt đều được ḥa đồng...
Vậy mà sau “ngày cách mạng thành công”, chánh quyền cách mạng đă “cách mạng” chợ trời ráo riết. Nay càn quét chỗ này, mai càn quét chỗ kia. Chợ trời rách nát te tua, rồi mất dạng. Rồi hiện trở lại, rồi lại mất dạng... vv nhiều lần. Giống như tṛ cút bắt.
Chính trong thời gian kể trên, một hôm đi ngang Lăng Ông Bà Chiểu, tôi “được” một anh thanh niên kè theo hỏi nhỏ mà cặp mắt láo liên:
- Chú mua quần tây không chú?
Thật bất ngờ và cũng thật bất thường làm tôi phải lấy ngay “tư thế cảnh giác”. Do bản năng và nhứt là do thói quen sau này – tôi muốn nói sau cuộc đổi đời vĩ đại – lúc nào cũng phải thủ thế, luôn luôn coi chừng lời ăn tiếng nói, luôn luôn coi chừng hành động của ḿnh, luôn luôn coi chừng những người chung quanh... Bởi v́ không biết lúc nào trắng lúc nào đen, không biết ai là ai nữa. Thấy chẳng c̣n ai tin ai nên tôi cũng chẳng dám tin ai. Vậy là lúc nào cũng có ngay một phản ứng rất... thời đại: nghi ngờ!
Tôi nghi gă thanh niên “có ư ǵ”. Bởi v́ nói bán quần tây mà đi hai tay không, lại c̣n ph́ phà điếu thuốc đầu lọc mà chính bản thân tôi – công nhân viên với ngạch trật “kỹ sư bậc hai trên sáu” – không đủ tiền để mua hút! Tôi vội nh́n quanh: chẳng c̣n ai hết ngoài tôi và gă. Vậy là ở đây không có loại “chợ trời mi-ni” để gă có lư do bắt mối chào hàng. Tôi nghiêm nghị trả lời:
- Không!
Gă vẫn đeo theo:
- Mua giúp con mà chú. Quần tây thứ tốt, loại đa-cờ-rong nhập cảng đàng hoàng.
Tôi làm thinh, tiếp tục bước đi và vẫn tiếp tục... thủ. Bỗng, gă đổi giọng than thở:
- Chú không biết chớ bây giờ chợ trời bị dẹp hết, c̣n chỗ đâu mà buôn bán. Dân chợ trời ră ra đi bán chui lẻ tẻ vẫn bị “cum” như thường. Khổ lắm chú ơi! Bữa nay con lang bang xóm này cầu may mà sáng giờ chưa bán được cái quần nào hết. Chú mua giúp đi chú!
Tôi không cần quần nên không cần mua. Nhưng vẫn thắc mắc:
- Anh nói bán quần mà đi tay không, có thấy hàng họ ǵ đâu?
Anh ta nhăn mặt:
- Trời ơi! Cầm trong tay cho tụi nó thấy đặng mang họa à!
Rồi hắn dừng bước, để điếu thuốc lên khóe môi, một tay ôm vạt sơ-mi lên, một tay chỉ vào quần hắn đang mặc:
- Nè! Quần đây nè! Thiệt mà! Chú coi đi!
Tôi thật ngỡ ngàng, không biết phải nói ǵ làm ǵ. Gă cầm lấy bàn tay tôi đặt lên hông gă:
- Đây! Chú rờ coi! Đa-cờ-rong thứ thiệt mà. C̣n mới tinh hà!
Tôi vẫn chưa hết ngỡ ngàng, tay mân mê một cách máy móc chéo vải quần của hắn. Thấy vậy, giọng hắn trở nên vồn vă:
- Để con cởi ra cho chú coi nghen!
Gă dợm mở nút quần, tôi cản lại:
- Đừng! Đừng! Tôi không mua đâu.
- Hay là chú muốn coi quần màu khác? Cũng đa-cờ-rong.
Không đợi tôi trả lời, hắn phun mẩu thuốc trên môi, lẹ làng kéo phẹt-mơ-tuya xuống. Rồi một tay ôm vạt áo, một tay tuột quần khỏi mông, để lộ bên trong một cái quần khác màu sậm hơn! Hắn xoay người qua xoay người lại để... bày hàng, rồi nói:
- Cái này “xịn” hơn. Đa-cờ-rong Mỹ mà. Chú rờ coi! Bảo đảm chưa mặc lần nào hết!
Tôi bỗng thấy tội nghiệp anh ta vô cùng. Và tôi đoán rằng bên trong c̣n một cái quần thứ ba nữa, bởi v́ tôi vừa nhận ra là anh ta ốm tong ốm teo, dư sức để mặc dễ dàng ba cái quần.
Tôi đặt tay lên vai gầy của hắn, thân mật:
- Chú không mua đâu. Đừng mất th́ giờ. Tốt hơn cháu nên chào hàng người khác đi!
Trong lúc tôi bỏ đi, hắn c̣n nói vói theo:
- Chú chưa coi hết mà! C̣n một cái nữa nè!
Tự nhiên, hai chân tôi bước nhanh hơn, bước dài hơn. Làm như muốn chạy.



Tiểu Tử

tbbt 10-05-2020 04:42

Quote:

Originally Posted by hoanglan22 (Post 4054907)


.................... .................... .................... .......

Tôi sẽ c̣n tiếp tục phải viết v́ nếu không viết, không vạch ra được cái kịch cỡm, bát nháo, ngu dốt của ngôn ngữ Việt ở trong nước ngày nay và trên trang tin BBC…sẽ đắc tội với con cháu mai sau.

Đào Văn B́nh



:hafppy::hafppy::haf ppy:

hoanglan22 10-05-2020 14:23

Buổi chiều cuối cùng
 
1 Attachment(s)


Bây giờ là 6 giờ chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975. Đó là buổi chiều cuối cùng tôi c̣n là lính. Tôi được gọi lên gặp Hằng Minh (danh hiệu truyền tin của Tướng Tư lệnh Sư đoàn).

Trước buổi trưa, chiến tuyến cuối cùng của VNCH là Trảng Bom (Biên Ḥa). Lúc này Long B́nh đă là địa đầu chiến tuyến. Trước ngày 16.4, quân ta c̣n đánh nhau với quân CSBV tại Phan Rang. Thời gian càng dài ra th́ chiến tuyến càng thu ngắn lại. Sau đó là B́nh Thuận, B́nh Tuy, rồi Xuân Lộc. Quân và dân Xuân Lộc đă anh dũng chiến đấu suốt 12 ngày đêm, với quân số tương đương một sư đoàn, đă chống đở thắng lợi 4 sư đoàn quân CSBV, đă tạo nên chiến tích thần kỳ. Nhưng cuối cùng Xuân Lộc cũng bị bỏ ngỏ vào đêm 20 rạng ngày 21.4. Lực lượng trấn thủ được lệnh lui binh về Biên Ḥa lập pḥng tuyến mới để bảo vệ Biên Ḥa và Thủ đô Sài G̣n.

Vào lúc quá trưa, cộng quân bắt đầu pháo kích kho đạn Long B́nh. Những tiếng nổ long trời lở đất, khói đen bốc lên ngùn ngụt, cao tận mây xanh. Từ buổi sáng, pḥng tuyến Trảng Bom đă vỡ. Một Tiểu đoàn của Trung đoàn 43BB bị địch quân đông gấp bội, với chiến xa trợ chiến, đă tràn ngập vị trí. Vị Tiểu đoàn trưởng được ghi nhận mất tích. Mất Trảng Bom, chiến tuyến cuối cùng của VNCH là Long B́nh.

Tôi dời Bộ chỉ huy Tiểu đoàn vào bên trong căn cứ, đặt tạm tại văn pḥng của Ban chỉ huy Đại đội Quân Cảnh Sư đoàn.

Khi Tiểu đoàn xuống núi (Núi Thị) để hành quân triệt thoái khỏi Xuân Lộc, quân số khá đầy đủ, với hơn 500 tay súng. Nhưng v́ là đơn vị sau cùng triệt thoái khỏi mặt trận, một ḿnh đơn độc, không có không quân và pháo binh yểm trợ, đạn dược thiếu hụt, lại bị Sư đoàn 341/CSBV truy đuổi liên tục trong khu rừng rậm, từ lâu vốn là căn cứ địa của VC, nên đă bị hao hụt rất nhiều. V́ lẽ đó, lần đầu tiên đơn vị được giao một nhiệm vụ khá nhẹ nhàng là bảo vệ Bộ Tư lệnh Sư đoàn, trong lúc các tiểu đoàn bạn phải lên tuyến đầu chống chọi với cộng quân tại chiến tuyến Trảng Bom.

Lối 9 giờ sáng, Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Vùng 3 Chiến thuật bay trực thăng đến BTL/SĐ để gặp Tư lệnh các đại đơn vị: SĐ5, SĐ18, SĐ25, và Lữ đoàn 3 Xung kích. Nhưng hiện diện chỉ có hai tướng là Lê Minh Đảo, TL/SĐ18BB và Trần Quang Khôi, TL/LĐ3XK. Lúc này BTL/QĐ đă di chuyển về Sài G̣n. Sau cuộc họp mặt chớp nhoáng để ban chỉ thị giữ Biên Ḥa, Tướng Toàn vội vả bay đi mà không bao giờ trở lại. Có lẽ đây là những chỉ thị cuối cùng trong tư cách là Tướng Tư lệnh Quân đoàn. Theo “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954 – 1975” của các tác giả Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại tá Lê bá Khiếu, và Tiến sĩ Nguyễn Văn, th́ vào một ngày của tháng 3.1975, Quân đoàn III được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu, nghiên cứu băi đổ bộ tại Phước Tuy cho hai Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ khi hữu sự. Khi Tướng Dương Văn Minh nhậm chức Tổng Thống chiều ngày 28.4.1975, bận lo tổ chức nội các, lo ḥa giải và ḥa hợp với cộng sản, Tướng Toàn t́m mọi cách liên lạc với giới chức có thẩm quyền về việc liệu có việc đổ bộ của hai Sư đoàn TQLC Hoa Kỳ? Nhưng không gặp được ai. Sau khi họp mặt và ban lệnh cho hai Tướng Đảo và Khôi tại Long B́nh là phải giữ Biên Ḥa , Tướng Toàn bay về G̣ Vấp. Sau đó bay ra Soái hạm Blue Ridge của Đệ Thất Hạm đội Mỹ, để yêu cầu xác nhận. Nhưng đó chỉ là “quả lừa.”

Cũng buổi sáng ngày 29.4, lối 8 giờ, trong lúc các đơn vị QLVNCH trên khắp các mặt trận, Sư đoàn 5 tại Lai Khê, Sư đoàn 25 tại Củ Chi, Sư đoàn 18 tại Biên Ḥa, Sư đoàn 22 tại Bến Lức, và tại Vùng 4, quân sĩ của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam với các Sư đoàn 7, 9 và 21, đang anh dũng chiến đấu với quân thù, th́ cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đă bay ra Hạm đội 7 bằng trực thăng riêng Huey của ḿnh. Trước khi bay đi, Tướng Kỳ ghé lại Bộ Tổng Tham Mưu, t́nh cờ gặp Trung tướng Ngô Quang Trưởng, và rủ rê cùng đi. Có nguồn tin cho rằng Tướng Kỳ mời Tướng Trưởng bay về Miền Tây gặp Tướng Nam để bàn chuyện cứu nước. Nhưng trực thăng đă trực chỉ ra biển đông. Được biết quân sĩ tại Vùng 4 đă tiếp tục chiến đấu với quân thù, dù có lệnh buông súng của Dương Văn Minh. Họ chỉ buông súng tan hàng sau khi nghe tin các Tướng chỉ huy của họ là Trần Văn Hai (TL/SĐ7BB), Lê Văn Hưng (TLP/QĐ), và Nguyễn Khoa Nam (TL/QĐ) tuẩn tiết. Buổi chiều ngày 28.4, tại xứ Tân Sa Châu thuộc quân Tân B́nh, Tướng Kỳ nói chuyện với những người Bắc Kỳ Di cư, những người đă một lần năm 1954, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ ruộng vườn, bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, trốn chạy cộng sản vào Nam. Tướng Kỳ hô hào đoàn kết, cùng nhau chiến đấu chống bọn CSBV xâm lược. Khi nghe Tướng Kỳ tâm sự rằng ông sẽ ở lại chiến đấu cùng đồng bào đến giọt máu cuối cùng, ai ai cũng nức ḷng. Ông c̣n khôi hài rằng qua Mỹ sẽ không có “mắm tôm để ăn”. Đồng bào đă hoan hô Tướng Kỳ hết ḿnh. Một hy vọng mong manh đang nhen nhúm! Hay nói như cách nói qua lời của một bài hát: “Có Tin Vui Giữa Mùa Tuyệt Vọng”.

Sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, bàn giao lại cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng BTTM/QLVNCH cũng đệ đơn lên Tổng Thống Tân nhiệm xin nghỉ việc. Nhưng Tổng Thống Huơng vẫn lưu nhiệm, và ông chỉ kư Sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Viên trước khi bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Tướng Dương Văn Minh. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng BTTM kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận được cử thay thế. Nhưng Tướng Khuyên cũng rời bỏ nhiệm sở buổi trưa ngày 29.4. Các Tướng có chức có quyền bắt đầu rời bỏ nhiệm sở, t́m cách trốn chạy trước khi quân CSBV vào đến Sài G̣n. Lúc đó tại Sài G̣n, vị sĩ quan cao cấp nhất và thâm niên là Trung tướng Vĩnh Lộc, liền được Tổng thống Dương Văn Minh mời giữ chức TTMT đang bỏ trống. Đồng thời cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (sau này được biết Hạnh đă bị VC móc nối) được gọi tái ngũ, giữ chức Phụ tá TTMT cho Tướng Vĩnh Lộc. Vừa nhận chức TTMT, Tướng Vĩnh Lộc triệu tập cuộc họp tại Bộ TTM, yêu cầu “mọi người đừng bỏ đi, hăy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm”. Tướng Vĩnh Lộc điện thoại về Vùng 4, nói chuyện với Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, bàn kế hoạch đưa Chính phủ hoặc những nhân vật đầu năo về Miền Tây. Dưới quyền của Tướng Nam, c̣n nguyên vẹn các Sư đoàn 7, 9, 21, Không Quân, Hải Quân, lực luợng ĐPQ và NQ. Tướng Lộc liên lạc với Tư lệnh Không Quân và Tư lệnh Hải Quân cùng lên đài Truyền h́nh, nhưng không thực hiện được. Trong cố gắng cuối cùng, ông ban Nhật lệnh kêu gọi quân sĩ tiếp tục chiến đấu, miệt thị đám tướng lănh và sĩ quan bỏ ngũ, rời nhiệm sở là “những con chuộc nhắt!” Nhưng lối 6 giờ sáng ngày 30.4, cùng với Trung tướng Trần Văn Trung, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến tranh Chính trị, cũng đă t́m đường di tản, cũng làm “những con chuột nhắt”.

Lúc tôi đến căn pḥng nhỏ nằm sát đàng sau Văn pḥng Tư lệnh, Tướng Đảo đang dùng cơm chiều. Ông ngồi đó, cô đơn, ăn cơm một ḿnh. Một Trung úy Pilot ngồi cạnh đang đọc báo. Các vị Đại tá, gồm Nguyễn Văn Mai, TLP/SĐ, Huỳnh Thao Lược, TMT/SĐ, Hứa Yến Lến, TMP/HQ & TV, Dương Phún Sáng, Chánh Thanh Tra, đều đứng. Không ai nói ǵ, chỉ im lặng. Không khí trầm lắng. Có lẽ các vị vừa họp bàn xong. Đâu ngờ đây là cuộc họp cuối cùng của các vị. Trên khuôn mặt, ai ai đều mang nặng nét ưu tư. Một lúc sau, các vị đều rời khỏi pḥng đi đâu đó. Giờ đây chỉ c̣n lại Tướng Đảo, viên Phi công trực thăng và tôi. Ông mời tôi dùng cơm. Tôi từ chối. Ông khui chai rượu Tây mời uống. Khui hộp bánh Lubico mời ăn. Tôi hỏi khẻ vị Trung úy:

- “Chỉ một ḿnh anh thôi sao?”

- “Vâng, ông Tướng có thể làm co-pilot.”

Tướng Tư lệnh hỏi han t́nh h́nh của đơn vị, nhất là tinh thần quân sĩ. Tôi cứ t́nh thật tŕnh bày. Sau cuộc triệt thoái khỏi Xuân Lộc, là đơn vị rút ra cuối cùng, phải đơn độc chiến đấu không có không quân và pháo binh yểm trợ, phải chống chỏi trước một lực lượng địch đông gấp bội, bị thiệt hại nhiều, tinh thần căn thẳng, thể xác ră rời, chưa lấy lại sức. Thật ra những người lính của tôi đă chịu đựng quá nhiều. Là một trong những đơn vị có thành tích chiến đấu dũng mănh trong Sư đoàn, nhiều lần Tiểu đoàn tôi đă nhận lănh những nhiệm vụ khá nặng nề, và luôn luôn đă hoàn thành xuất sắc. V́ lẽ đó, con số thương vong thường cao. Nhưng người lính QLVNCH vẫn “xem Thái sơn nhẹ tựa hồng mao!” Vào những ngày như những ngày hôm nay, những ngày của giờ thứ 25 cuộc chiến, đơn vị nằm sát đuờng Quốc lộ, chứng kiến hàng đoàn người dân di tản, và tin tức lan truyền từ Sài G̣n, rằng đă có nhiều người bỏ nước ra đi, trong đó không ít các tướng lănh và sĩ quan cao cấp. Con đường QL1 từ Kẻ Sặt đến cầu Đồng Nai, đi ngang qua BTL/SĐBB từ mấy ngày qua trở nên chật hẹp. Người nguời gồng gánh, xe ba-gác, xe lam, xe ngựa, xe trâu, xe ḅ, và xe vận tải, chất đầy người và hành lư, vội vàng xuôi về Sài G̣n. H́nh như Sài G̣n là nơi mà mọi người dân tị nạn chiến cuộc có thể nương náu an toàn. T́nh h́nh xáo động. Người lính chiến từ nhiều tháng nay không có tin tức ǵ về gia đ́nh. Nhưng “Việc công là trọng, niềm tây sá nào”. Quân sĩ của tôi, hầu hết vẫn ở lại chiến đấu. Tinh thần không nao núng! Dù là chiến đấu một cách vô vọng! Họ ở lại, bởi v́ các cấp chỉ huy trực tiếp của họ vẫn c̣n ở lại. Yếu tố quan trọng nhất, vị anh cả của họ, Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo vẫn c̣n ở lại. Buổi chiều trong cuộc họp tại Bộ Tư lệnh, tôi là sĩ quan tác chiến, không phải tham mưu nên không tham dự, chỉ nghe kể lại, rằng ông Tướng đă khẳng định cùng thuộc cấp, rằng ông sẽ không đi đâu cả, rằng ông sẽ ở lại chiến đấu sát cánh cùng anh em. Vợ con ông cũng ở lại, gia đ́nh ông không ai bỏ đi.

Ông khuyên tôi cố gắng giữ Long B́nh. Nếu giữ được Long B́nh th́ Long B́nh là của ḿnh! Ông nói: “Một Phái đoàn của Chính phủ do Giáo sư Bùi Tường Huân, Bộ trưởng Quốc Pḥng của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đă đi gặp đối phương tại một nơi nào đó trên xa lộ Đại Hàn, để bàn chuyện ngưng bắn “da beo”. Sau này được biết, Phái đoàn của Bùi Tường Huân đă bị cộng quân giữ lại, bị bắt làm con tin. Dương Văn Minh bị lừa. Nhà Sư Thích Trí Quang đă bị lừa. Để rồi cả Miền Nam bị lừa.

Ăn cơm xong, ông Tướng đến ngồi bên chiếc bàn nhỏ, có điện thoại bàn. Ông gọi vào Dinh Độc Lập xin gặp Đại tá Đẩu, Tùy viên của Tổng Thống. Nhưng người trả lời trong máy tự xưng là Trung tá, h́nh như tên Thọ, Phó Tùy viên. Trung tá Thọ cho biết, hiện Tổng Thống đang chủ tọa cuộc họp Nội Các. Tướng Đảo tŕnh bày tổng quát t́nh h́nh, và xin lệnh Tổng Thống được đưa Sư đoàn 18BB về thiết lập tuyến pḥng ngự bên bờ Nam sông Đồng Nai để ngăn chận địch từ hướng Đông. Phía Bắc và Tây Bắc có Sư đoàn 5 của Tướng Lê Nguyên Vỹ, và Sư đoàn 25 của Tướng Lư Ṭng Bá, phía Nam có Sư đoàn 22 của Tướng Phan Đ́nh Niệm. Với lực lượng pḥng thủ như vậy, chúng ta có thể giữ được Sài G̣n. Cuộc điện đàm kết thúc với lời hứa của Trung tá Thọ, rằng sẽ tŕnh lại với Tổng Thống và sẽ liên lạc với Tuớng Đảo cho biết quyết định. Được biết sau khi nhậm chức Tổng Thống, Dương Văn Minh đă bổ nhiệm Trung tướng Vĩnh Lộc làm Tổng Tham Mưu Trưởng, và cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (đă giải ngũ), làm Phụ tá TTMT. Nhưng Tướng Vĩnh Lộc vừa mới nhậm chức chưa hiểu rơ t́nh h́nh. Tướng Tư lệnh Quân đoàn th́ đă bỏ nhiệm sở. Do đó Tướng Đảo phải làm việc trực tiếp với Dinh Độc Lập, v́ Tổng Thống là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của QLVNCH.

Được biết, vào những ngày cuối cùng, Đại tướng Vanuxem của Pháp có mặt ở Sài G̣n, thường vào ra Dinh Độc lập. Chính vị tướng này đă khuyên Tổng Thống Dương Văn Minh cố gắng để cho quân đội cầm cự thêm 48 tiếng đồng hồ th́ sẽ có giải pháp chính trị có lợi cho VNCH. Theo Tướng Vanuxem, nếu có lời yêu cầu, quân Trung cộng sẽ tràn vào Bắc Việt, áp lực CSBV ngừng tấn công. Một giải pháp chính trị có lợi cho VNCH sẽ được thi hành. Nhưng Tổng Thống Dương Văn Minh đă từ chối. Ông chỉ tin Thầy Thích Trí Quang, là người môi giới để ông tiếp xúc và đàm phán với “người anh em phía bên kia”. Nhưng khi Phái đoàn đàm phán do Giáo sư Bùi Tường Huân (Bộ trưởng Quốc pḥng) cầm đầu, ra xa lộ Đại Hàn gặp VC, th́ bị VC giữ lại làm con tin. Sau nhiều lần thúc dục Thầy Trí Quang không kết quả, Dương Văn Minh tuyệt vọng, đă than: “Thầy hại con rồi!”

Trở lại bàn ăn, Tướng Đảo cho biết, lối 12 giờ khuya nay, BTL/SĐ sẽ dời về Thủ Đức. Trung đoàn 43BB và Trung đoàn 52 vẫn ở lại Long B́nh. Một lần nữa ông khuyên tôi cố gắng giữ cho được Long B́nh. Tôi chỉ dám hứa là làm hết sức ḿnh.

Gặp Tướng Tư lệnh xong, tôi lại được lệnh đi gặp Đại tá Trung đoàn trưởng Lê Xuân Hiếu. Đó là cuộc họp mặt cuối cùng, trong buổi chiều cuối cùng của tôi với các đơn vị trưởng bạn. Chỉ có hai Tiểu đoàn trưởng là tôi, 2/43, và Thiếu tá Nguyễn Văn Dư, 3/43. Tiểu đoàn trưởng 1/43 được ghi nhận là mất tích, trong một trận giao tranh ác liệt tại Trảng Bom sáng nay. Được biết Thiếu tá Dư bị bọn “cách mạng 30” dùng búa đánh chết tại nhà ở Vũng Tàu, sau ngày tan hàng 30.4. Sau khi nghe tôi tŕnh bày chỉ thị tôi vừa nhận trực tiếp từ Tướng Tư lệnh, Đại tá Hiếu đưa ra hai kế họach:

1. Kế hoạch Alpha: Tiểu đoàn 2/43 thi hành theo chỉ thị nhận trực tiếp từ Tướng TL Lê Minh Đảo.

2. Kế hoạch Bravo: Tiểu đoàn 2/43 sẽ di chuyển qua bên kia sông Đồng Nai, lập tuyến pḥng ngự từ cầu Đồng nai đến cầu Ghềnh, dọc theo bờ Nam con sông.

Đúng 12 giờ đêm, trực thăng Tư lệnh cất cánh. Tiếp theo sau đó là BTL với các pḥng ban, cùng các đơn vị kỹ thuật và tiếp vận thuộc BTL bắt đầu di chuyển. Được biết, Tướng Đảo đă hoàn trả chiếc trực thăng về cho Sư đoàn 3/KQ. Ông đă di chuyển bộ cùng binh sĩ qua ngă cầu Ghềnh. Đây là lần thứ hai Tướng Tư lệnh đi bộ cùng binh sĩ khi triệt thoái. Lần thứ nhất là đêm 20 rạng ngày 21.4, Tướng Đảo đi bộ cùng binh sĩ trong cuộc triệt thoái khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa. Đây là cuộc triệt thoái thành công nhất. Sự hiện diện của vị Tướng Tư lệnh, cùng di chuyển bộ với binh sĩ là yếu tố thiết yếu cho sự thành công. Một lần nữa, Tướng Đảo lại di chuyển bộ trên đường triệt thoái.

Lúc gần sáng, tôi nhận lệnh thi hành “Kế hoạch Bravo”. Đơn vị rời Long B́nh, di chuyển qua hướng cầu Đồng Nai. Vài chiếc xe tăng địch xuất hiện. Chúng nổ súng một lúc, rồi lại trở lui. Đoàn quân tiếp tục di chuyển. Toán tiền phương đă đến cầu. Nhưng đơn vị bảo vệ cầu chận lại, không cho đi qua. Tôi phải cho lệnh đổi hướng qua ngă cầu Ghềnh. Khi toán quân cuối cùng qua khỏi cầu th́ trời đă hừng sáng. Tôi gặp BCH Trung đoàn đang dừng chân trên đoạn đường dốc gần cầu. Theo kế hoạch đă định, Tiểu đoàn bắt đầu rải quân, thiết lập chiến tuyến. Tôi đặt BCH/Tiểu đoàn trong một khu vườn có ṿng rào bao quanh. Đơn vị cuối cùng là Đại đội 2/2 của Đại úy Vơ Văn Mười cũng bắt đầu rải quân. Nhưng nh́n về hướng cầu Đồng Nai, cách xa vài trăm mét, không tin vào mắt ḿnh, xe tăng và xe chở quân CSBV đang di chuyển trên xa lộ. Chúng đă vượt qua cầu. Cây cầu vẫn c̣n đứng nguyên! Tại sao cây cầu không bị giật sập? Đơn vị bảo vệ cầu đă biến đi đâu? Tối hôm qua Tướng Đảo cho biết tất cả các cây cầu bắt qua sông Đồng Nai, gồm cầu Đồng Nai, cầu Ghềnh và cầu Mới đều đă được công binh đặt ḿn. Cầu sẽ bị đánh sập, nếu cộng quân tiến qua cầu. Nhưng sự việc đă không xảy ra. Sau này được biết chính tên phản tướng Nguyễn Hữu Hạnh, với tư cách Quyền TTMT đă cấm không cho giựt sập cầu, để cho bộ đội CSBV thuận lợi tiến chiếm Sài G̣n. Đây là thành tích “dâng Bác và Đảng” mà tên Hạnh đă khoe trong một bài phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ cách đây vài năm, nhân dịp kỷ niệm “Đại thắng Mùa Xuân” của CSBV.

Một đoàn chiến xa quân CSBV, gồm T-54, PT-76, xen lẫn những chiếc Molotova chở đầy bộ đội đang di chuyển trên xa lộ hướng về Sài G̣n. Được biết đó là quân của Tướng Nguyễn Hữu An, Chỉ huy Quân đoàn 2/CSBV được lệnh đưa bộ đội của hắn, “hợp đồng” cùng 4 cánh quân khác, tiến nhanh về Sài G̣n. Theo kế hoạch ban đầu của “Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh”, quân của Tướng Hoàng Cầm, Chỉ huy Quân đoàn 4/CSBV sẽ tiến về Sài G̣n. Nhưng 12 ngày chạm trán Sư đoàn 18BB, Tiểu đoàn 82/BĐQ, Lữ đoàn 1 Dù, lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Quân đoàn 4/CSBV bị tử vong hơn 6 ngàn bộ đội, và 37 chiếc xe tăng bị phá hủy. Chỉ huy sở Sư 341 và các đơn vị “tập kết”, chuẩn bị tiến về Biên Ḥa, bị hai trái bom BLU-82 đánh trúng, hơn 10 ngàn bộ đội bị loại ra khỏi ṿng chiến, nên không c̣n khả năng tác chiến. Một sĩ quan bị bắt khi đơn vị bị quân CSBV tràn ngập, trong trận giao tranh ác liệt tại Trảng Bom buổi sáng ngày 29 cho biết:

“Khi bị áp giải đến gặp tên “Thủ trưởng E” (Trung đoàn trưởng), hắn nói: “May mà anh gặp chúng tôi. Nếu anh bị đơn vị kia bắt (ư hắn muốn nói các đơn vị thuộc Sư 341) th́ đă bị giết ngay tại chỗ.”

Thấy c̣n vài chiếc lẹt đẹt chạy sau, tôi cho lệnh nổ súng. Lối 4 chiếc xe tăng dừng lại, quay ṇng súng hướng về chúng tôi nổ súng. Những tràng đại liên 12.8 ly ào ào xối xả, nhưng không lâu. Rồi 4 chiếc xe đó lại quay đầu xe hướng về Sài G̣n, tiếp tục chạy. Chúng cố chạy nhanh cho kịp đoàn quân đang hung hăng hướng về Sài G̣n.

Tôi tự hỏi, nếu đơn vị giữ cầu Đồng Nai để cho Tiểu đoàn tôi qua cầu, nếu đơn vị tôi đă vào vị trí trước khi cộng quân qua cầu, nếu cầu Đồng Nai bị đánh sập th́ chuyện ǵ sẽ xảy ra. Nhưng trang sử đă lật. Những trang sử oai hùng của quân và dân VNCH đang lùi dần vào dĩ văng. Một trang sữ mới đầy đau thương và nước mắt đang ghi lại biết bao nỗi ô nhục của người dân Việt do bọn cầm quyền ngu dốt ngự trị tại “Bắc Bộ Phủ” cam tâm làm tay sai cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc.

Buổi chiều cuối cùng kéo dài đến 11 giờ 30 trưa hôm sau, ngày 30.4. Tiếp theo là bóng đêm. Bóng đêm đă đổ ập xuống trời Nam. Đă bao nhiêu năm qua, hừng đông vẫn chưa ló dạng.

Rút chốt

Tao mệt lắm đốt cho tao điếu thuốc
Máu ra nhiều khát nước quá mày ơi
Chưa, tao chưa đền xong nợ nước
Nhưng phải đành bỏ lỡ cuộc chơi?

Bọn VC có vô mày cứ bỏ tao ở lại
Cơng tao theo, mày không chạy thoát đâu
Hôm qua hay tin vợ tao sanh con gái
Đành làm cha bất nghĩa với đứa con đầu

Áo tao c̣n mấy băng M-16
Mầy lấy đi bắn tụi nó cầm hơi
Nhớ phụ đám nhỏ mở con đường máu
Chừa cho tao trái Lựu Đạn này thôi

Có về ngang nhà, mày nhắn với Ba Má tao
Thằng Hai vẫn khỏe, cuối năm về ăn Tết.
Rút nhanh đi ! VC đă tới sát bên rào...
Tao ở lại chờ tụi nó lên cùng chết.

Bảo Định và BH

hoanglan22 10-05-2020 14:30

Ngước mắt t́m Biển Đông
 
3 Attachment(s)
Ngước mắt t́m Biển Đông
Quê nhà xa vời vợi
Mây chập chùng mênh mông
Ngày về không c̣n đợi.

Tháng Tư rồi tháng Tư
Câu chuyện buồn cổ tích
Vết thương xưa nát nhừ
Sau một thời bi kịch.

Tháng Tư rồi tháng Tư
Tuổi đời đang chồng chất
Sao ta c̣n ưu tư
Về những ǵ đă mất?

Ngước mắt nh́n Biển Đông
Anh em ḿnh mất xác
C̣n lại xương cốt không
Hay ngàn đời tan tác?

Đừng bao giờ hỏi anh
Sao hồn c̣n quay quắt?
Chuyện từ thời Xuân Xanh
Tốn làm chi nước mắt!!!

Trần Thu Miên


Từ 30.4.1975 tới 30.4.2020

Đă 45 năm qua, từ ngày 30.4.1975, “chúng ta”, những người tị nạn cộng sản ở hải ngoại, hay tự nhận là chống cộng, hay “người Quốc gia”, vẫn không quên cái ngày đen tối ấy.

Hàng năm, tới ngày đen tối ấy, được gọi là Tháng Tư Đen, hay Ngày Quốc Hận, chúng ta đều làm lễ tưởng niệm, viết bài, làm thơ, đặt nhạc, vẽ tranh… nói lên niềm uất hận, nỗi đau buồn, hoài niệm một thời thái b́nh an lạc không c̣n nữa, hay để “Tôn Vinh Cuộc Chiến Đấu Thần Thánh của Quân Lực VNCH”, như nhan đề một cuốn sách của Luật sư kiêm B́nh luận gia Phạm Kim Vinh.



Chúng ta gần như hoàn toàn bỏ quên những người “vợ lính”, trong khi chính những người phụ nữ được gọi một cách thiếu kính trọng ấy là những người chịu nhiều hy sinh nhất, nhiều đau khổ nhất, nhiều mất mát nhất trong cuộc phân tranh khốc liệt kéo dài suốt hai thập niên trên mảnh đất miền Nam mà ngày nay cả hai miền Nam Bắc đang biến thành thuộc địa của Trung cộng, đúng như lời tự thú của Lê Duẩn, tổng bí thư đảng CSVN: “Ta đánh đây là đánh cho Liên-Xô, cho Trung Quốc”.

Vậy th́ c̣n tương lai nào cho Việt Nam, 45 năm sau “Ngày Quốc Hận”? Năm nay v́ cơn dịch COVID-19 do Trung cộng gây ra đang làm chao đảo cả thế giới nên không có lễ tưởng niệm, nhưng trên mạng đă có nhiều bài viết về Tháng Tư Đen, trong đó có một bài đặc biệt viết về “vợ lính”. Đúng ra, đây là tự truyện của người vợ cố Thiếu Tá Hồ Đăng Nhựt, qua ng̣i bút của bà Lưu Trùng Dương. Bài viết khá dài, xin trích đăng lại một phần dưới đây:

Chồng tôi là một sĩ quan trưởng toán Delta của đơn vị, tôi yêu anh ngoài cái vóc dáng phong sương, thêm vào h́nh ảnh hiên ngang, oai hùng của nét trai thời đại. Có địa danh nào thiếu dấu chân anh? Từ vùng đất Lào vi vu gió tanh mưa máu, Pleime gió núi mưa rừng, Đồng Xoài, B́nh Giả… máu đổ thịt rơi. Tận đỉnh gió rét mưa phùn của đất Bắc hiểm nghèo chập chùng bất trắc, hiểm họa ŕnh rập theo những bước chân xâm nhập, nỗi chết toa rập cùng sương lam chướng khí chực chờ.

Nha Trang, quê hương có rặng thuỳ dương và bờ cát trắng, đơn vị chồng tôi được đồn trú tại đó vào năm 1964. Căn cứ trưởng là ông đại úy Nguyễn Văn Khách, vị sĩ quan này đă thành lập 5 toán nhảy, mỗi toán không hơn 6 người do một sĩ quan Việt và hai cố vấn Mỹ đảm trách… Cho đến bây giờ, dù trải qua bao dâu bể vẫn không thể xói ṃn tâm trí tôi, tôi vẫn c̣n nhớ cảnh một trận lụt lớn ngập cả thành phố, và cả trại Hoàng Diệu căn cứ của Mỹ cũng như trại Đằng Vân của LLĐB.

EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI?



Đến năm 1965, ở Vũng Tàu có một trận chiến rất lớn đó là trận B́nh Giả. Lúc này các toán trưởng chuẩn bị theo các trực thăng để thi hành công tác xâm nhập, ngăn chận những nơi Cộng quân di chuyển, tôi chỉ biết có thế thôi. Làm sao tôi có thể vui được, có thể an ḷng được trong tâm trạng nỗi ḷng chinh phụ dơi bóng chinh phu. Cứ mỗi lần chàng chuẩn bị đi vào “miền gió cát”, nhảy vào giữa ḷng đất địch là mỗi lần tôi xót xa thầm hỏi: bao giờ chàng trở lại? Ai có từng là vợ của chiến binh mới thông cảm nỗi lo âu, niềm đau đợi chờ, sự cô đơn từng phút của người vợ lính trong thời chiến chinh. Ôi, Đồng Xoài, B́nh Giả… đất bằng sẽ phong ba, khói lửa ngút ngàn và chồng tôi sẽ đi vào chốn ấy. Tôi thắt thỏm, tôi héo hon theo từng bước anh đi, tôi đợi anh về mà ḷng tơi bời vụn nát….sợ anh về trên đôi nạng gỗ, tôi nghẹn ngào nghĩ đến ngày anh trở về “bên ḥm gỗ cài hoa…” chỉ nghĩ thế thôi mà nước mắt tôi lặng lẽ lăn dài. Tôi rời Nha Trang, tạm biệt chàng, tạm biệt những ngọn thùy dương ŕ rào những đêm tựa đầu nhau nghe sóng biển ngoài khơi, mang theo kỷ niệm những năm tháng bên chồng trở về gia đ́nh tôi tại Sàig̣n.

Sài g̣n không có biển, không có thùy dương cát trắng, tôi cảm thấy bồi hồi nôn nao nhớ, bâng khuâng và nuối tiếc những ngày nồng nàn phấn hương đă vội qua…. “Sài g̣n đẹp lắm, Sài g̣n ơi”, Sài g̣n vẫn nhộn nhịp bao tà áo, từ quán cà phê Continental giọng hát trầm ấm, truyền cảm của Sĩ Phú vọng ra “nắng Sài g̣n em đi mà chợt mát, bởi v́ em mặc áo lụa Hà Đông”. Trời ơi, tôi c̣n tâm trí nào để ch́m đắm trong những gịng âm thanh đó, tôi vội bước nhanh để xa rời tiếng hát như muốn rượt đuổi theo. Một sự tương phản đầy ray rứt như diễu cợt, cách vài mươi cây số đường chim bay, súng nổ đạn bay, thây người ngă qụy. Khuôn mặt diễm lệ Sài g̣n, Ḥn Ngọc Viễn Đông, mà đối với tôi, nó như những loại trang sức diêm dúa trên thân xác loang lổ đạn bom, trên h́nh hài c̣m cơi của Mẹ Việt Nam. Tôi làm ǵ có áo lụa Hà Đông để mặc, nỗi ước mơ đó đối với tôi là vô nghiă, tôi chỉ cần có chàng, tha thiết bên chàng mà thôi. Nhất định anh phải trở về và về nguyên vẹn h́nh hài nha anh, nha Hồ Đăng Nhựt dấu yêu của em!

Chồng tôi từ hậu cứ Nha Trang về Vũng Tàu để chuẩn bị hành quân. Buổi chiều, nhận được tin của người anh gọi tôi ra để gặp chàng. Năm đó tôi mang thai đứa con đầu ḷng được ba tháng, đến cổng trại vào lúc 6 giờ chiều, tôi đă gặp Thiếu Tá Thơm, Đại úy Mai Viết Triết và Đại úy Xuân đang đứng trước trại. Tôi hỏi xin cho gặp chàng, các ông ấy nói: "thím đă đến trễ mất rồi, Nhựt mới vừa từ giă chúng tôi bước ra băi phi cơ trực thăng". Từ trong vô thức năo nùng chợt ùa về loáng thoáng bên tai những vần thơ Cung Oán Chinh Phụ: “Bóng chàng đỏ tợ ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”. Cũng một buổi chiều chiến chinh năm xưa, người chinh phụ tiễn đưa chinh phu lên đường ra trận mạc, con tuấn mă trắng phau như màu tuyết hí vang lừng, cất vó uy nghi nổi bật bên giáp trận rực đỏ như màu ráng cuối trời quan tái. Tôi, hôm nay đơn lẻ, nước mắt đoanh tṛng, đứng nh́n theo từng chiếc trực thăng từ từ cất cánh, tiếng động cơ ầm đùng, gió bụi xoáy cả một vùng, tâm tư tôi rối bời như cỏ úa, loạn cuồng theo từng ṿng quay cánh quạt, ḷng quặn thắt từng cơn nh́n đàn chim sắt khuất dần về hướng đông bắc B́nh Giả trong màu tím thẳm của sương khói hoàng hôn mờ nhân ảnh… B́nh Giả, một địa danh đang sôi sục lửa chiến tranh, thần chết đang đợi chờ, chốc nữa đây chàng sẽ hiện diện nơi đó. Trận đánh này có nhiều đơn vị bộ binh, kể cả tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh đă quyết liệt diễn ra, tiếng bom đạn vọng về.

Cộng quân tổn thất nặng nề, nhiều chiến sĩ Quốc Gia cũng đă hy sinh. Những toán hoạt động của chồng tôi đă bị lộ, nên anh đă băng rừng vượt suối mấy ngày đêm liên tục mới ra được núi Thị Văi tại Bà Rịa. Chàng đă nguyên vẹn trở về, cám ơn Thượng Đế che chở cho chàng, chúng tôi bên nhau những ngày phép ngắn ngủi tại Sài g̣n.

Đến năm 1966, các anh toán trưởng cũng lần lượt mỗi người một nơi, riêng chồng tôi vẫn ở lại đơn vị cũ. Lúc bấy giờ Chỉ Huy Trưởng trại Đằng Vân là Phan Duy Tất, ông này về không bao lâu lại thành lập thêm mấy toán nữa. Tôi nhớ những toán trưởng rất trẻ là: Ngô Văn Thơm, Tô Mười, Nguyễn Ngọc Thiệp, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Văn Biên, v.v… các toán trưởng lần lượt thay phiên nhau đi hết cuộc hành quân này đến cuộc hành quân khác. Các địa danh đẫm máu như Phú Bài, Bồng Sơn, Chu Lai, Khe Sanh, Huế..., cường độ chiến tranh leo thang, tiếp theo là Pleime, trận chiến này, các đội và trưởng toán đă hy sinh rất nhiều.. Trong cảnh đạn lửa trùng điệp, nhiều phi công trực thăng của Không Lực VNCH, khi thấy đồng đội bên dưới bị nguy khốn đă bất chấp mạng sống, liều thân trong các phi vụ đổ quân và tiếp tế lương thực. Nhiều chiếc đă bị bắn rơi tan tành, lửa bốc cháy ngút trời. Lúc đó có Trung úy phi công trực thăng Nguyễn Văn Vui, liều một phen sinh tử đem mạch sống cho đồng đội bằng những thùng lương thực. Từ trên cao Trung úy Vui th́nh ĺnh “cúp” máy cho phi cơ rơi xuống như khối sắt và quay 180 độ, gần đến mặt đất cho trực thăng nổ máy lại, thán phục thay người phi công dũng cảm của QLVNCH.

Đầu năm 1967, tôi lại mang thêm đứa thứ hai mới sanh gần một tháng. Vợ của anh Nguyễn Ngọc Thiệp cùng sanh một lượt, cô này là em chồng của tôi. Lúc này chồng tôi đang hành quân tại Vùng 2 Chiến Thuật sắp về. Tôi được tin từ Sài g̣n và ra hậu cứ đón chồng, thường khi mỗi lần xong công tác là anh được đi phép. Trong lúc chờ phi cơ trở về Sàig̣n, anh Nguyễn Ngọc Thiệp bị tử nạn do thùng tiếp tế lương thực từ trực thăng Mỹ rớt xuống, cái chết của anh Thiệp rất thảm thương. Ôi, chinh chiến bất hạnh từng ngày đến với dân tộc Việt Nam, đứa con của anh Thiệp mới chào đời c̣n đỏ hỏn đă vĩnh viễn không thấy mặt cha và vành khăn sô oan nghiệt vội quấn trên đầu người vợ trẻ. Hôm sau chồng tôi đưa xác Thiệp -người em rể – trở về Sàig̣n an táng. Những ngày phép qua mau trong sự buồn bă, mất mát của người thân. Anh trở lại đơn vị, tôi lại theo chàng về Nha Trang sau 3 tháng sanh nở.

Năm Mậu Thân 1968, tôi trở về Sài g̣n và đứa con thứ ba đă chào đời. Việt Cộng đột nhập và tấn công thành phố Sài g̣n, khắp các tỉnh lỵ đều nổ súng. Trong trận Mậu Thân, chồng tôi lại mất thêm một đồng đội, Trung úy Nguyễn Văn Tùng đă tử trận tại Ṭa Tỉnh Trưởng Nha Trang lúc hai bên kịch chiến. Nửa năm sau ông Phạm Duy Tất đă thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật, chồng tôi đă phục vụ trong LLĐB từ năm 1962 đến năm 1968. Lúc này anh được lệnh thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật nhận chức vụ Trung Tâm Hành Quân của C3 tại Biên Ḥa. Sau đó ông Chỉ Huy Trưởng là Trung Tá Phạm Duy Tất đưa anh nhận chức làm Yrưởng trại Chí Linh ở Sông Bé, được một thời gian anh đi qua trại Tống Lê Chân ở B́nh Long và Lộc Ninh. Đến năm 1969 anh coi trại Tống Lê Chân, sau cùng anh về B3 hành quân ở B15 cho đến năm 1972.

Đến cuối 1972 Lực Lượng Đặc Biệt được lệnh giải tán để bổ xung qua các lực lượng bạn như: Biệt Động Quân Biên Pḥng, Nha Kỹ Thuật và các quân binh chủng khác. Anh đă chọn về Sở Liên Lạc thuộc Pḥng 7 Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu và làm việc tại đó cho đến cuối năm 1974.

Đầu năm 1975, anh được lệnh đi nắm Bộ Chỉ Huy nhẹ ở Chiến Đoàn 2 tại Ban Mê Thuột và Kontum. Lúc này t́nh h́nh chiến sự trở nên căng thẳng, hỗn loạn, phương tiện di chuyển vô cùng khan hiếm và khó khăn. Hai ngày ṛng ră chờ đợi tại phi trường Tân Sơn Nhất nhưng vẫn không có phi cơ, anh đành lên phi trường Biên Ḥa và đă được lên đường sau đó. Khi đến tŕnh diện tại Chiến Đoàn 2, mỗi sĩ quan phải thay phiên nhau hành quân 10 ngày. Đến ngày 20 tháng 3 năm 1975, Thiếu Tá Cao Triều Phát đă đem lương lên căn cứ hành quân để phát cho anh em. Ông Thiếu Tá Phát bảo chồng tôi, "'mày' đă xong công tác rồi, có đi theo chuyến bay này về không"? Anh không muốn xa đồng đội trong lúc này, nhất là lúc t́nh h́nh đang rối ren v́ được lệnh sắp rút quân để di tản chiến thuật, hơn nữa các bạn anh đề nghị thôi chúng ḿnh sẽ về chung cho vui. V́ vậy, anh đă nhờ Thiếu Tá Phát mang tiền lương về cho tôi, anh chỉ giữ lại 500 đồng để tiêu xài và nhắn là vài hôm sau anh sẽ về Sài g̣n.

Trên đường rút quân “Triệt Thoái Cao Nguyên”, dọc theo Quốc Lộ, sự di chuyển rất hỗn tạp. Anh được lệnh thượng cấp dẫn quân đi tiên phong để mở đường, bảo vệ và đưa dân chúng về đồng bằng tránh khỏi nạn đao binh và cướp bóc. Sáng ngày 25 tháng 3, anh gởi điện về gặp tôi và báo ngày mai sẽ gặp mẹ con tôi tại Sài g̣n. Chỉ c̣n 24 giờ ngắn ngũi, tôi chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn niềm vui cho cuộc tương phùng. Chiều cùng ngày, trên đường rút quân, anh cùng Thiếu Tá Hải và vài sĩ quan nữa trên xe, một trái đạn B40 từ phiá Cộng quân mai phục bắn trúng ngay người tài xế cháy không c̣n xác, Thiếu Tá Hải văng ra khỏi xe bị cháy đen, riêng chồng tôi bị dập nát mặt nh́n không ra. Trong xe chết 3 người, c̣n lại 3 người đều bị thương không nguy hiểm đến tánh mạng.

Như thường lệ mổi sáng, từ khu cư xá gia binh của trại Nguyễn Cao Vĩ, trên chiếc Honda ra cổng đưa con đi đến trường, tôi đă thấy Trung úy Thọ và Thượng sĩ Sanh, hai người này chận tôi lại, đôi mắt ái ngại và ngập ngừng cho tôi biết hung tin: "Xin chị b́nh tĩnh, tin chính xác báo cho biết Đại úy Hồ Đăng Nhựt đă tử thương trên đường rút quân chiều hôm qua". Tôi như bị sét đánh, tim tôi như ngưng đập, trước mặt tôi cảnh vật bỗng tối sầm và đảo lộn, tai tôi ù lên những tiếng kêu quái dị, mặt đất bỗng nhiên nhấp nhô dậy sóng. Tôi rụng rời, tôi chao đăo, tôi ngă qụy, chiếc xe Honda với đứa con tôi cũng đổ theo. Các anh em mang tôi vào bệnh xá, sau khi hồi phục tôi làm thủ tục đi nhận lănh xác chồng.

Một trong hàng vạn chuyển kể đầy nước mắt của người vợ lính!




"Ngày mai đi nhận xác chồng, ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ". Trời ơi, Hồ Đăng Nhựt ơi! Anh đă bỏ mẹ con em, anh đă bỏ lại bạn bè và đồng đội trong lúc đất nước đang hồi nghiệt ngă. Tôi cùng các anh em đi đến Nghiă Trang Quân Đội tại Biên Ḥa, được một chú lính đưa tôi đi qua dăy hộc tủ chứa đựng tử thi và cuối cùng chúng tôi dừng lại. Dừng lại để chấp nhận một sự bẽ bàng, dừng lại để gói trọn một vụn vỡ đến tê dại toàn thân, nhận một kiếp đời góa phụ. Chiếc hộc tủ gói gọn h́nh hài của Thiếu Tá Hải và thân xác chồng tôi đang nằm bất động. Trời ơi! “Em không nh́n được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong”, thi hài chồng tôi nằm trên chiếc băng ca, khuôn mặt đă bể nát, tôi chỉ nhận diện chàng qua tấm thẻ bài. Tấm thẻ bài này nó đă từng theo chàng qua những đoạn đường máu lửa, nó đă từng ấp ủ nhớ thương về người vợ bé nhỏ và đàn con dại mỗi khi dừng bước quân hành giữa lưng đồi của rừng khuya tịch mịch, cuối rặng sim bạt ngàn. Bây giờ “áo bào đă thay chiếu, anh về đất” yêu đương kia đă cùng anh chấp cánh bay tới một vùng trời miên viễn...

(ngưng trích)

Bản nhạc “Ngày mai đi nhận xác chồng” của Phạm Duy có lẽ là bản nhạc gây xúc động nhiều nhất tại miền Nam Việt Nam trong thời chiến đă được mượn lời từ bài thơ “Tưởng như c̣n người yêu” của Lê Thị Ư mà ít người được biết. Nhà thơ Lê Thị Ư định cư tại Vùng Hoa Thịnh Đốn từ nhiều năm nay, và chưa bao giờ… lập gia đ́nh. Có lần hỏi chị lấy cảm hứng ở đâu để viết những câu thơ diễn tả t́nh cảm chân thành gây xúc động như vậy, và cũng không buồn phiền khi đứa con tinh thần của ḿnh bị thay họ đổi tên, nhà thơ cười buồn, trả lời:

Những người làm thơ thường có một tâm hồn nhạy cảm và thường “thương vay khóc mướn.” Nhưng khi làm bài thơ “Thương Ca 1” tôi đă thật sự khóc, v́ lúc đó, chiến tranh lan tràn trên quê hương và tại Pleiku, nơi tôi cư ngụ, những h́nh ảnh đau thương, tang tóc xảy ra quanh tôi hàng ngày, hàng đêm…Cho nên tôi đă đau nỗi đau của người lính, tôi đă đau nỗi đau của các cụ già, các em thơ. Và tất nhiên tôi đă đau nỗi đau của người vợ mất chồng v́ súng đạn…

Những thành phố mà tôi đă sống, đă đi qua: Saigon, Nha Trang, Đà Lạt... và cả yhủ đô nước Mỹ giàu mạnh, cũng chẳng làm cho tôi quên được Pleiku trong những ngày lửa đạn. Do đó, đề tài trong thơ tôi, thường th́ không thoát ra khỏi h́nh ảnh quê hương và người t́nh lính chiến.

Không biết tự bao giờ, tên bài thơ “Thương Ca” của Lê Thị Ư hay là bản nhạc “Tưởng Như C̣n Người Yêu” sau khi Phạm Duy phổ nhạc, đă biến mất! Có lẽ mấy lời mở đầu bài thơ tuy thật giản dị, nhưng tràn đầy xúc động, nên khán thính giả, không ai bảo ai, không hề có văn bản chính thức, đă cùng cho bài thơ, bản nhạc, một cái tên mới: “Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng”.

Dù tên bài thơ, bản nhạc, là ǵ đi nữa, th́ vẫn chỉ nói lên được một phần trong những đau thương ngút ngàn của người dân Việt, người phụ nữ Việt trong cuộc chiến Quốc Cộng suốt hai mươi năm.

Nhà thơ ngừng lại trong vài giây rồi thở dài nói nhỏ: “Bây giờ nhắc lại th́ cũng chỉ là những câu chuyện của một thời đă qua”.

Vâng, đúng như câu nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mà nhiều người thường nhắc lại: “Nước mất là mất tất cả”. Tất cả đều vô nghĩa.

Kư Thiệt

hoathienly19 10-06-2020 16:13

AM THỜ 626 VONG LINH TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VNCH TẠI TRẠI TÙ KHỔ SAI BA SAO - NAM HÀ
 
THẮP NÉN HƯƠNG L̉NG - AM THỜ 626 VONG LINH TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VNCH TẠI TRẠI TÙ KHỔ SAI BA SAO - NAM HÀ :112:


Bia thờ 626 linh hồn những người tù xấu số đă nằm xuống trong cô đơn và buồn tủi tại trại tù lao động khổ sai Ba Sao





Xin kính cẩn nghiêng ḿnh "thắp nén hương ḷng" trước tấm bia không mộ của 626 người tù chính trị VNCH đă chết trong nhà tù Ba Sao, Nam Hà giai đoạn 1975-1988; và rất nhiều những người tù chính trị VNCH khác đă chết oan khiên trong ngục tù cộng sản.





Lời đầu


Lẽ ra, câu chuyện này phải được chúng ta kể cho nhau nghe một cách trọn vẹn. Tiếc rằng, v́ một số lư do ngoài ư muốn, “người trong cuộc” (1) đă ngừng sự giúp đỡ tôi nên việc thu thập, t́m hiểu thông tin đă bị gián đoạn.


(1) Người trong cuộc:
Những người đă giúp đỡ tôi có được thông tin để viết bài viết này. Tên các nhân vật trong bài đă được thay đổi.

Hơn nữa, xuất phát từ nhu cầu an toàn cá nhân của nhân chứng, nỗi lo về sự can thiệp hầu phá vỡ sự b́nh yên, tôn nghiêm của ngôi Chùa - nơi đặt tấm bia thờ 626 người tù chính trị nên người viết đă phải rất cân nhắc khi chuyển tải thông tin đến bạn đọc.

Nhưng tôi tin, câu chuyện dù không được kể trọn vẹn như mong muốn cũng sẽ khiến chúng ta thấy xót xa cho Thân phận quê hương.

Một Thân phận quê hương được phản chiếu từ Thân phận của những người con Việt bị bức tử bằng cách này hay cách khác trong một giai đoạn khốc liệt, đau thương nhất của lịch sử.






Phần 1: Chuyến tàu vét


Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, một trong những hành động đầu tiên mà chế độ cộng sản thực hiện là trả thù những người từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH).

Hầu hết những cựu quân nhân cán chính, những viên chức từng làm việc trong chính quyền VNCH, hoặc bị nghi ngờ thuộc thành phần này đều bị đưa đi “ cải tạo”, nhưng thực chất là chịu lưu đày tại các nhà tù trên khắp cả nước. Một trong những nơi khét tiếng tàn bạo ở miền Bắc, từng giam cầm hàng ngàn cựu quân nhân cán chính VNCH là nhà tù Ba Sao, Nam Hà.

Con tàu cuối cùng chở tù chính trị từ Nam ra Bắc có cái tên rất thơ mộng:

Sông Hương .

Rời Sài G̣n ngày 18/4/1977,
sau 2 ngày 3 đêm (2), tàu cập bến Hải Pḥng, tiếp tục hành tŕnh lưu đày tù ngục của 1200 con người thuộc “bên thua cuộc”.

(2) Hai ngày ba đêm :
Dựa vào lời kể của nhân chứng và qua hồi kư “Tôi phải sống” của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

“Chúng tôi, cứ hai người bị chung một chiếc c̣ng.

Vừa lên đất liền, hai bên đường đă có người dân Miền Bắc đợi sẵn. Họ ném gạch đá vào chúng tôi.

Vừa ném, vừa chửi rủa, mạ lỵ rất thậm tệ. Nhiều người trong số chúng tôi bị ném trúng, vỡ đầu, chảy máu và thương tích”.







Đấy là lời kể của ông Nam, một trong những người tù bị đẩy ra Bắc trong chuyến tàu Sông Hương. Khi cộng sản cưỡng chiếm Miền Nam, ông Nam đang là thiếu úy quân đội VNCH. Chi tiết này cũng được Linh mục Nguyễn Hữu Lễ thuật lại trong cuốn hồi kư “Tôi phải sống”.

Từ Hải Pḥng, số tù nhân này bị tách ra để chia rải rác cho các trại giam khác. Bài viết này xin chỉ đề cập tới những người tù ở Ba Sao, Nam Hà.


Không riêng ǵ những người tù Ba Sao, hầu như tất cả những người từng phục vụ trong chính quyền VNCH đều bị bắt sau biến cố 30/4/1975. Một số bị đưa ra Bắc ngay thời kỳ đầu. Nhiều người khác bị giam cầm ở miền Nam sau vài năm mới bị chuyển ra Bắc, rồi lại trở ngược vào Nam để tiếp tục cuộc đời lao tù cho đến ngày chết, hoặc trở về khi sức cùng lực cạn.






Nhà tù Ba Sao lại “rộng cửa” đón thêm vài trăm người từ chuyến tàu vét Sông Hương, nơi đang đọa đày hơn 600 tù VNCH đă bị chuyển đến từ những chuyến tàu trước đó.


Tôi có dịp hỏi chuyện linh mục Nguyễn Hữu Lễ (ngài hiện đang sống tại New Zealand) và một nhân chứng khác (sống tại Sài G̣n), th́ nhà tù Ba Sao thời bấy giờ chia làm 4 khu giam giữ.


Khu A :



Giam cầm các thành phần thuộc viên chức chính phủ, dân biểu, nghị sĩ, sĩ quan cao cấp như :

- Thượng nghị sĩ Huỳnh Văn Cao

- Bộ trưởng Đàm Sỹ Hiến

- Bộ trưởng Trần Ngọc Oành

- Tướng Lê Minh Đảo

- Ông Văn Thành Cao

- Tướng Nhu

- Tướng Trần Văn Chơn, ông Nguyễn Văn Lộc…, hay lănh tụ Quốc dân đảng là

- Ông Vũ Hồng Khanh.

Khu B :


Giam những quân nhân cán chính, những người bị buộc tội “phản động” như

- Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

- Linh mục Nguyễn B́nh Tỉnh...

Khu C : Giam tù h́nh sự miền Bắc.


Khu Mễ:


Giam cầm những người bệnh tật, đau yếu. Trong khu Mễ lại có một khu “Kiên giam”.

Khu “Kiên giam” dành cho các tù nhân bị kỷ luật với điều kiện giam giữ vô cùng khắc nghiệt. Đă có rất nhiều tù nhân chết trong khi bị “kiên giam”.






“Chúng tôi bị chuyển từ nhà tù miền Nam tới nhà tù Ba Sao miền Bắc trong chuyến tàu Sông Hương vào tháng 4/1977. Lúc ấy nhóm của tôi có 350 người ra đi từ trại Giaray tỉnh Xuân Lộc.

Ở Ba Sao được 9 tháng, tôi bị chuyển lên trại Quyết Tiến c̣n gọi là “Cổng Trời” thuộc tỉnh Hà Giang, nằm sát ranh giới Trung Quốc.

Một năm sau đó tôi về trại Thanh Cẩm, tỉnh Thanh Hóa.

Mười năm sau, tức tháng 1/1987,
tất cả tù chính trị miền Nam c̣n sót lại rải rác trong các trại miền Bắc được dồn hết về trại Ba Sao, Nam Hà, trong đó có tôi. Nhưng đội của tôi trước khi tôi rời Ba Sao ra đi nay đă chết quá phân nửa.

Tết năm đó có một đợt tha tù, được tổ chức rất ồn ào.

Đến tháng 5/1987, tất cả số tù nhân từ miền Nam c̣n sót lại, được chuyển hết về Nam để ở tù tiếp.

Chỉ c̣n “sót lại” 3 người ở miền Bắc, đó là linh mục Nguyễn B́nh Tỉnh, anh Nguyễn Đức Khuân và tôi. Hầu hết họ đă chết. Chết v́ tuyệt vọng, đói rét, suy kiệt, tiêu chảy, kiết lỵ và nhiều bệnh khác”.

Tác giả Bút kư “Tôi Phải Sống” bùi ngùi kể lại.


Tôi rùng ḿnh tự hỏi, có bao nhiêu tù nhân chính trị đă chết trong suốt thời kỳ từ 1975 trở về sau ?

Bao nhiêu ở nhà tù Ba Sao ? Bao nhiêu ở Cổng Trời, Thanh Hóa, Phú Yên, Xuân Lộc, Xuyên Mộc, Hàm Tân, Bố Lá...?

Bao nhiêu người đă bị bách hại bởi chính người đồng bào ruột thịt mang tên “cộng sản”, và chết lặng câm ở khắp các nhà tù từ Bắc-Trung-Nam trên dải đất đau thương này ?

Không ai biết chính xác, nhưng số người phải bỏ xác ở khắp các nhà tù hẳn không phải là con số ít.

Một ngày nào đó, chế độ cộng sản sẽ phải trả lời những câu hỏi này trước quốc dân đồng bào. Cũng như trả lại sự thật lịch sử cho Dân tộc này.





Phần 2 : Tấm bia thờ 626 người tù chính trị


“Có một tấm bia thờ những người tù đă chết ở trại Ba Sao, Nam Hà. Nghe nói tấm bia được đặt trong một ngôi chùa ở Miền Bắc.

Ngoài tấm bia ra c̣n có một ngôi Am thờ (3) những người tù này được dựng ngay khu đất thuộc trại giam. Người làm tấm bia này là một cựu Giám thị nhà tù Ba Sao. Em cố gắng đi t́m các anh ấy nhé !”.


(3): Am:
Trong tín ngưỡng tôn giáo là nơi thờ Phật, thờ cúng thần linh hoặc vong linh. Am có phạm vi, diện tích nhỏ hơn Miếu.


Một người anh, cũng là cựu tù chính trị hiện sinh sống tại Pháp đă nhắn tôi như thế. Tôi chưa bao giờ trải qua cảm xúc đặc biệt và đầy ám ảnh như lần này. Chuyện thật khó tin :

Một trùm cai tù cộng sản dựng một tấm bia và Am thờ những người tù Việt Nam Cộng Ḥa !


Câu dặn ḍ “em cố gắng đi t́m các anh ấy nhé” làm tôi xót xa. H́nh như tôi sắp làm một công việc rất khó khăn và cũng rất thiêng liêng. Hai chữ “các anh” không c̣n là cách xưng hô nữa mà là tiếng gọi gần gũi, thân thương của những người chung khát vọng.

Chứ theo tuổi tác, họ là bậc cha chú của tôi- đứa nhóc Bắc kỳ sinh sau biến cố 1975.

Măn án tù nhà (4), tôi lên đường.

(4): Măn hạn tù nhà: Với tôi, án quản chế là một h́nh thức tù tại nhà. Tôi hết án quản chế vào tháng 9/2015.


Địa chỉ ngôi Chùa không chính xác nên tôi phải đi t́m hơn hai ngày mới đến nơi. Đó là một ngôi Chùa nhỏ, nằm khiêm tốn bên một con phố khá đông đúc. Sư trụ tŕ đi vắng, tôi lang thang cho hết thời gian rồi trở lại vào buổi chiều.

- Thưa thầy, con được người quen giới thiệu đến đây. Nghe nói nhà Chùa có đặt một tấm bia thờ những người tù đă chết ở trại Ba Sao, Nam Hà ?

Nghe tôi nhắc đến tấm bia, nét mặt thầy tái đi, không giấu được vẻ bối rối.

- Bác Thanh giới thiệu con đến đây.

Nhận ra người quen, sư thầy trở nên cởi mở hẳn.

Sư thầy kể rằng vài năm trước, cô Thu Hương (một Phật tử) đưa viên cựu Giám thị đến gặp sư thầy.

Viên Giám thị trao cho sư thầy một danh sách gồm 626 người tù đă chết trong trại Ba Sao từ năm 1975 đến 1988.

Vị này ngỏ ư muốn làm một tấm bia đặt trong nhà Chùa để thờ cúng các hương linh. Đây không phải ngôi Chùa đầu tiên họ gơ cửa. Những ngôi Chùa trước đều từ chối v́ sợ. Các vị sư trụ tŕ không muốn giữ một danh sách toàn “sĩ quan ngụy” và công khai đặt tấm bia thờ người tù ngay trong Chùa.

- Có cách nào liên lạc với hai người ấy không thưa thầy?

- Khó lắm. Người Giám thị sau khi làm xong tấm bia th́ không trở lại đây nữa. Chỉ có cô Thu Hương thời gian đầu vẫn hay tới Chùa tụng kinh và thắp hương cho 626 vị ấy.

Nhưng kể từ khi đứa con trai 15 tuổi của Thu Hương bị tai nạn giao thông chết hai năm trước, cô ấy không tiếp xúc với ai nữa.

- Thầy có nghe nói đến ngôi Am thờ 626 vị này không?

Tôi hỏi, không giấu nổi vẻ hồi hộp khi chờ câu trả lời.

- Đúng là có cái Am thờ. Nhưng tôi chưa tới thăm bao giờ. Nghe nói nằm trong vùng đất của trại giam th́ phải.

- Vậy ai có thể đưa con tới đó ?

- Chỉ có người Giám thị và cô Thu Hương thôi. Nhưng Thu Hương th́ như tôi vừa nói đấy, cô ấy buồn chán, tuyệt vọng từ ngày mất con nên không c̣n thiết chuyện ǵ. C̣n người Giám thị th́ từ đó không thấy trở lại nữa. Số điện thoại cũng đổi rồi.

Tôi bắt đầu nh́n thấy sự mịt mù phía trước.

Người giữ sổ sách đi vắng. Sư thầy hẹn tôi dịp khác trở lại, sẽ cho tôi xem danh sách 626 người tù. Thầy dẫn tôi xuống nhà linh, nơi đặt tấm bia.

Tôi cảm thấy rợn rợn khi bước chân vào Nhà linh, nơi đặt di ảnh của những người quá cố. Có mấy người đội khăn tang đang ngồi tụng kinh cho người thân mới qua đời.

T́m măi không thấy tấm bia đâu. Tôi bắt đầu lo. Sư thầy quả quyết rằng tấm bia đặt ở pḥng này nhưng lâu ngày không nh́n lại nên ngài không nhớ chính xác vị trí nào.

- Ôi đây rồi ! Sư thầy reo lên.

Tôi sững người lại. Vừa nh́n thấy tấm bia, nước mắt tôi ứa ra.

Tôi không xác định được cảm xúc của ḿnh lúc đó. Vui v́ đă “t́m thấy các anh”, như lời người anh đồng tù nhắn nhủ, hay buồn v́ tôi lại chứng kiến thêm một nỗi đau đớn của quê hương?

Tôi lập cập lục t́m trong túi xách chiếc máy ảnh. Tôi hay bị lúng túng mỗi khi cảm xúc bị “quá độ”.





Sư thầy dặn chỉ chụp tấm bia thôi, đừng để những di ảnh xung quanh lọt vào ống kính.
Cảm giác tủi thân và xót xa khiến tôi không nói nổi tiếng “vâng” một cách rơ ràng.





Trước khi về, tôi gửi một ít tiền để sư thầy giúp việc nhang khói cho “các anh”.

Tôi cầm theo nải chuối, mấy quả cam thầy vừa cho, chậm răi cuốc bộ trên con phố. Tôi không khóc, nhưng cổ họng nghèn nghẹn và bước chân nặng nề.

Một tuần sau tôi trở lại Chùa. Sư thầy đi vắng. Vừa nghe tiếng tôi trong điện thoại, sư thầy nhận ra ngay:

- Chị Nghiên hả ? Tiếc quá ! Thầy đă hỏi người trông coi sổ sách của nhà Chùa rồi. Nhưng chị ấy nói là danh sách đă được hóa đi từ hôm Rằm tháng bảy.

Tôi chết đứng người. Cố gắng lắm tôi mới thốt lên được một câu nghe như không phải giọng của ḿnh.

- Sao lại đốt hả thầy, sao thế được?

- Th́ nhà Chùa nghĩ là không cần dùng đến danh sách ấy nữa nên tiện dịp lễ Vu Lan th́ hóa luôn cùng với áo mũ, vàng mă chị ạ.

- Thầy ơi ! Thầy làm ơn kiểm tra lại giúp con với. Cái danh sách ấy... 626 người tù... thầy ơi, thầy làm ơn!

Tôi cố gắng trấn tĩnh để van lơn.

- Thầy không thể làm ǵ hơn chị Nghiên ạ. Chúng tôi sẽ hương khói đầy đủ cho các vị ấy.

Nói xong, sư thầy cúp máy.

Một cảm giác c̣n tệ hơn sự tuyệt vọng. Tôi ôm mặt ngồi thụp xuống giữa đường. Một đứa bé từ đâu chạy lại, trân trân nh́n tôi. H́nh như bộ dạng tôi làm đứa bé sợ. Nó co chân chạy, không ngoái lại nh́n.

Bấy giờ tôi nhận thấy, có một thứ cảm xúc rất giống với nỗi buồn, rất giống với niềm tuyệt vọng. Nhưng không hoàn toàn như thế. Thứ cảm xúc thật khó gọi tên.

Tôi về nhà, lầm lỳ đến vài hôm.








Không thể dễ dàng bỏ cuộc được, tôi quyết định đi Nam Hà để t́m đến ngôi Am thờ. Người anh đồng tù buồn rầu bảo:

- Không có cô Thu Hương hay vị Giám thị dẫn đường, em không t́m được đâu.

Lần này th́ tôi thật sự tuyệt vọng. Tấm bia, danh sách và Am thờ, tôi chỉ hoàn thành một phần ba công việc.

Tôi nghĩ đến người Giám thị.

Không biết v́ lư do ǵ viên Giám thị lại làm một việc cấm kỵ và mạo hiểm như thế. Hơn ai hết, người này phải ư thức được mức độ nguy hiểm của việc ḿnh làm, nhất là nếu thông tin bị lộ ra ngoài. Chắc chắn phải có một lư do sâu xa và rất đặc biệt để người này làm thế.

V́ lợi nhuận ư ? Không ai dại dột v́ chút giá trị vật chất mà đánh đổi cuộc sống b́nh yên của ḿnh. Vả lại, bản thân nghề cai tù đă là một cơ hội để làm giàu một cách rất an toàn.

Người anh đồng tù và bác Thanh lư giải rằng, niềm tin tâm linh đă thúc đẩy người Giám thị và cô Thu Hương làm như thế. Có thể người Giám thị sợ bị vong hồn của những người tù t́m đến hỏi tội chăng ? Lư giải này không hẳn là vô lư.


Tôi đă từng nghe và được biết những chuyện tương tự như thế khi c̣n trong nhà tù Thanh Hóa. Đă là cai tù, không ít th́ nhiều, không chủ ư th́ cũng bắt buộc phải dính vào tội ác. Song dù với lư do ǵ, th́ hy vọng cũng có phần trăm nào đó của sự ăn năn, của chút lương tâm bị hối thúc.


Tôi vốn không mê tín, không tin chuyện dị đoan nhưng tin rằng luôn có một thế giới tâm linh đang nh́n ngó thế giới con người. Ước ǵ một ngày nào đó, duyên cớ run rủi để chúng ta được biết trọn vẹn câu chuyện về 626 người tù chính trị Ba Sao, Nam Hà.

Chúng ta cần được biết về số phận của những người từng bị cộng sản bách hại để hiểu về một giai đoạn lịch sử đă tạo nên thân phận đau thương của dân tộc này.





Phạm Thanh Nghiên
danlambaovn.blogspot .com

hoanglan22 10-07-2020 13:41

Buồn đến kiếp nào nguôi!
 
2 Attachment(s)


1.Quận Hoài Nhơn, 1969, một năm sau Tết Mậu Thân.

Tôi nhận lệnh dẫn một nửa Đại đội 202 CTCT, từ Ba Gi (Qui Nhơn), đại bản doanh của Sư Đoàn 22BB, ra tăng phái cho Trung đoàn 40 –lúc ấy đóng tại Đệ Đức, trên đường Bồng Sơn và Tam Quan. Nửa đại đội được chia làm hai toán. Mỗi toán gồm trên dưới mười người do một chuẩn úy chỉ huy, hằng ngày, theo lịch tŕnh, đi xuống các xă ấp thuộc quận, hoặc bằng xe dodge cơ hữu, hoặc thỉnh thoảng, v́ lư do an ninh, bằng trực thăng của Sư đoàn I Không Kỵ (1st Cav) Hoa Kỳ, để làm công tác, một cách độc lập, nhưng đôi khi phối hợp với một toán Dân sự vụ Mỹ. Xuống những xă, ấp xa xôi, hai toán chúng tôi phải tự bảo vệ lấy, và v́ thế được trang bị súng ống tương đối đầy đủ, và các toán viên thường là lính tác chiến lâu năm hoặc bị thương đổi về, có nhiều kinh nghiệm chiến trường. Ít khi phải nhờ đến sự trợ giúp của những đơn vị địa phương quân hay nghĩa quân.

Tôi nhớ buổi sáng hôm đó là ngày 25 tháng 12, đúng lễ Giáng Sinh. Chuẩn úy Hoàng, một trưởng toán, bị bệnh. Tôi phải đi thay, dẫn toán của anh đến ấp Vĩnh Phụng, xă Hoài Xuân –nằm dọc, cũng như những xă khác của quận Hoài Nhơn, trên hai bờ sông Lại. Không khí cuối năm vắng ngắt, đơn điệu, đến độ nhàm chán. Tại những vùng quê hẻo lánh Việt Nam thời ấy không có nhà thờ, không tổ chức mừng Giáng Sinh rầm rộ như dân thành thị, Sài G̣n, hay Nha Trang của tôi, chẳng hạn, dù có đạo hay không. Không có tiếng chuông giáo đường ngân nga, rộn ră. Không có, như bây giờ, cây sapin giăng đèn lấp lánh, và ông già Nô-En đứng trước cửa siêu thị, rung chuông leng keng, chúc lễ và phát quà cho trẻ em. Chỉ có một ngôi nhà thờ duy nhất tại thị trấn Bồng Sơn cho toàn quận Hoài Nhơn, và dân Công giáo, từ các xă ấp, phải lên đó để dự lễ mỗi sáng Chúa Nhật.

Chúng tôi đến Vĩnh Phụng làm công tác Dân sự vụ và Tâm lư chiến. Như thường lệ. Nghĩa là bắc loa kêu gọi dân trong ấp đến tập họp trên một khoảng đất trống, rộng, và chung quanh có bóng cây xanh mát, gần trụ sở ấp, rất an toàn. Tại đây, họ được y tá khám bệnh thông thường, phát thuốc tại chỗ, hoặc được xe của toán chở về bệnh xá Bồng Sơn trong trường hợp bệnh nặng, cấp cứu… Hay được nghe một toán viên nói chuyện, nhắc nhở: đề cao chính nghĩa quốc gia, kêu gọi đồng bào đừng bỏ xóm làng, “lên núi thoát ly” theo Việt Cộng, đừng “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản” v.v… Các em nhỏ được phát kẹo bánh, tập vở, bút mực, và sau đó được tập bài quốc ca VNCH hay những bài hát quen thuộc, ví dụ, tôi nhớ, Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời… Việt Nam, nước tôi…hay Đây Bạch Đằng giang, sông hùng dũng của ṇi giống Tiên Rồng…

Làm xong bấy nhiêu công việc th́ đă hết buổi sáng. Tôi cho cả toán nghỉ ngơi, ăn trưa và tự do đi lại trong ấp, nhưng không quá xa, chờ đến giờ trở về Đệ Đức. C̣n tôi và một vài anh lính trải poncho nằm trên cỏ, bên gốc cây, ngước nh́n ánh nắng lấp lánh chiếu qua ṿm lá và nghe tiếng chim hót líu lo trên cành. Một số toán viên, c̣n trẻ, xin đi vào nhà dân, để thăm hỏi các cụ già và, tôi đoán, để nhân dịp, tán gẫu với các cô mơn mởn đào tơ, má hồng môi thắm tự nhiên. Thực vậy, theo cặp mắt cá nhân, chủ quan, của tôi, gái Bồng Sơn và Tam Quan nổi tiếng đẹp nhất vùng B́nh Định, nếu không muốn nói cả Vùng II Chiến Thuật.

2.Tôi đang lim dim mắt, miên man suy nghĩ chuyện đời, và một anh lính đang nghêu ngao một bài vọng cổ, th́ bỗng một tiếng ḿn nổ vang, từ bờ ruộng, không xa chỗ tôi nằm bao nhiêu. Giật ḿnh chồm dậy, chụp vội cây súng, và thấy một làn khói đen tỏa bay trong không gian. Nghe tiếng kêu la của vài em nhỏ hớt hải chạy về phía tôi: “Ông Thiếu úy ơi, có con nhỏ Út bị thương nằm kia ḱa…” Cũng đoán biết được chuyện ǵ đă xảy ra, cả toán tất tả đi theo các em, về phía cánh đồng, súng cầm tay, trong tư thế sẵn sàng nhả đạn. Đến nơi, thấy nằm gục nửa dưới ruộng, nửa trên bờ, một bé gái, tức “con nhỏ Út”, độ tám, chín tuổi, cao và gầy đét như khúc củi, ḿnh mẩy và mặt mày đầy máu, nhuộm đỏ cả chiếc áo cụt trắng. Mấy đứa trẻ mách: Út ra ruộng sớm, mót lúa, đă đạp phải ḿn gài sẵn. Chưa biết của bên nào. Tôi thận trọng, đưa mắt quan sát hiện trường, xem có quả ḿn hay lựu đạn nào chưa nổ, hay một tên du kích nào đang ŕnh chờ chúng tôi.

Y tá Thám cúi xuống, cầm lấy tay Út bắt mạch, rồi đặt ống lên ngực nghe nhịp thở, tiêm một mũi thuốc không tên, mà anh nói để “cầm máu”, và cho uống hai viên aspirine để giảm đau, trong khi tôi choàng tay, cẩn thận, đỡ bé ngồi dậy. Người bé mềm nhũn, miệng rên nho nhỏ, liên tục. V́ trái ḿn bẫy đặt ngược hướng, sợi dây kíp khá dài, và nổ khi Út đứng khá xa, nên thân thể c̣n nguyên vẹn, không nát bấy, chỉ bị ghim đầy những miểng sắt li ti. Gương mặt xinh xắn của bé, có vẻ già dặn trước tuổi, lúc ấy xanh như tàu lá, và cặp mắt lờ đờ ngước nh́n tôi. Thám quay sang, kín đáo khẽ lắc đầu, và tôi hiểu. Từ thân thể Út máu tiếp tục chảy từng giọt, chắc bé đau đớn lắm. Bé kêu khát. Tôi mở bi đông, đổ nước vào nắp, cho bé uống vài hớp nhỏ. Vừa suy tính rất nhanh. Tại các ấp, như Vĩnh Phụng, làm ǵ có trạm cấp cứu, nhân viên y tế, hay thuốc men. Chở đi Bồng Sơn không kịp nữa, v́ bé đă yếu lắm rồi, lả người trong ṿng tay tôi. Gọi máy PRC 25 về trung đoàn, buổi trưa, không gặp ai. Gọi thẳng Sư đoàn 1st Cav Mỹ xin trực thăng tải thương th́ không biết tần số, và tốn thời gian lắm, lại sợ họ không tin ḿnh. Không c̣n biết làm ǵ hơn, tôi dùng khăn ướt lau sơ máu trên mặt, trên tay của bé và cầu nguyện cho bé gắng gượng thêm độ nửa giờ nữa thôi –thời gian vừa đủ để xe chúng tôi chở kịp về tới Bồng Sơn.

Bỗng Út mở to mắt, nh́n thẳng vào tôi, ngơ ngác, như vừa tỉnh cơn mê từ một cơi nào rất xa xôi. Bé thều thào hỏi:

– Con qua nổi không chú?

Tôi liếc nhanh về phía y tá Thám, rồi gật đầu:

– Qua nổi chứ con! Nếu con hứa là con gượng thêm nửa giờ nữa…

Bé mở hé đôi môi, cố gắng mỉm cười khó khăn, lắc nhẹ đầu, và đáp khẽ:

– Không kịp đâu chú, con biết con không sống nổi, con mệt quá rồi. Khi năy trong giấc mơ, con có gặp ba cô mặc áo trắng tinh, có hai cánh trên lưng, nói đang chờ để rước con đi…

Rồi Út tiếp, giọng rời rạc, càng lúc càng nhỏ dần, nhỏ dần:

– Chú ơi, con muốn được ôm, trước khi chết… con là đứa mồ côi, không cha không mẹ, không người thân thích… con ở đợ, mót lúa cho nhà người ta… không có ai thương con hết… con muốn được ôm, một lần này thôi…

Tôi bật khóc, ôm bé vào ḷng, hôn lên trán, lên tóc bê bết máu, mà nước mắt tuôn rơi như mưa, chảy xuống ướt chiếc áo trận, ḥa lẫn với máu của bé chưa khô. Vừa lúc ấy, trên cặp môi tím ngắt bé như cố nở một nụ cười măn nguyện. Rồi ngoẹo đầu vào ngực tôi, bé làm động tác muốn giơ hai cánh tay lên, nhưng không đủ sức, lại bỏ xuống, và nửa giây sau, bé từ từ nhăm mắt, và trút hơi thở cuối cùng trong tay tôi. Tất cả diễn ra không đầy bốn phút, từ lúc gặp bé nằm ở bờ ruộng.

Tôi nhẹ nhàng buông xác bé xuống, đặt nằm ngay ngắn trong tấm poncho c̣n mới của tôi. Bé đă được liệm bằng poncho, giống như một người lính chiến thật sự. Giống như những đồng đội của tôi chết trận, mà tôi được chứng kiến, tại Ban Mê Thuột, Kontum, Phan Thiết… năm nào. Chung quanh, mọi người vẫn đứng yên, lặng thinh, mắt đỏ hoe, kể cả tốp lính địa phương quân vừa kịp đến để chứng kiến cảnh tượng thương tâm này. Tôi biết, cũng như tôi, những người lính, rất chai ĺ v́ phải thường trực thách đố với cái chết cận kề, và định mệnh tàn nhẫn, không khóc dễ dàng. Nhưng trước thân xác gầy guộc, đẫm máu, của Út, một bé gái nạn nhân vô tội của chiến tranh khốc liệt, phi lư, cây cỏ cũng khóc theo, huống chi người. Khi tôi hỏi, ḿn do ai gài, một anh địa phương quân nói lớn, có vẻ tức giận:



– Ḿn của mấy thằng du kích Việt Cộng gài đó, ông thầy. C̣n ai trồng khoai đất này. Sáng nay, tụi em chưa kịp đi gỡ th́ con nhỏ Út ra ruộng sớm, đạp trúng. Tội nghiệp nó quá.

Tôi giao tấm poncho gói xác Út cho nhóm địa phương quân và moi tiền từ bốn túi quần, cộng với tiền gom góp của anh em tự nguyện trong toán, không đếm bao nhiêu, nhưng đoán khá bộn, đưa hết cho trung sĩ trưởng nhóm, và nói:

– Tôi nghe nói bé Út mồ côi, nghèo khổ, nên nhờ các anh mua cái ḥm cho bé và làm phước, chôn cất tử tế giùm. C̣n thiếu bao nhiêu các anh bù giúp cho.

3.Trên đường về lại Bồng Sơn, cả toán không ai nói với ai một lời nào. Giống như một lần trước đó không lâu, khi chúng tôi chở đến bệnh xá quận lỵ một bé trai mười tuổi từ một ấp, xă khác, gần hơn, đă đạp phải lựu đạn cũng của Việt Cộng –bị thương khá nặng, nhưng sống sót, v́ được cứu kịp thời, chỉ phải cưa một chân. Tôi ngồi im, như tượng đá, và mắt vẫn c̣n cay sè. Đến Bồng Sơn, đi ngang nhà trọ của Thơ Thơ, tôi bảo tài xế dừng lại, chờ tôi mười phút. Nàng mở cửa, thấy quần áo tôi dính đầy máu, hoảng hốt kêu lên:

– Trời ơi, anh bị thương phải không?

Tôi lắc đầu, gượng mỉm cười. Nàng ôm tôi vào ḷng, siết chặt, như sợ tôi biến thành mây bay đi, và tôi kể hết câu chuyện bé Út. Nàng vừa nghe vừa rơm rớm nước mắt. Rồi nghẹn ngào nói nhỏ:

– Tội nghiệp bé quá. Tối nay em sẽ thắp nhang khấn vái cho hồn bé được siêu thoát. Sau khi nghe chuyện này, em yêu anh quá, em yêu anh hơn, em yêu anh măi măi. Măi măi, anh biết không? Cái chết cũng không bao giờ có thể chia ĺa hai đứa chúng ta.

Hôm sau, Hoàng hết bệnh, tôi trả lại toán để anh dẫn xuống Vĩnh Phụng tiếp tục công tác thường nhật. C̣n tôi, từ đó cho đến ngày rời bỏ Bồng Sơn trở về Bà Gi, tức hơn nửa năm sau, không bao giờ đặt chân lên ấp đó nữa, dù chỉ ghé qua một lần. Để tránh nhớ một trong những kỷ niệm thảm thương nhất, nếu không muốn nói một kỷ niệm thảm thương nhất, trong suốt đời lính. Sau ba tháng, tôi được lệnh của trung đoàn ngưng công tác tại quận Hoài Nhơn, và điều động cả hai toán ra Tam Quan –một quận lỵ nguy hiểm nhất của Bắc B́nh Định.

4.Rồi qua bao nhiêu thăng trầm, trong suốt bốn mươi bảy năm kể từ Noël 1969 đó, tôi cố quên cái chết của bé Út, cũng như của Thơ Thơ –đă gục ngă trên đường di tản tháng 4 năm 1975, khi đoàn người chạy loạn bị Việt Cộng pháo kích. Cố quên và xem tất cả như một dĩ văng tàn khốc và kỷ niệm thảm thương của chiến tranh, của một thời để yêu và một thời để chết. Cố quên, nhưng không thể được.

Đặc biệt bé Út. Quả thế, cứ mỗi cuối năm khi mùa Giáng Sinh tới, và cứ mỗi lần tôi giơ tay ôm hug ai, th́ h́nh bóng tội nghiệp của bé bỗng dưng lại hiện về trong tâm trí, với thân xác đầy máu và thương tích, với vẻ mặt đau đớn tột cùng, với những lời trối trăng, đứt quăng, “con muốn được ôm… không ai thương con hết…” Hỡi ơi, buồn này biết đến kiếp nào mới nguôi? Bé hiện về như một ám ảnh dịu dàng, vời vợi. Như một linh hồn nhỏ mồ côi, trắng tinh như tờ giấy mới, lạc loài giữa trần ai quỷ ma ác độc. Như một quư nhân phù trợ mà hương linh lẻ loi c̣n măi lẩn quất bên người, hơn cả chiêm bao, qua suốt nửa thế kỷ. Để cùng với Thơ Thơ –người rất yêu dấu bên ḍng sông tương tư ngày nào– nắm tay tôi, dắt đi qua những phong ba của cuộc đời.

Portland, ngày Giáng Sinh, 25/12/2016

Kim Thanh

hoanglan22 10-07-2020 15:02

Một câu chuyện thương tâm
 
1 Attachment(s)


Một câu chuyện thương tâm, chỉ có người dân Miền Nam mới hiểu thấu câu Nước Mất Nhà Tan sau ngày mất Nước.

Tôi Nguyễn Văn Đề, sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao
xấu nhất của bầu trời đất Việt. Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống
trong một miền quê hẻo lánh gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất
cày lên sỏi đá.

Tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy,
tôi được một nhà phú hộ mướn chăn dê.

Với đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải lùa chúng vào các triền núi đá
từ sáng sớm tinh sương đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày chăn đàn dê
gặm cỏ. Chiều đến tôi phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ. Công việc chỉ
đơn thuần như thế. C̣n việc trả công, tôi không hề hay biết. Đó là
việc của người lớn: – Của cha mẹ tôi và nhà phú hộ.

Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh
dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự t́m thức ăn.

Sáng nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm cơm vắt, đựng trong mo cau
với một ít muối ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó là bữa cơm trưa
hàng ngày của tôi.

Tôi chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót ḷng bao giờ. Ngay cả buổi cơm
cũng chỉ có muối ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một
con cá lép khô muối mặn bằng hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh
soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi đă hoan hỉ lắm rồi.

Ngồi ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.

Đời tôi thăng hoa hơn, năm 1973, vừa đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào
Nghĩa Quân, được tuyển mộ và thăng chức ngay là Nghĩa Quân Viên-một
cấp bậc nhỏ nhoi nhất trong hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hănh diện được
xúng xính trong quân phục ‘lính áo đen’.

Đời tôi bắt đầu sáng lạn hơn thằng chăn dê rồi đó! Tôi được dạy cho
biết cách sử dụng súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một”
(Carbin M1) là ‘người t́nh’ đi theo tôi trong suốt quăng đời lính
tráng này.

Tôi được phục vụ ngay tại địa phương nơi tôi chào đời và lớn lên trong
đói nghèo, cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là ‘tiểu đội thám báo’.

Nói ‘thám báo’ cho oai, chứ thực ra, nhiệm vụ chính của tiểu đội là
ban ngày canh gác trụ sở Xă, ban đêm tiểu đội thường xuyên di chuyển
từ địa điểm này đến địa h́nh khác với mục đích tránh sự ḍm ngó, quan
sát theo dơi của địch, để khỏi bị tấn công sát hại.

Tuy tránh giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó
là ‘phục kích đêm’ để phá vỡ đường dây liên lạc của Việt Cộng.

Vào đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng. Tuy
nói là ẩn núp, ngụy trang, che dấu để tránh sự quan sát của địch, song
chúng tôi cũng phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện
địch, chúng tôi cố ư ẩn nấp để tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo
cáo để thỉnh thị quyết định của thượng cấp.

Nào ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm
tận cùng của tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi ŕnh ṃ về thôn xóm để
nhận tiếp tế. Đêm hôm đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào
ổ phục kích của chúng tôi. Lúc đó là phiên gác của anh Cường nhưng anh
ta ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm mắt mở, khi tỉnh giấc anh thấy một bóng
đen xuất hiện quá gần chỗ anh đang gác. Giật ḿnh, anh Cường nổ súng
bắn một băng tiểu liên và tên du kích ngă gục sau phát đạn khai hỏa
đầu tiên của anh ta.

Sáng hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi địch để nhận dạng và biết rơ
tên du kích là một người dân trong xă vừa thoát ly gia đ́nh theo Việt
Cộng, khoảng vài tháng trước. Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên
lạc viên cho đám du kích.

Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xă để cho thân nhân
anh ta nhận xác về chôn cất.

Đây là một chiến thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên
‘thám báo’ của chúng tôi.

Lẽ dĩ nhiên một tiểu đội ‘áo đen’ làm ǵ có phương tiện tải thương để
chuyên chở tử thi địch như các đơn vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương
Quân.V́ thế, hôm ấy chúng tôi phải dùng 2 cây sào tre, rồi lấy áo đi
mưa cá nhân, kết hợp làm băng ca, khiêng tử thi tên du kích về xă.

Chúng tôi thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước người sau, ́ ạch
khiêng cái xác từ bờ ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xă,
chúng tôi được lệnh của anh trung đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ
sở Xă.

Rủi ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người bạn khiêng phía
sau vừa bảo tôi vừa thả buông băng ca xuống:

– Đặt xác nó tại đây đi!

Anh bạn vừa thả băng ca th́ trời bất chợt đổ cơn mưa rào. Tôi đem ḷng
thương hại kẻ xấu số nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác tử thi
vào thẳng trong chợ để xác khỏi bị…mưa ướt.

Đó là ḷng nhân từ của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như
thế. Tôi vừa đặt tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập th́nh
thịch vào lưng tôi, nhục mạ, chửi rủa om ṣm:

– “Cái quân trời đánh! Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết
chồng tao!!” rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo một con chó. “Trời ơi
là trời!”

Tôi định giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người
vợ bị mất chồng, nên tôi đành cắn răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần
giải thích cặn kẽ cho bà ấy.

Một tháng sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ
thiếu úy trở lên phải tŕnh diện học tập cải tạo tại các trại tập
trung lao động khổ sai.

Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân được học tập tại địa
phương 20 ngày th́ được cho về sinh hoạt với gia đ́nh. Riêng tôi lại
bị vợ của tên du kích, nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm Ủy Viên
Chính Trị Xă, ra lệnh chuyển tôi từ địa phương ra trại cải tạo Lam Sơn
với tội danh: Thành phần ác ôn, nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân…

Những ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố t́m các anh em nghĩa quân khác mà tôi
quen biết. Tôi đă không t́m thấy bất cứ ai, kể cả anh Cường, người
Nghĩa Quân đă bắn chết anh du kích. Các ông trung đội trưởng, tiểu đội
trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông nào. Thậm chí ngay cả các anh ‘linh áo
đen’ đă đi phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng có ai!

Tôi bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ có một ḿnh tôi là
Nghĩa Quân Viên.

Những ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:

– Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại tŕnh diện vào đây để ngồi
tù?! Ủa, mày muốn t́nh nguyện học tập hả?

Có người th́ nói ôn tồn, thương hại. Có ông th́ nh́n tôi ṣng sọc, gặng hỏi:

– Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?

Tuy bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng ôn tồn, nhă nhặn trả lời:

– Dạ em đâu dám mơ ước như thế đâu thiếu úy!
Dù sao đi nữa, đời tôi cũng đă thăng hoa lắm rồi.

Ngày xưa, có bao giờ tôi được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan
trẻ này đâu. Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng ban, trưởng
pḥng, cuộc trưởng … ǵ đó trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng kính
nể, tôn trọng các vị sĩ quan ấy.

Lao động trong trại tù chừng gần hai năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về.

Tôi lại bị dồn vào ở tù chung với trung úy và đại úy. Đời tôi sao được
thăng cấp nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị chuyển ra trại Củng
Sơn, Phú Yên. Khoảng 3 năm có rất nhiều trung úy và đại úy lần lượt ra
về. Trại lại nhốt chung tôi với các ông thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa
bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy v́ các ông này ít ra cũng là các
cấp chỉ huy của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng của tôi. Đời
tôi lại thăng hoa, thăng cấp nhanh như chớp. Càng được sống gần các vị
thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy hiền, đạo đức,
xem tôi như em út trong trại tù.

Sau đó, chúng tôi lại bị dời về A.30. Ở tù hơn 5 năm, hầu hết ai ai
cũng được về đoàn tụ với gia đ́nh. Cá nhân tôi lại được thăng cấp ở
chung với một đại tá và 12 người tù chính trị khác mà trại gọi là ác
ôn, có nhiều nợ máu với nhân dân. Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp
nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu th́ ngày về lại càng xa tít mù khơi
bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở về gặp lại vợ con.

À, mà tôi quên kể cho quư vị nghe về gia đ́nh, sự nghiệp, thân thế của tôi…

Năm 18 tuổi tôi cũng đă lập gia đ́nh với con Nại. Cô gái này nhà cũng
nghèo, cũng được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả hai chúng tôi thường
xuyên gặp nhau ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết trời xuôi đất khiến thế
nào khi tôi gia nhập ‘quân áo đen’ dưới ‘cờ vàng ba sọc đỏ’ th́ Nại
cũng vừa lớn, nó mắc cỡ không chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng
năng, hiền lành như búp măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem Nại về và nó trở
thành vợ tôi hồi nào tôi cũng chẳng hay biết ǵ!

Vợ chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương lăng mạn
để trao cho nhau làm ǵ cho mất th́ giờ.

Tôi cũng không nhớ rơ, cái đêm động pḥng hoa chúc ấy … ra làm
sao..Tôi đă nói với Nại những ǵ… âu yếm Nại như thế nào..nhưng sáng
ra, tôi thấy Nại nằm trọn trong ṿng tay tôi. Tôi biết ngay, bây giờ
tôi đă có vợ. Gần một năm sau, Nại cho tôi hai đứa con trai sinh đôi
rất khoẻ mạnh. Một năm sau, Nại lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn dê,
nay là người mẹ 4 con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được hưởng phụ cấp
gia đ́nh như anh em Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ
được lănh lương 1.200 đồng mà phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù,
Nại một ḿnh nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa con thật vất vả.

Suốt thời gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi được 3 lần: lần đầu khi
tôi mới bước chân vào trại Lam Sơn, lần thứ nh́ tại trại A.30. Hồi đó,
trại cho tôi được ngủ đêm với Nại trong nhà ‘thăm nuôi” và Nại sinh
thêm đứa thứ năm. Lần thứ ba, khi được báo có người nhà thăm nuôi, tôi
vội vàng ra cổng trại th́ được biết một thảm kịch đă xảy ra lôi thôi
cho gia đ́nh tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi thăm nuôi chồng

bị lật và có hai người chết, trong đó có Nại. Xác Nại v́ không có thân
nhân nhận nên địa phương nơi xảy ra tai nạn đă chôn xác Nại ven rừng.
Và năm đứa con tôi đưọc một người quen biết sinh sống cùng địa phương
của Nại cũng đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào trại giao
cho tôi.

Nại chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh tráng, một ít mắm ruốc kho…

Năm đứa con, ngồi khóc v́ không có mẹ, nên trại cho tôi dẫn chúng vào
trại để ở tù chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc quanh.

Nại chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy
hai tuổi. Lúc đầu sáu cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em
bớt phần ăn ít ỏi của chính ḿnh, chia sớt cho tôi để nuôi năm đứa
nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho tôi một cái lều tranh cũng
trong khuôn viên của trại tù và cấp ba tháng thực phẩm đầu tiên để tôi
tự túc nuôi con sau này.

Cảnh gà trống nuôi con. T́nh cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc
đời dở khóc dở cười.

Một thời gian sau, nỗi sầu cũng đă lắng xuống nhiều, song h́nh ảnh của
Nại vẫn c̣n lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng
khoai, trồng ḿ. Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng theo sau tôi để phụ
giúp công việc lắt nhắt. C̣n lại một đứa sáu tuổi ở nhà trông em hai

tuổi. Tối đến tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đă mất hẳn sự trầm tĩnh
và muốn bỏ cuộc. Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách
trùm kín đầu ở một xó lều như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét
gào của gió mưa bên ngoài. Tuy làm lụng rất vất vả nhưng hoa màu thu

hoạch cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi

đào ḿ và hái bắp trộm của trại về cho bầy con ăn thêm để tránh cái
đói đang hành hạ chúng.

Nào ngờ một đêm, tôi giật ḿnh thức giấc th́ thấy vắng mặt con Thanh -
đứa con gái đầu ḷng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm bắp.

Tôi nh́n ra ngoài, bầu trời đen nnư mực. Mưa gió đang gào thét…

Tôi nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội vă lách mưa đi t́m Thanh.

Sau một hồi t́m kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.

Trời tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi:

“Thanh! Thanh! Con ở đâu?” Nhưng tiếng kêu của tôi bị mưa gào, gió
cuốn mất hút trong không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ chắc
giờ này con Thanh cũng đă về nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc,
nhưng con Thanh vẫn chưa về nhà.

Đánh thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các
con chỉ ngơ ngác không biết chuyện ǵ đang xảy ra.

Tôi bảo các con đi ngủ tiếp và một ḿnh ngồi chờ con Thanh về.

Một chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh tai… Không biết chuyện
ǵ đă xảy ra th́ khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối hả của các
ông cán bộ đang đứng giữa nhà.

– Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ trộm bắp… Anh em công an đi tuần tra, tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đă bắn chết nó rồi…
Khẩn trương theo tụi tao nhận xác nó về.

Điếng cả người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy
theo họ. Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết thê thảm bên vũng máu.
Quanh bụng nó cột một sợi giây và nhét quanh ḿnh chừng mười trái bắp
và hai củ khoai ḿ mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó c̣n đang nhai
mấy hột bắp non. Do đó, tôi biết ban đêm v́ đói, con Thanh ngủ không
được nên lén tôi đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ bị bắn chết
thê thảm như vậy.

Sáng hôm sau, tôi chôn Thanh mà ḷng buồn rũ rượi. Tôi không c̣n một
chỗ nào trong tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong
mảnh đất do cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở cửa mả cho
Thanh bằng hai trái bắp và hai củ khoai ḿ đă đổi sinh mạng của nó.

Suốt đời Thanh là một chuỗi ngày dài bất hạnh v́ thiếu t́nh thương của
cha, trong đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong đói khát của cảnh tù
đày mà trẻ thơ mới có bảy tuổi đă phải nằm tù, gỡ lịch từng ngày với
cha. Thanh chỉ mong được ăn no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xă hội
đă hất hủi, không thương yêu nó.
Ngay cả trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa Phương
Quân được lănh phụ cấp gia đ́nh, nên vợ con lính ai ai cũng đủ cơm ăn,
áo mặc. C̣n vợ con của ‘quân áo đen’ th́ đi chân đất, đầu trần, quần
áo tả tơi không một cấp lănh đạo nào thèm quan tâm đến.

Hồi đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại
phân biệt đối xử với anh em chúng tôi như thế?!
Sau 1975, tôi cũng bị ghép vào ‘ngụy quân’, cũng bị tù, bị hành hạ như
các anh em khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của nhân loại’ không biết phân
biệt hành xử để ‘quân áo đen’ như tôi không bị dẫn con vào trại tù và
bị chết thảm như vậy?!

Bảy ngày sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’, vào khoảng một giờ khuya, khi
tôi đang ngồi buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia đ́nh và cái chết thê
thảm của con Thanh …
Mưa đang rơi từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe
tiếng khóc của con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, năo nuột. Tôi mở cánh
cửa sổ bằng liếp tre nh́n ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi ào
ạt. Dưới gốc một thân cây chồi, ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng

hiện lên…Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nh́n kỹ th́ ra đó
là h́nh dáng của con Thanh.. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt.
Quanh lưng cũng đang buột một sợi dây và treo ṭn ten vài trái bắp như
lúc tôi nhận xác nó về. Tôi mất b́nh tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có

bàn tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi với
con Thanh, hai chị em giống như hai giọt nước. Con Nhàn đă đứng sau
lưng tôi tự hồi nào. Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất cả các con
tôi đều thức dậy đang ở chung quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con
Thanh vẫn c̣n đứng đó, nó khóc ngậm ngùi. Tôi hoảng hốt vừa nói với
các con tôi :”Để cha ra bồng con Thanh vào nhà” tôi vừa đẩy tấm liếp;
con Nhàn cũng chạy theo.

Nhưng khi ra đến mả th́ h́nh dáng con Thanh không c̣n nữa. Tôi ngơ
ngác không biết chuyện ǵ đă xảy ra nhưng tôi vẫn c̣n b́nh tĩnh và
biết ngay rằng con Thanh đang bị chết oan, chết lạnh và chết đói trong
nỗi oan ức mà linh hồn của nó cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết
nghĩ sao tôi vừa khóc ừa vái trước mộ nó: “Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ
luộc bắp cho con ăn.”
Sau đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể tôi đă bồng con Thanh.
Vào nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh
tre, chôn dưới đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn thờ cho con Thanh.

Trong khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng
cho con Thanh.
Tôi thấy trên bàn không có nước, tôi bảo con Nhàn lấy ly rót nước cúng
con Thanh.
Nhàn đi qua đi lại trong cái nhà tranh như đang t́m kiếm vật ǵ? Sau
đó nó lấy một cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi: “Ba ơi! Nhà không có ly,
ḿnh dùng cái chén này rót nước cúng chị Thanh được không ba?”

Nước mắt lưng tṛng, tôi khẽ gật đầu.
Thế cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các em của Thanh vừa lạy
vừa khóc nức nở với tất cả ḷng yêu thương người chị.

Tôi nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức
tưởi để lại năm đứa con cho tôi.. Kể từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa
có cơ hội lập một cái bàn thờ cho Nại. Tôi vội t́m trong mớ giấy tờ có
cái chứng minh nhân dân của Nại. Tôi trang trọng vuốt h́nh vợ ḿnh
trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt h́nh của Nại lên miếng gỗ
mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và Thanh trên một manh
gỗ mỏng của thời phồn vinh giả tạo c̣n sót lại.

Từ hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa. Nó cũng biết an phận trong
cảnh lưu đày của một chế độ mà người bóc lột người… Thỉnh thoảng tôi
vẫn có những đêm ác mộng: “Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng
chất, máu me lênh láng c̣n Thanh th́ đang nằm sóng soài trên một vũng
máu mà miệng vẫn c̣n nhai ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt bắp sống.

Duy Xuyên

hoathienly19 10-09-2020 06:43

NGƯỜI CHIẾN SĨ VNCH
 
NGƯỜI CHIẾN SĨ VNCH :

KỶ NIỆM 65 NĂM THÀNH LẬP BINH CHỦNG THỦY QUÂN LỤC CHIẾN - PART 1





KỶ NIỆM 65 NĂM THÀNH LẬP BINH CHỦNG THỦY QUÂN LỤC CHIẾN - PART 2



hoanglan22 10-09-2020 16:35

Đại Bàng găy cánh
 
3 Attachment(s)


Nghe nói ngày trước, khi tuyển một khóa sinh Không Quân, ngoài phần khám y khoa, c̣n có mục khảo sát về thẩm mỹ ngoại h́nh. Chẳng biết tin này có thiệt hay không, nhưng năm 1969 không c̣n thấy áp dụng nữa. KQ lúc này không c̣n ṛng ră là những đấng hào hoa đẹp trai, mà đă lẫn lộn vào đó là vài khuôn mặt không mấy rạng rỡ. Nhân cơ hội này, Tú, Lương và tôi đă trà trộn vào thành phần “Thượng lưu của quân đội”.

Diễn tả lại dung mạo của thằng Tú, không ǵ điển h́nh hơn là nhắc lại câu nói của niên trưởng ngày huấn nhục ở Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang:

– Không hiểu ban tuyển mộ KQ mù cả hay sao mà ông lại lọt được vào đây!

Thật ra thằng Tú không đến nỗi xấu, nó chỉ bị rỗ hoa, miệng lúc nào cũng toe ra cười như cái loa của Tổng Lănh Thiên thần Mi ca e. Nó nhỏ con nhưng có đặc tính là hễ giận ai th́ hay nói:

– Ông vặn cổ mày bây giờ.

Hỗn danh nó là thằng Hố Lai, tuy nhà nó ở Sài G̣n. Phần tôi không biết căn cứ vào sách tướng số nào, mà thằng Tú nói tôi là thằng lừa thầy phản bạn, tiểu nhân và ra đời đụng đâu thua đó. Thằng Lương th́ ngược lại, nó to con, da ngăm đen và có gương mặt rất nông dân chân chính, nên bọn tôi gọi nó là Vơ Ṭng Sát Tẩu. Con gái nh́n thấy nó cứ phải len lén quay đi chỗ khác, v́ sợ nó tán nhầm.

Ba đứa chúng tôi thi nhau làm lung lay cái huyền thoại hào hoa của quân chủng. Nhập khóa 69A ở Nha Trang, Lương lớn nhất nên được tôn là sư huynh. Có một niên trưởng rất hắc ám tên là Thái hay phạt thậm vô lư nên Lương ra lệnh cho tụi tôi:
– Tao đặt tên cho thằng Thái là Dúi, nhưng tụi mày chỉ nên kêu nó là Dúi thôi chứ kêu Thái Dúi, nó biết nó phạt cho th́ toé khói.

Tính Lương rất vui, một bữa kia nó thấy thằng Liên đang lau súng để gác đặc công gài chất nổ trong barrack (Chắc mọi người c̣n nhớ năm 1969 VC đă dùng plastic nổ doanh trại Trường HSQ Đồng đế làm chết rất nhiều khóa sinh) nó đến gần nhỏ nhẹ hỏi:

– Ê Leng, ke đẹ leng béng nghe bèng bèng hỉ?

(Ê Liên, cây đại liên bắn nghe bằng bằng hả)

Liên gốc người Quảng Nam nên nổi tam bành, xách súng đuổi Lương chạy ṿng ṿng trong barrack, miệng liên tục chửi:
– Tau béng xí mẹ thèng Béc Kỳ.
(H́nh như nó nói: Tao bắn thấy mẹ thằng Bắc Kỳ) làm náo loạn cả Phi đội.

Măn khóa quân sự trở về TSN, thi xếp lớp Anh ngữ, Lương học lớp 1100, tức lớp Anh ngữ vỡ ḷng. Tôi rất ngạc nhiên v́ trước khi sang KQ, Lương đă là Tr/s Thông Dịch Viên, nhưng nó tâm sự:

– Làm Thông Dịch Viên dễ hơn là học Anh Văn để du học. Hồi tao đi theo toán Dân Sự Vụ vô làng nọ để khám bệnh, phát thuốc cho dân chúng, có một bà khai bị bịnh mất ngủ, tao không biết dịch thế nào, nghĩ măi mới ra câu; “Xi nô x́ líp. Xi nít áp bờ rin”. Không biết thằng cha BS Mỹ có hiểu tao nói “She no sleep. She need apirin” không mà nó cũng phát cho bà ta một bốc thuốc.

Thấm thoát mấy tháng ở trường Sinh ngữ cũng qua mau, cả ba thằng chúng tôi lại gặp nhau ở Lackland, San Antonio , TX . Không biết thằng Lương kiếm ở đâu ra mà nhiều “bùa” lắm. Hôm trước khi thi test, nó ṃ xuống pḥng tôi rồi bảo:

– Mày nhớ kỹ câu này “Có con chó cái cắn bạn đau chẳng ai đền. Bốn anh công an đi bên đường đỡ cho bạn”.

Tôi cũng chưa hiểu công dụng của lá bùa th́ nó giải thích thêm:

– Cứ theo mẫu tự câu bùa mà khoanh vào. Có con chó cái nghĩa là bốn câu đầu là c, c, c và c; cắn bạn đau chẳng ai đền là c, b, d, c, a và d.

Quả thật bùa của nó rất linh, hôm đó tôi được 20/20. Lương xuống BX (Base Exchange) mua sắm, nó muốn mua một bộ đồ ngủ để mặc buổi tối. Ông nông dân này muốn đóng vai phú hộ trưởng giả ngày xưa. Nó ôm về một bịch ni lông trên đó đề rơ ràng chữ Pijama, nhưng mở ra th́ cái quần cụt ngang đầu gối và cái áo cổ trái tim! Lương mặc vô trông rất cũn cỡn, nó chữa thẹn bằng câu khen: “Hết xẩy” rồi uốn éo đi tới đi lui như một tên GAY chính hiệu.

Đến nay hơn 30 năm đă trôi qua mà tôi vẫn c̣n h́nh dung được cái dung nhan Uất Tŕ Cung của nó rất tương phản với bộ đồ ngủ, mà tôi cứ ngờ ngợ là dành cho đàn bà. Lương ở khu GOẠP trong căn cứ (WAF: Woman Air Force) nhưng hầu như tuần nào nó cũng đón xe bus lên chỗ chúng tôi ở, những lúc này là lúc bạn bè tâm sự nhiều nhất, và cũng là lúc nó chọc thằng Tú nhiều nhất. Nó hỏi:

– Ê Hố Lai (Hố Nai) nghe nói ông cố nội mày ở gần nhà bà hàng xóm ông thầy đồ phải không?

Thằng Tú không hiểu nó muốn nói ǵ, nhưng cũng vặn lại:

– Ừ rồi sao?

– Vậy chắc mày rành điển tích lắm. Mày có biềt ông Lê Quư Đôn than rằng “Phi công nghèo lắm ai ơi. Áo thời thiếu nút quần thời thiếu lưng” không?

– Xạo vừa vừa thôi bố, thời đó làm ǵ đă có máy bay.
Lương gân cổ lên:

– Thằng nhăi ranh, nói có sách mách có chứng đây này. Ông Lê Quư Đôn có nói: Phi trí bất hưng. Phi công bất phú. Phi nông bất ổn. Phi thương bất hoạt. Phi công bất phú không phải lái máy bay nghèo mạt rệp là ǵ?

Thời gian du học sung sướng trôi qua nhanh, chúng tôi đều tốt nghiệp rồi về nước nhưng mỗi đứa một nơi. Lương ra Nha Trang lái A37; Tú lái trực thăng ở Phù Cát c̣n tôi Biên Ḥa.

Hôm Lương về SG rủ tôi xuống xứ Bùi Thái thăm thằng Trinh, bạn cùng khóa 69A nhưng sau thiếu sức khoẻ phi hành nên đổi ra Bộ Binh. Lương nghe đồn là kế bên nhà Trinh có ông bán bánh ḿ bị ma bắt.

Câu chuyện thật hoang đường nhưng sự kiện th́ rất khó giải thích theo khoa học. Khi chúng tôi đến Bùi Thái th́ ông bán bánh ḿ vẫn c̣n nằm trong buồng, đầu tóc rụng trọc lóc.

Người nhà kể trước đây ông vẫn lên chợ Thủ Đức lúc ba bốn giờ sáng lấy bánh ḿ về bán rong. Hôm ấy như thường lệ ông chở một sọt đầy bánh ḿ đem về, khi chạy ngang Nghĩa trang Quân Đội Biên Ḥa th́ có người gọi lại mua cả sọt.

Ông nh́n mặt quen quen nhưng không nhận ra là ai. Mừng v́ hôm nay được nghĩ sớm, ông ngủ một giấc nữa rồi ngồi dậy móc tiền ra đếm th́ hỡi ơi, toàn là tiền vàng mă, loại để cúng người chết.

Lúc này ông mới sực nhớ lại khuôn mặt người mua bánh lúc sớm, đúng y như bức tượng Thương Tiếc mà ông vẫn thấy mỗi ngày khi chạy ngang qua nghĩa trang! Ông Bánh Ḿ hồn phi phách lạc, ông ốm luôn và mấy hôm sau th́ tóc rụng sạch.

Lương trầm ngâm nói:

– Nghĩa Trang Quân Đội linh lắm. Nếu có chết, tao thích nằm ở đó hơn là nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.

Vài tuần sau trong lúc ngồi hớt tóc, tôi đọc báo thấy phân ưu kín cả trang cuối, đọc kỹ th́ ra đó là thằng Tú, vừa găy cánh ở Phù Mỹ, Qui Nhơn. Tôi lặng người, thương tiếc một đứa bạn thân vừa hy sinh cho dân tộc.



Năm 1973 Lương đang bay A37 ở Nha Trang th́ chuyển về phi đoàn F5 Biên Ḥa. Nó tâm sự là tuổi ḿnh cũng đă lớn, gia đ́nh muốn nó “có nơi có chốn để gửi tấm thân”, nên lập gia đ́nh với một người mà Lương mô tả là hết xẩy. Khoảng hơn năm sau, có đứa con trai đầu ḷng nó khoe với tôi:
– Tao đặt tên con là Vũ, chữ vũ là mạnh, là mưa, là… nhiều nghĩa lắm.

Tôi chọc nó:
– Ừ “Vũ ỷ mạnh, Vũ ra Vũ múa. Vũ gặp mưa Vũ ướt hết lông”.

Lần cuối cùng tôi gặp Lương ở quán cà phê của phi đoàn nó, hôm đó nó đang trực hành quân. Tôi hẹn hai ngày nữa gặp nhau ở nhà Lương ngoài Tân Mai nhậu chơi.

Vài hôm sau, khoảng 5g chiều tôi từ SG lên Biên Ḥa, vừa quẹo vào con hẻm nhỏ th́ thấy chị của Lương. Tôi chưa kịp hỏi th́ chị ̣a lên khóc:

– Thằng Lương nó đi hai ngày rồi không về.

Tôi tưởng nó biệt phái vùng khác nên nói:

– Biệt phái ít ngày rồi về chứ có ǵ đâu mà khóc.

– Không phải cậu ạ. Người ta nói nó nhảy dù khi máy bay bị bắn rớt.

Đoán là đă có chuyện khẩn cấp nên tôi hỏi vài câu rồi vọt vô phi đoàn, thấy Phi vụ lệnh có chiếc sẽ đi rescue chiếc F5 bị rớt tôi t́nh nguyện đi liền.

Khi chúng tôi đáp ở Bộ Tư Lệnh QĐ III để nhận tin tức của Quân Báo, th́ vị Th/tá Trưởng pḥng nói:

– Thôi anh về đi. Tin nhận được là tụi Trung Đoàn 24 Chiến xa BV đă bắt được phi công rồi!

Tôi trở về phi trường, lấy xe chạy ra nhà Lương th́ chỉ gặp cô Mừng, cháu gái của Lương đang coi nhà. Tôi cũng không biết báo tin thế nào cho ổn nên xă giao vài câu rồi ra sạp báo đầu đường mua tờ Tuổi Ngọc, trở lại đưa cho cô bé, trong đó có kẹp tờ giấy ghi vài ḍng: “Cậu Lương đă bị VC bắt. Báo cho ba má cháu biết”.

Hôm ấy đứa con trai của Lương mới được 20 ngày.

Đời phi công, có lẽ khổ tâm nhất là lúc đi báo cho thân nhân biết bạn bè ḿnh gẫy cánh. Có một lần tôi phải ra Biên Ḥa báo tin là thi hài Đ/úy Hoài đă t́m thấy ở Hạ Lào. Tôi cứ đinh ninh rằng gia đ́nh ông đă biết Đ/úy Hoài chết trước đó cả tuần lễ. Thực ra BTL/KQ chỉ báo là ông bị mất tích v́ chưa lấy được xác. Khi tôi báo tin xong, cô em gái Hoài la lên:

– Má ơi, anh Hoài chết thật rồi.

Cô ngă ra bất tỉnh. Cả nhà vang tiếng khóc.

Khi tôi đổi ra Phù Cát, nghe đồn là SĐ 25BB có thấy một xác chết lâu ngày ở trong rừng, c̣n mặc đồ bay, tôi cứ ngờ ngợ, không biết có phải là xác của Lương không.

Năm 1978 sau khi đi tù về, tôi bị quản chế nên thường bị Công an gọi tập trung lên Huyện, gặp một người trông quen lắm, anh ta gọi tôi:

– Ê Toàn, tao là Hà Diên Tuynh bạn học ngày xưa đây. Có phải mày quen thân với thằng Lương lái F5 không?

Th́ ra trước đây tôi cũng tưởng thằng Tuynh đi BB tử trận ở Bù Na gần Đồng Xoài.

Tôi ngạc nhiên sao thằng này lại biết Lương (?)

Nó kéo tôi ra xa xa rồi kể:

– Tao bị bắt làm tù binh rồi bị đưa ra Bắc, nhốt chung một chỗ với thằng Lương lâu lắm.

Khi biết nó là pilot, tao mới hỏi nó có biết mày không, th́ ra tụi mày là bạn cùng khóa. Thằng Lương gan cóc tía, mấy tay quản giáo đ́ nó lắm v́ nó là “Lănh tụ” trong tù của bọn tao đó. Cũng v́ vậy mà hiện nay nó vẫn c̣n bị tù ngoài bắc đấy. Hôm tao về có ghé nhà nó đưa thư.

Tôi mừng khi nhận được tin này, nhưng cũng buồn cho số phận hẩm hiu của Lương, sau bao nhiêu năm tù tội mà vẫn chưa được thả cho về.

Tỵ nạn tại Mỹ, một lần trong giấc mơ tôi gặp lại Lương. Nó ôn chuyện cũ với tôi, về những lần đánh xe tăng vào Mùa Hè Đỏ lửa, về chuyện nó ốp thằng Trung (Nguyễn Thành Trung thả bom Dinh Đọc Lập) khi bắt gặp thằng này đi trượt patin ở B́nh Triệu mà mặc đồ bay. Tôi mất liên lạc với gia đ́nh Lương đă lâu, nhưng vẫn mường tượng bạn ḿnh đă chết trong tù. Tôi mong mỏi có ngày nào đó được tin xác thực của Lương.

Vào đầu tháng giêng năm 2004, Email của Khóa 69A có bản tin nói rằng ít tháng trước khi mất nước, tại núi Bà Đen Tây Ninh, có một phi công trực thăng thuộc khóa 69A đă cứu được Phan Huy Bách cùng khóa với ḿnh (Bách là con của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát) khi chiếc A37 bị bắn rơi và Bách kịp bung dù. C̣n hai phi công nữa cũng lái A37 th́ bị VC bắt, trong đó có Trần Văn Lương, tự Lương Răng Vàng.


Tôi trả lời email trên là Lương Răng Vàng không rớt tại núi Bà Đen; Lương cũng không c̣n lái A37 nữa mà vào năm 74 nó đang lái F5 và rớt khi đang lái loại máy bay này, chứ không phải măi đến năm 75 mới bị bắn rơi với chiếc A37.

Ít lâu sau, Nguyễn Tài Cơ cho tin đích xác: Lương đă chết trong một trại tù miền bắc. Hoàng Gia Viễn bạn học cùng khóa T28 với Lương c̣n cho biết chị Lương đang sống ở Washington và cho số phone để anh em liên lạc.

Cuối cùng tôi đă liên lạc được với chị Lương. Hiện nay chị đang sống với người em tại Seattle. Cháu Vũ đă học thành tài và đang làm việc ở California. Chị cho tôi biết kể từ khi Lương bị bắt, gia đ́nh không được một tin tức ǵ, cho măi đến sau ngày mất nước mới nhận được tin chồng c̣n sống và bị giam ở ngoài bắc. Qua bao nhiêu khổ ải chị mới t́m ra chỗ trại giam, lúc này Lương đă bị bịnh thật nặng, chỉ c̣n da bọc xương, bạn bè phải cơng ra chỗ thăm nuôi.

Trở về SG, chị vội vă mua thuốc men để ra thăm lần nữa, nhưng không kịp nữa rồi, có người được thả về tới báo tin anh Lương đă nằm xuống vĩnh viễn ngay vào ngày kỷ niệm hôn nhật của hai người, tại một vùng đất có tên là trại Đô Lương, Nghệ Tĩnh, có ám số là AH 118 NT K2. Chị Lương đă nhiều lần cố gắng t́m hài cốt của chồng nhưng chưa kết quả. Chị hy vọng một ngày rất gần sẽ kiếm được mộ phần của chồng để di chuyển về miền Nam.

Vậy là hơn 30 năm, chúng tôi đă nhận tin tức chính xác về Lương, đêm hôm đó tôi ngủ mơ gặp lại nó đang đứng cười, không nhận ra hai đứa đang ở đâu, nhưng cả hai đều vui vẻ lắm.

Nơi cơi thiên thai nào đó có phải Lương đang hài ḷng v́ cuối cùng, toàn thể các bạn đồng khóa cũng đă biết số phận của Lương, tuy buồn thương nhưng cũng thật dũng cảm, một cánh đại bàng đă găy cánh nơi chiến trường, sa vào tay địch, vẫn ngửng cao đầu lên đến ngày cuối của cuộc đời.

Lương, anh hồn mày nơi vĩnh hằng xin về với chúng tao, cả khóa 69A họp mặt lần thứ 40 kể từ ngày bọn ḿnh quen nhau, để tưởng nhớ đến mày, thằng Tú, thằng Toản, thằng Sương… và nhiều đứa bạn khác đă nằm xuống cho quê hương ḿnh.

Bọn tao đă liên lạc được với gia đ́nh mày. Xin chúc mừng con mày, không hổ danh là con một phi công, cháu Vũ đă thành đạt nơi xứ người, tiếng Anh hẳn là lưu loát không c̣n phải nói “Xi nô x́ líp” như mày ngày nọ.

Vợ mày, chị Lương đă ở vậy thờ chồng nuôi con khôn lớn từ ngày mày nằm xuống, cho dù lúc ấy tuổi mới ngoài hai mươi.

Hăy cùng chúng tao cầu nguyện cho quê hương ḿnh mau quang phục, để chúng tao và những người thân của mày có dịp về lại Việt Nam, đón rước thi hài đại bàng găy cánh trở về, cùng với hài cốt của những đồng đội đă bị tứ tán mọi nơi về an táng tại Nghĩa Trang Quân Đội, nơi mày từng ao ước được nằm bên cạnh những chiến hữu chung một màu cờ.

Phương Toàn

hoathienly19 10-09-2020 19:48

BA TÔI VÀ TRẠI TÙ VĨNH PHÚ
 
BA TÔI VÀ TRẠI TÙ VĨNH PHÚ





Vượt qua bao nhiêu cửa ải khó khăn, thủ tục nhiêu khê cuối cùng chúng tôi mới cầm được tờ giấy ra thăm ba tại trại cải tạo Tân Lập, Vĩnh Phú.

Tháng 2 năm 1979, hai mẹ con ra Hà nội bằng xe lửa. Sau khi hoàn tất mọi chuẩn bị sau cùng, chúng tôi cùng người gánh hàng thuê lên tàu chợ tuyến Cao Bằng Lạng Sơn để về ga Ấm Thượng.

Hành lư mang theo là hai bao tải đồ ăn gồm lương khô, thực phẩm, thuốc men, áo quần…bất kỳ cái ǵ cũng cần thiết cho người đang “học tập” cải tạo.

Năm 1978, tôi đă thăm được ba lần đầu tiên, đă biết trước địa điểm, lại háo hức mong gặp ba, chuyến đi lần này diễn ra suông sẻ nhanh chóng hơn trước rất nhiều.

Xuống ga Ấm Thượng, vượt qua gần 30 km đường bộ, 2 lần gọi đ̣ qua những ḍng sông nước chảy xiết, cuối cùng chúng tôi cũng đến được nhà khách K2 Tân Lập Vĩnh Phú vào lúc nửa đêm.

Chuyến đi vất vả nhưng mẹ chịu đựng gian khổ và khoẻ hơn tôi tưởng tượng rất nhiều. Nghĩ đến lúc gặp lại ba vào ngày mai, hai mẹ con suốt đêm thao thức không ngủ được.

Nằm bó gối ở một góc pḥng, trong tiếng ễnh ương rên rĩ, tôi nh́n ra bên ngoài từ khe hở của vách tre lá của nhà khách ở một vùng đất gần biên giới Việt Hoa xa xôi, và cảm nhận cái nỗi thê lương của những tháng ngày mà ba tôi, người sĩ quan tù cải tạo, đă và đang trải qua.




Tiếp chúng tôi là một tay công an khá lớn tuổi với khuôn mặt rất h́nh sự. Tôi đưa giấy tờ, tŕnh bày lư do, và xin phép được gặp ba. Gă cầm giấy tờ đi vào bên trong. Độ khoảng 15 phút, gă đi ra vẫn với khuôn mặt khó đăm đăm. Gă nói :

Rất tiếc không thể để hai người gặp tù nhân này được. Ông nhà đang bị kỷ luật v́ vi phạm nội quy trại. Hai người có thể để thức ăn và đồ dùng lại chúng tôi sẽ chuyển cho ông.

Mẹ tôi bắt đầu khóc lóc và năn nỉ. Gă một mực cương quyết lắc đầu. Mẹ tôi càng lúc càng khóc to hơn.

Càng bị từ chối, nỗi uất ức càng lớn, bà bắt đầu nằm lăn ra sàn đất. Vừa la vừa lết, vừa khóc vừa hét. Gă công an lúng túng không biết xử lư cách nào. Những người đến thăm nuôi và cả những cán bộ của các bàn bên cạnh đều hướng về phiá chúng tôi.

T́nh h́nh căng thẳng đến tai cấp chỉ huy trại. Một sĩ quan công an bước vào. Hai người thầm th́ nhỏ to ǵ đó. Cuối cùng viên sĩ quan đến gặp chúng tôi, dịu giọng :

" - Thật ra chúng tôi rất muốn giúp bà nhưng quả thật hiện nay ông nhà đang bị kỹ luật bị giam ở ngoài trại cách đây rất xa. Thôi bà về đi. Tuần sau bà quay lại.

Tôi sẽ cho bà gặp ưu tiên với thời gian gấp đôi b́nh thường. C̣n bây giờ bà cứ để thức ăn và đồ dùng chúng tôi hứa sẽ đưa tận tay ông nhà, không thiếu một thứ ǵ. "

Năn nỉ ỉ ôi cách mấy cùng không lay chuyển tên cán bộ quản giáo, tôi nghĩ chắc là hết cách. Chắc phải ở lại Hà Nội thêm một tuần. Nh́n khuôn mặt có vẽ hiền lành của viên sĩ quan công an, tôi nghĩ gă có vẻ thiệt t́nh.

Tôi nói nhỏ với mẹ, ḿnh về thôi, ba bị kỷ luật. có xin cũng không được. Chịu khó về Hà Nội ngủ lây lất. Tuần sau lên lại hy vọng họ giữ lời hứa cho gặp được ba lâu hơn.





Trong khi quay lại bàn tiếp tân để làm thủ tục đưa thức ăn và đồ dùng cho ba, bỗng dưng tôi thấy một ánh mắt hơi khác lạ của một tù nhân làm nhiệm vụ đem nước chè xanh cho những người đến thăm nuôi.

Để ấm nước xuống bàn, người này đi chầm chậm về phiá cḥi vệ sinh sau khi ngoái lại nh́n tôi, đôi mắt nhấp nháy kỳ lạ. Tôi xin phép gă cán bộ công an đi vệ sinh.


Bước vội vào phía trong vừa kịp thấy dáng kḥm kḥm của người tù nhân bước ra. Tôi bước vào, nh́n quanh cái cḥi tiêu, tiểu được xây tạm bợ bằng lá tranh với cánh cửa tre nửa kín nửa hở.

Tôi ngồi xuống và nh́n quanh vách tre lá. Tôi có linh cảm h́nh như người tù nhân muốn cho tôi biết một điều ǵ đó. Tôi cố nh́n thật kỹ. Quả đúng như linh cảm, trên góc đ̣n tre phía trái của cầu tiêu, tôi thấy một mảnh giấy nhỏ, trên đó viết nguệch ngoạc một ḍng chữ:

“ Ông Điềm bệnh nặng .”

Hoảng hốt tôi vội chạy ngược vào pḥng tiếp tân. Dằn cơn xúc động tôi kéo mẹ ra góc pḥng báo tin. Mẹ b́nh tĩnh và khôn ngoan hơn tôi tưởng rất nhiều. Bà quay trở lại bàn tiếp tân và nói:

Xin cán bộ cho tôi ở lại đây đợi chồng tôi về chứ bây giờ vừa đi vừa về Hà Nội cũng mất hai ngày.

Gă cán bộ nói láo trơn tru:

Ông bị biệt giam ở nơi rất xa, phải tuần sau chúng tôi mới đưa ông nhà ra găp bà được.


Đến lúc này nỗi uất ức trong ḷng mẹ tôi bùng nổ, bà khóc và la hét to hơn:

“Mấy ông nói láo, tôi biết chồng tôi đau nặng, đồ sát nhân, sao không cho chúng tôi gặp. Các ông có c̣n là con người không?”





Đến lúc này th́ mẹ tôi không c̣n biết sợ là ǵ nữa, Tất cả những oán hận chất chứa trong ḷng bao lâu này được dịp thoát ra, không ai có thể ngăn được. Cả pḥng khách của K2 bắt đầu nhốn nháo, ồn ào.

Nhiều người bu quanh mẹ tôi lúc này đang nằm lăn lộn dưới sàn đất cứng ngắt. Gă cán bộ chạy vào trong và đi ra cùng với viên sĩ quan lúc năy. Gă dịu giọng nói với chúng tôi:

Xin bà b́nh tỉnh Mời bà và anh vào trong, chúng tôi sẽ giải quyết. Nói xong gă ra lệnh cho hai tay công an d́u mẹ tôi vào căn pḥng phiá trong. Có lẽ không muốn những người thăm nuôi khác biết chuyện.

Căn pḥng sạch sẽ hơn pḥng bên ngoài nhiều. Viên sĩ quan công an nói:

- Bây giờ tôi xin nói thật về t́nh trạng của ông nhà. Thật ra ông đang bệnh và chúng tôi đang tích cực chữa chạy cho ông. Nay bà đă biết, tôi sẽ thu xếp cho bà vào gặp ông.

Ông nhà đang nằm ở bệnh xá, tôi sẽ cho người dẫn ông bà đi. Xin ông bà đợi một lát. Nói xong gă bước ra, nói nhỏ ǵ đó với công an trực.

Gă công an bước đi thật nhanh. Khoảng 40 hay 50 phút ǵ đó gă trở về, bước đi gấp gáp, hấp tấp. Lại th́ thầm to nhỏ với viên chỉ huy. Tôi linh cảm có chuyện không hay. Lần này viên sĩ quan trầm giọng:

Thưa bà, chúng tôi vừa mới nhận được tin, mặc dù chúng tôi đă tận t́nh chữa trị, nhưng v́ sức yếu, ông nhà vừa mất cách đây 5 phút. Chúng tôi xin chia buồn với bà. Chúng tôi sẽ đưa bà đi gặp ông lần cuối cùng.


Di ảnh Ông Lê Xuân Điềm, Thiếu Tá Cảnh Sát, Bộ tư lệnh Cảnh Sát Sài G̣n. Ông sinh năm 1924.


“Học tập cải tạo” tại K2 trại cải tạo Tân Lập, Vĩnh Phú. Mất ngày 10/2/1979 tại trại K2





Nghe tin dữ, mẹ tôi như điên cuồng. Bà nằm lăn ra đất. Vừa khóc vừa la. Không từ nào mà bà không đem ra. Không nhân vật nào bà không réo tên chửi. Vừa chửi vừa khóc, khóc đến khan cả giọng. Mồ hôi quyện với đất đỏ dính đầy áo quần, mặt mũi. Hết khóc rồi bắt đầu cười ngây dại.

Tôi ôm mẹ không nói được nên lời. Nỗi đau quá lớn làm thần kinh tôi như tê liệt. Ôm mẹ với trái tim nhói đau như kim châm và mẹ ngất đi.

Khoảng 15 phút sau, chúng tôi được dẫn di gặp ba. Nơi ba nằm là một căn nhà nhỏ đơn sơ gọi là bệnh xá nằm sâu trong K2 cách nhà khách khoảng 30 phút đi bộ.

Ba nằm trên một giường tre, thân h́nh gầy guộc, khuôn mặt ốm nhom như bộ xương khô. Hàm râu lổm chổm có lẽ được cắt ngắn một cách vội vàng không dài tḥn như lần đầu tôi gặp.

H́nh như đă hết nước mắt, mẹ không khóc yên lặng ngồi bệt xuống đất vói tay ôm lấy ba. Tôi ngồi xuống phiá bên kia. Hai mẹ con ôm choàng lấy ba. Vẫn c̣n hơi ấm của một cơ thể vừa mới qua đời. Mẹ vuốt mắt ba. Mắt trừng trừng nh́n ba. H́nh như tôi thấy trong mắt mẹ màu đỏ của máu.

Sẽ không bao giờ tôi quên được cái h́nh ảnh của ba và mẹ tôi trong bệnh xá trại K2 Tân Lập hôm đó. Mẹ không khóc nhưng lại ngất thêm một lần nữa khi tôi định kéo mẹ đứng lên.





Sau này qua một người bạn tù của ba, lúc mẹ con tôi đến thăm trại, đang hấp hối nhưng ba tôi biết. Lúc đó ba đă rất yếu. Ba nói ba sẽ cố gắng sống để găp mẹ một lần và ba cố gắng húp được vài muỗng cháo trắng. Những muổng cháo trắng cuối cùng trước khi ra đi măi măi.

Giá mà tay cán bộ có một chút t́nh người th́ có lẽ mẹ cũng được gặp ba một lần sau chót. Chỉ cần một lần mà thôi, của một cuộc t́nh ba mươi mấy năm.

Tôi biết ba đă không đành ḷng ra đi. Đành ḷng sao được hả ba, khi vượt hàng ngàn cây số từ nam ra bắc, chỉ c̣n cách một bước chân thôi mà mẹ không thể nói với ba những lời yêu thương sau chót, để được nghe một lời trăn trối sau cùng.

Tức tưởi và uất hận lắm ba. Mà thôi ba ơi. Cứ yên ḷng ra đi rồi có ngày mẹ, ba và chúng con sẽ lại gặp nhau một nơi nào đó, trên thiên đàng. Chúng ta sẽ lại có những ngày tháng hạnh phúc bên nhau như thuở nào.





Để xoa dịu mẹ con chúng tôi, lần đầu tiên K2 có tổ chức một đám ma tù nhân tương đối đàng hoàng. Từ trước, đă có rất nhiều tù nhân chết ở đây. Toàn bộ được bó vào các manh chiếu mây tre rách rưới và được chôn vùi sơ sài trong các mảnh đất trống bên trong trại.

Ba có lẽ là người đầu tiên đưọc ưu tiên có ḥm làm bằng gỗ ván thông dù rất mỏng dính. Chôn theo với ba là mấy bộ đồ rách bươm.

Cũng có 4 người tù khiêng quan tài. Phía trước và phía sau có 4 công an đi cùng.

Cũng có ly hương là cái chén ăn cơm cũ kỹ. Tôi cầm bài vị là một bức ảnh căn cước nhỏ xíu của ba c̣n sót lại trong trại. Mẹ đi sau quan tài. Đoàn đưa tang gồm 10 người lặng lẽ đi về phía một đồi trọc xa xa, phiá ngoài hàng rào trại K2. Trên đường đi, tôi để ư thấy có những g̣ đất với rất nhiều ngôi mộ vô danh.

Nơi chôn ba là một ngọn đồi, chỉ có một cây đa thật to. Những người tù đào vội một lớp đất không sâu lắm, ḥm được đặt xuống và lấp lại. Thế là xong. Ba tôi, một sĩ quan cảnh sát miền nam thua cuộc, cuối đời nằm ở đây, một vùng đất gần tận cùng biên giới Việt Hoa.





Một ḿnh, cô đơn, lạnh lẽo. Mẹ không c̣n nước mắt để khóc. Suốt buổi lễ cứ nh́n trừng trừng. Một khuôn mặt tưởng như vô hồn, nhưng tràn đầy oán hận. Một nỗi hận đến vô cùng. Tôi cắn chặt môi đến tươm máu. Thôi ba ơi, hăy yên nghỉ tạm nơi đây, con sẽ quay trở lại một ngày không xa.

Trước khi trở về, tôi cẩn thận ghi dấu vị trí ngôi mộ với một chữ thập ghép bằng hai nhánh tre và khắc tên ba trên gốc cây to trước mộ.

Hai năm sau, thương ba nằm một ḿnh hiu quạnh, mẹ con tôi trở ra lại trại Tân Lập cùng với một người đảo mộ thuê từ Hà Nội. Không xin được giấy phép bốc mộ, nửa đêm chúng tôi đă lén lút đào chui và trải qua những giờ phút gian truân, nguy hiểm. Cuối cùng chúng tôi cũng đem ba về nằm bên cạnh ôn mệ trong mảnh đất phía sau nhà, dưới chân núi Ngự B́nh Huế.






Từ khi đem được ba về nằm ấm cúng bên cạnh những người thân yêu, cuộc sống của gia đ́nh tôi từng bước thay đổi và trở nên tốt đẹp hơn. Có quá nhiều cái t́nh cờ, may mắn mà dù không muốn tin, tôi cũng phải tin có sự che chở của ba, có sự sắp đặt của ơn trên.

Và nhờ đó gia đ́nh mẹ và 9 anh em chúng tôi vượt qua được những ngày tháng khó khăn, tủi nhục, đen tối để đến cuối năm 1998 toàn bộ gia đ́nh đoàn tụ trên miền đất thật xa quê nhà nhưng tự do này.

Là những người cuối cùng trong đại gia đ́nh qua Mỹ theo diện đoàn tụ, vợ chồng chúng tôi cùng 3 con nhỏ về sống tại thành phố nhỏ Tulsa thuộc tiểu bang Oklahoma.

Vào cuối năm 1998, khi chúng tôi mới đến cư ngụ, Tulsa là một thành phố hiền hoà nhưng cũng thật buồn và trầm lắng. Người Việt không nhiều, nhưng may mắn cũng có một vài chợ Việt Nam, một vài quán ăn người Việt, không ngon lắm nhưng cũng làm vơi đi nỗi nhớ nhà của những đứa con mới vừa lưu lạc.

Lúc vừa mới đến, thấy gia đ́nh 5 người chưa có công việc làm, mấy người bạn đề nghị chúng tôi đi xin housing và chế độ trợ giúp cho người low income.

Vào thời đó ở cái thành phố đất rộng người ít này, việc xin trợ cấp của chính phủ tương đối dể dàng. Ai cũng khuyên v́ với tuổi đời gần 50, một vợ và 3 con c̣n nhỏ, tội ǵ phải đi làm cho vất vả, ở nhà của chính phủ, con cái có nhà nước lo, sáng kéo nhau ra quán cafe, chiều tập trung tại một nơi nào đó cùng với bạn bè, xem đánh cờ và ngồi tám chuyện ngày xưa.

Vừa nhàn, vừa có tiền tội ǵ phải vất vả mưu sinh. Đâu phải ai cũng có điều kiện để xin được trợ cấp như gia đ́nh tôi đâu.

Nhưng đó không phải là con đường của tôi sẽ đi. Đứa con của một sĩ quan tù cải tạo chết ở biên giới Việt Hoa ngày nào sẽ không thể sống như thế.

Thế là, sau thời gian đầu chuẩn bị cho những việc cần thiết, lấy bằng lái xe, ở tạm nhà người em gái, chúng tôi bắt đầu cho một cuộc sống mới trên một miền đất xa lạ này.

Vợ tôi xin vào làm phụ bếp trong một nhà hàng Việt Nam. Tôi và đứa con đầu nhờ có bằng TOEFL nên đăng kư đi học đại học trở lại.

Ngoài giờ học, cháu đi làm thêm công việc phục vụ nhà hàng, tôi nhờ có chút tay nghề sửa máy tính và tivi, xin vào làm technician cho hăng bán máy móc điện tử COMPUSA. Hai con nhỏ đi học ở trường gần nhà.

Tiền lương không cao lắm, nhưng với vật giá không đắt đỏ và con người hiền hoà của một thành phố nơi nhà thờ nhiều hơn nhà dân này, chúng tôi đă có những bước khởi đầu hội nhập không quá đỗi khó khăn.

Và quan trọng là tôi được đoàn tụ với mẹ, các em, và cùng với gia đ́nh riêng, chúng tôi đă sống không giàu có, nhưng lương thiện, đầy đủ và tự do.

Có quá nhiều điều để kể về những ngày tháng trên một miền đất không phải là nơi tôi sinh ra này, hy vọng sẽ có trong một bài viết khác, ở đây tôi chỉ muốn nói đến những mối nhân duyên mà ông trời đă sắp đặt liên quan đến câu chuyện của ba tôi, người sĩ quan tù cải tạo chết tại trại K2 Tân Lập Vĩnh Phú tháng Hai năm 1979.





Cuộc sống ở Tulsa phải nói là rất dể chịu và an b́nh. Với sự tằn tiện và chịu thương chịu khó, chúng tôi cũng mua trả góp được một căn nhà nhỏ, tạm đủ cho một gia đ́nh 5 người, những ngày tháng an b́nh và hạnh phúc.


Nhưng rồi năm 2000, sau khi lấy lại bằng đại học, tôi xin được việc làm tại KLA-TENCOR ở San Jose, Ca. Nghe tôi định di chuyển về San Jose, bạn bè, người thân ai cũng bàn ra.

Thứ nhất tôi đang sống an nhàn, mọi việc ồn định, lên San Jose, tuy lương cao hơn, nhưng nhà cửa, cuộc sống đắt đỏ, lạ lẫm, chắc chắn sẽ khó khăn vất vả hơn nhiều. Làm lại từ đầu, có trụ nổi không hay lại khăn gói trở về như một số người ở bên này.

Nhưng, với tôi, quan trọng không phải là đồng lương cao thấp, đường đi dễ dàng hay vất vả, bằng phẳng hay gập ghềnh, mà là một công việc phù hợp với cái kiến thức và cái khả năng được đào tạo của ḿnh, trong một ngành nghề ḿnh yêu thích.

Thế là gia đ́nh nhỏ, 5 người chúng tôi một lần nữa khăn gói đi về một thành phố xa lạ hơn, một nơi được xem như đắt đỏ vào bậc nhất nước Mỹ để kiếm sống.

Cho đến bây giờ trải qua gần 20 năm, với biết bao thăng trầm, thời gian, với tôi, thời gian ở San Jose vẫn là một quăng đời đáng sống.

Có nhiều điều để nhớ lại, nhưng trong phạm vi bài viết, tôi muốn nhắc đến, chính là cái duyên, cái t́nh cờ sắp đặt của thượng đế, của định mệnh khi chính tại miền đất này, tôi đă gặp lại h́nh bóng của người cha thương yêu.

Đầu năm 2001, khi tôi đang làm tại KLA-TENCOR, lúc đó nhà cửa rất là hot. Tôi t́m măi mới thuê được căn nhà 4 pḥng ngủ. Giá thuê không hề rẻ, 1800USD một tháng. Trả tiền nhà rất vất vả khó khan, mất toi ½ số tiền lương hàng tháng.

Chúng tôi quyết định t́m người cho share lại bớt một pḥng. Đúng lúc có một technician mới vào làm trong dây chuyền của tôi mới được tuyển vào làm việc, cần nơi ở. Thế là thoả thuận về ở chung. Vừa tiện đi làm chung xe, vừa sẽ chia tổn phí, tiện lợi đôi bề.




Ở một thời gian, làm chung với nhau cả năm, trong một dịp t́nh cờ khi nhờ ông bạn share pḥng cắt tóc giùm, qua cuộc nói chuyện, phát hiện ra ông bạn cùng nhà mấy lâu nay củng là một sĩ quan từng đi "học tập cải tạo".

- Anh đi tù ở đâu?

- Tân Lập, Vĩnh Phú

- K mấy?

- K2. Biết ông Điềm không?

- Biết quá đi chứ.

Thế đó. Quá bất ngờ hơn, khi người share pḥng bấy lâu lại chính là người đă đưa cho tôi mảnh giấy báo tin ba tôi đau nặng tại pḥng thăm nuôi K2 trại cải tạo Tân Lập ngày nào.

Không thể nói hết sự kỳ diệu của định mệnh, khi sau 22 năm ngày mất, một sĩ quan tù binh cải tạo gặp lại người con của một bạn tù trên một đất nước quá xa vùng đất biên giới xa xôi.

Không diệu kỳ sao được, khi trong hàng triệu người Việt lưu lạc, có mặt trên hàng chục quốc gia, sống trên hơn 50 tiểu bang của Hoa Kỳ, tôi gặp lại đúng một người duy nhất đă đút cho ba tôi những muỗng cháo trắng cuối cùng trước lúc lâm chung.

Người đă sống với ba trong những tháng ngày bi thảm đó. Một trong 4 người bạn tù khiêng cha tôi về miền đất lạnh

Từ xưng anh, từ đó tôi gọi là chú, chú L. Hai chú cháu có những đêm thức trắng để kể chuyện về ba tôi.

Chú là người báo cho ba tôi biết hai mẹ con chúng tôi đang đợi chờ mỏi ṃn tại pḥng thăm nuôi. Duy nhất, chú là người bên ba để chứng kiến những giọt nước mắt cuối cùng tức tưởi của một người đang hấp hối.

Chú là người duy nhất nh́n thấy cặp mắt mong đợi mỏi ṃn của ba. Dù chỉ gần nhau trong gang tấc, trước khi ra đi vẫn không thể nh́n nhau một lời sau cuối.

Cám ơn chú L. Người bạn tù của ba tôi, ân nhân không bao giờ quên được của tôi. Sau khi nghỉ hưu, chú về ở với con gái nghe đâu ở tiểu bang Minnesota xa xôi. Chưa một lần chúng tôi gặp lại nhau. Nhưng dù ở bất cứ nơi đâu, cháu cũng cầu mong chú và những người thân yêu thật nhiều may mắn và b́nh an.

Và tôi tin rằng ở một nơi nào đó thật xa xôi, ba vẫn luôn dơi theo và che chở cho gia đ́nh chú cũng như cho mẹ con chúng tôi. Nếu có một kiếp sau, con vẫn sẽ là con của ba, người tù cải tạo chết ở miền đất biên giới Việt Trung, ngày 10 tháng 2 năm 1979.


Lê Xuân Mỹ

hoanglan22 10-11-2020 14:52

Hai lần vượt tù cải-tạo sau 30-04-1975
 
7 Attachment(s)
Đây là đoạn hồi kư của tôi trong những ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, và 2 lần vượt ngục tù cải tạo trong 3 năm sống với chế độ Cộng Sản. Hồi kư nầy tôi viết tại trại tỵ nạn Mă Lai, Tiểu bang Kelantan, Tỉnh Kotabaru.



Dĩ văng hiện lên đầu óc tôi như cơn ác mộng bi thương buồn thảm.!

…Ngày 21-4-75, tôi được báo cho biết có cuộc họp báo nơi pḥng Khánh Tiết (trong Dinh Độc Lập). Nội dung cuộc họp báo tôi chưa được biết, đó cũng là việc làm bảo mật thường ngày của khối Cận Vệ chúng tôi…

Cuộc họp báo lúc 19 giờ đêm 21-4-75.

Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức, bàn giao chức vụ lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương làm Tổng Thống theo Hiến Pháp do Lưỡng Viện Quốc Hội chỉ định.

Trong lúc chiến sự gay go nguy hiểm, Cộng quân đă chiếm toàn miền Trung và đang bao vây Tỉnh Long Khánh. Tin Tổng Thống Thiệu từ chức đă làm cho toàn thể Quân Lực đang chiến đấu với Cộng quân trên khắp các mặt trận bị giao động hoang mang mất hẳn tinh thần …

Đến chiều ngày 28-4-75. Tổng Thống Trần Văn Hương họp báo giao quyền Tổng Thống lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh theo yêu cầu của Lưỡng Viện Quốc Hội VNCH.

Ngày 29-4-75. Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam trong ṿng 24 giờ.

Cảnh tao loạn đă diễn ra khắp nơi trong đô thành, trong khi các phái bộ Hoa Kỳ cấp tốc rời khỏi VN do cuộc không vận khổng lồ từ các căn cứ ở Thái Lan, Phi Luật Tân và Hàng Không Mẫu Hạm Đệ Thất Hạm Đội chờ sẵn ngoài khơi. Trong lúc đó người dân VN cũng được không vận ra đi với các gia đ́nh nhân viên làm việc cho Mỹ, cũng trong số đó có cả quân nhân, công chức cùng thoát đi.

T́nh h́nh chiến sự càng lúc càng thêm nguy ngập, Cộng quân đă cắt hẳn các con đường vào thành phố và đang tập trung quân để bao vây đô thành….

Về phần tôi, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, 2 ngày sau tôi được lệnh hộ tống đưa Tổng Thống phu nhân lên phi trường để đi Đài Loan. Anh em Cận Vệ chúng tôi vẫn túc trực ứng chiến 24/24 tại Dinh Độc Lập.

Tôi được biết Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi từ chức vẫn c̣n ở lại trong Dinh Độc Lập cho đến đêm 25-4-75. Phái bộ Hoa kỳ vào Dinh “rước đi” cùng lúc với thành phần Nội Các chánh phủ của Ông.

Khối Cận Vệ lúc bấy giờ do Trung Tá Vơ Trung Thứ điều hành, và tất cả cận vệ viên từ sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ vẫn c̣n túc trực., v́ nhiệm vụ của khối Cận Vệ là bảo vệ vị nguyên thủ quốc gia . Khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra đi, chúng tôi lại có nhiệm vụ bảo vệ vị nguyên thủ đương nhiệm Tổng Thống Trần Văn Hương và rồi đến Tổng Thống Dương Văn Minh…



Đối với Ông Trần Văn Hương th́ tôi là một trong số những Người Nhái có nhiệm vụ bảo vệ cho Ông từ khi đang giữ chức vụ Thủ Tướng, Đại Tướng Nguyễn Khánh giải nhiệm Ông Trần Văn Hương vào năm 1965. Cộng Sản đă lên 7 bản án tử h́nh, BTL/HQ chỉ thị cho toán Người Nhái bảo vệ an ninh cho Ông.

Ông cụ mỗi đêm thường gọi tôi đến bên Ông ngồi chung trên chiếc vơng đong đưa trong tiền đ́nh của ngôi nhà Santa Maria tại Vũng Tàu..

Ông kể cho tôi nghe những mẫu chuyện trong đời Ông từ thời kháng chiến chống Pháp trong bưng biền và cho đến lúc Ông ra làm Đô Trưởng đô thành Sài G̣n Chợ Lớn, rồi đến chức vụ Thủ Tướng cho đến lúc bị giải nhiệm…Ông thân thiết và thường khuyên bảo tôi như con cháu trong nhà.

Được vài tháng sau tôi và một số NN trở về BTL/HQ để nhận công tác đo nước lập thủy đạo, cập nhật hải đồ các băi đổ bộ cho toàn miền Nam, từ Bến Hải đến Đảo Phú Quốc suốt mấy tháng trường..

Mải đến năm 1971, Ông Trần Văn Hương ứng cử Phó Tổng Thống chung liên danh với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống đề cử tôi làm Sĩ Quan trưởng toán Cận Vệ để bảo vệ cho Ông trong suốt thời gian Ông cụ đi vận động tranh cử cho đến khi đắc cử.

Sau lễ Đăng Quang nhậm chức Phó Tổng Thống, toán Cận Vệ chúng tôi trở về nhiệm sở khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống, Ông cụ gọi tôi vào và ngỏ ư muốn tôi ở lại làm việc cho Ông, tôi cám ơn Ông cụ và từ chối..V́ nhiệm vụ của toán Cận Vệ chúng tôi là bảo vệ cho Ông cụ và cùng lúc huấn luyện cho toán Vệ Sĩ của Phủ Phó Tổng Thống về các phương pháp bảo vệ an ninh cho yếu nhân do Đại Úy Cương (cháu ruột của Ông cụ) làm Trưởng Toán.

V́ có những liên hệ như trên nên khi Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống VNCH do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bàn giao, tôi lại nhận trách nhiệm Sĩ Quan Cận Vệ cho Ông cụ.

Đến ngày 28-4-75.Đại Tướng Dương Văn Minh nhận chức vụ Tổng Thống VNCH do Lưỡng Viện Quốc Hội yêu cầu Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao.. Đại Úy TBH (cháu ruột của Tổng Thống Dương Văn Minh) giữ chức vụ Trưởng Pḥng Cận Vệ, lại giao cho tôi và Chuẩn Úy Trang Đức cận sát để bảo vệ cho TT Dương Văn Minh. Đại Úy H. biết rơ và tin tưởng khả năng vơ thuật và tác xạ của tôi v́ Đại Úy Huệ phục vụ bên Vơ Pḥng Phủ Tổng Thống lúc trước, nên Đại Úy H. thường thao dượt luyện vơ với tôi. cũng v́ vậy mà tôi phải túc trực 24/24 .

Tối đêm 29-4-75. Cộng quân pháo kích vào đô thành khắp nơi, tôi và Thiếu Tá Trần Chí Đức Trưởng Toán 4 Cận Vệ, đang phân phối điểm gác tại tư dinh số 3 đường Trần Qquư Cáp, Đại Úy H. giao cho tôi tấm vải trắng để xé ra đeo trên cánh tay trái để làm ám hiệu, tôi nghi ngờ hỏi Đại Úy H. : Tại sao lại dùng vải màu trắng làm ám hiệu ? Đại Úy H. không trả lời. Thiếu Tá Trần Chí Đức Trưởng Toán 4 liền lên xe Jeep bỏ đi mất.

Một lúc sau thấy không an toàn v́ pháo kích nên Tổng Thống Minh và Nội Các chánh phủ cùng gia đ́nh vào dinh Độc Lập nghỉ đêm..

Trung Tá Vơ Trung Thứ họp Sĩ Quan chúng tôi lại và rưng rưng nước mắt : Có lệnh cấp trên, các Anh Em hăy nghe tôi..Hăy nghĩ đến gia đ́nh các anh .. mà theo lệnh cấp trên. Buông súng xuống !.Tất cả nhục nhă nầy tôi xin gánh chịu..các anh đừng nên chống lại nữa vô ích…

Trung Tá Thứ c̣n nói nhiều nữa…Nhưng tôi không c̣n nghe ǵ được nữa cả..uất hận tuôn trào.. Tôi cảm thấy chơi vơi..nhục nhă ..đau đớn ê chề.. Tôi nghĩ nếu chúng tôi thật sự chống trả th́ dầu cho Cộng quân có bao vây dinh Độc Lập bằng chiến xa, pháo binh hay tấn công bằng phi cơ, th́ chúng tôi cũng có thể giữ được ít nhứt là nửa tháng…Chúng tôi căm tức nhưng biết ḿnh cũng không xoay sở được ǵ..!

Sau khi suy tính cùng các anh em Cận Vệ, tôi và một số anh em cùng lên xe Jeep chạy đến Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ với hy vọng được rời khỏi Việt Nam trong những chuyến trực thăng di tản cuối cùng, chớ không thể bó tay đầu hàng Cộng Sản được..

Nhưng chúng tôi không thoát được định mạng đă an bài, v́ khi đến Ṭa Đại Sứ Mỹ nh́n thấy dân chúng đang chờ đợi ngoài ṿng rào đông quá, không thể nào trực thăng chở đi hết được v́ đúng 12 giờ đêm 29-4-75 là hết thời hạn di tản. Chúng tôi chờ măi đến 5 giờ sáng ngày 30-4-75…

Thất vọng và chán nản quá.. chúng tôi đành quay trở về dinh Độc Lập ..Đầu óc tôi cứ quay cuồng câu Nước Mất, Nhà Tan .

6 giờ sáng ngày 30-4-75.Chúng tôi hộ tống Tổng Thống Dương Văn Minh qua dinh Thủ Tướng để họp Nội Các. Cộng quân bắt đầu pháo kích mạnh hơn vào thành phố, dân chúng chạy loạn khắp nơi… 9 giờ sáng, 2 chiếc trực thăng dành riêng cho Tổng Thống cất cánh rời khỏi dinh Độc Lập do các sĩ quan phi công bỏ đi đúng như dự tính, nhưng v́ tôi không có mặt nên đành lỡ chuyến..Dự định của chúng tôi sẽ đi khuya đêm 29-4-75, nhưng sợ cất cánh ban đêm sẽ bị bắn v́ có lịnh giới nghiêm, nên phải đợi đến sáng.

Trung Tá Lân- Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn An Ninh Danh Dự, Thiếu Tá Hậu- Trưởng Khối An Ninh Phủ Thủ Tướng và tôi cùng bàn thảo nên thoát đi bằng cách nào, nhưng vẫn vô kế, v́ đường về miền Đông và miền Tây đều bị cô lập..Chúng tôi nh́n nhau mà ḷng buồn man mác..

Tiếng súng vẫn nổ vang rền trên các đường phố, máy truyền tin bên cạnh chúng tôi vẫn vang lên lời báo cáo khắp nơi về..Cộng quân đang giao chiến tại G̣ Vấp..Ngă Tư Bảy Hiền đă thấy bóng Việt Cộng…Cầu Nhị Thiên Đường đang đánh…Tiểu Đoàn Dù đang đụng độ dọc theo các chốt đóng trên xa lộ..v.v.

10 giờ 30, chúng tôi hộ tống TT Minh về dinh Độc Lập, trên tay chúng tôi khẩu súng đătrở thành vô dụng, v́ không được nổ súng trong mọi trường hợp…Anh em chúng tôi đưa mắt nh́n nhau mà không nói được lời nào…Rồi việc phải đến đă đến..Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, đúng như sự nghi ngờ về ám hiệu màu trắng tôi đă nêu trên..

Đầu hàng.. Đầu hàng à… Trời ơi !

Chúng tôi phải chịu nhục nhă như vầy sao ?

Tổ Quốc quấn khăn tang, mây che phủ đầu trên thành phố thân yêu…Hàng vạn nhà ra tro ra khói bốc cao trời..

Bài ca “Vuốt Mặt” như vang lên đâu đây…Làm cho tôi tê tái..giọng ca uất hờn..như tiếng nấc nghẹn ngào của Quê hương… VIỆT NAM ƠI .. VIỆT NAM ƠI !!

Thật không c̣n ǵ đau đớn cho bằng việc tôi nh́n thấy cảnh mất nước do một số người ham tranh giành ngôi vị..để rồi giờ đây đứng cúi đầu rước quân thù trên thềm dinh Độc Lập..nơi mà cả thế giới nh́n vào trên bốn ngàn năm lịch sử oai hùng của dân tộc.

***

Bắt đầu các tên Việt Cộng nằm vùng tiềm phục trong các cơ quan lộ mặt trong dinh Độc Lập th́ do tên thợ điện đứng ra tiếp thu rồi giao lại cho đơn vị bộ đội Hương Giang chiếm giữ.

Sau 5 ngày bị quản thúc tại dinh Độc Lập, chúng tôi được thả về để chờ lịnh tập trung cải tạo…Ḷng tôi tan nát không c̣n nghĩ suy ǵ được nữa cả..Tôi lang thang trên đường phố hết ngày nầy sang ngày khác. Từ thuở nhỏ cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ rơi nước mắt v́ bị thương tích của thể xác, nhưng sao bây giờ nước mắt tôi cứ tuôn ra không sao cầm lại được..

Đến ngày chúng gọi tất cả Sĩ Quan đi tŕnh diện học tập cải tạo mà tôi vẫn chưa nghĩ ra được cách nào để hoạt động chống lại bọn Cộng Sản v́ thời gian phải tŕnh diện quá ngắn và c̣n quá rối loạn, nên đành phải đi tŕnh diện học tập, mong nếu chúng giữ lời hứa là Sĩ Quan cấp Úy chỉ đi học tập cải tạo 10 ngày, sau đó mới có cơ hội hoạt động được.

Ngày 28-6-75 là thời hạn cuối cùng, tôi đến tŕnh diện tại trường Sơn Hà (Dakao). Đến 2 giờ sáng ngày 29-6-75, chúng điểm danh và đưa chúng tôi lên xe Molotova bỏ mui bố phủ kín lại trong khi di chuyển. Khoảng 4 giờ sáng đến nơi, có người biết nơi đây là Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 5 Công Binh (Thành Ông Năm) căn cứ nầy c̣n nguyên vẹn. Khoảng 9 giờ sáng bọn chúng ra lịnh chúng tôi đi thâu dọn tất cả đạn dược rơi rải khắp nơi trong trại để giao lại cho chúng. Riêng tôi vẫn nghi ngờ bọn chúng không thật sự giữ lời hứa, nên tôi lén đem giấu 5 trái lựu đạn M 26 nơi đốóng cát trước dăy trại của tôi ở.

Bắt đầu bọn chúng tổ chức chia chúng tôi ra từng khu vực, mỗi khu khoảng 150 người, mỗi đội gồm 5 hoặc 6 tổ, mỗi tổ 12 người. Tổ chức nhà bếp, nhà cầu và đào giếng nước. Tôi càng nghi ngờ hơn về chánh sách của bọn chúng, v́ nếu chỉ đi học tập trong ṿng 10 ngày th́ bọn chúng bắt chúng tôi phải làm tiện nghi có tánh cách dài hạn để làm chi ?.

Đến ngày thứ 3, chúng bắt đầu thâu tiền cơm 10 ngày, bọn chúng cho chúng tôi uống thuốc ngừa sốt rét ?, trong 5 ngày và phải uống trước mặt của chúng nó, tôi không tin v́ nghi ngờ nên chỉ ngậm trong miệng đem ra ngoài bỏ đi.

Lần lựa ngày nầy sang ngày khác, đă đến 10 ngày rồi mà bọn chúng không nói năng chi cả, có người hỏi th́ chúng trả lời các anh chưa học tập bài nào cả nên chưa về được. Rồi một tháng trôi qua chúng vẫn im ĺm..

BẮT ĐẦU NGHIÊN CỨU VÀ TỔ CHỨC VƯỢT TRẠI TÙ



Lợi dụng ban ngày c̣n đi qua lại các trại khác được, tôi qua khu trại kế bên để t́m người đồng tâm ư để sắp đặt kế hoạch từ trong trại nầy thoát ra rồi phải làm thế nào v.v.. Khoảng 2 tuần sau, tôi đătổ chức được 2 tổ, mỗi tổ là 2 người, tổ 1 tên Nam và Dũng, Nam là cháu của Giám Đốc Quan Thuế phi cảng Tân Sơn Nhứt, c̣n Dũng th́ có nhà thuốc Tây ở đường Bùi Viện Quận Nh́ Sài G̣n, gia đ́nh của 2 anh có ghe tàu sẵn, đang chờ 2 anh ra để vượt biên.

Tổ 2 Hoàng Trinh, Sĩ Quan Đại Đội Biệt kích Dù đă từng nhảy xuống Hạ Lào, và Nguyễn Hoành, Đại Đội Trưởng Biệt Động Quân. Anh Hoành biết được 2 thứ tiếng Thượng phổ thông. Dự tính tổ 2 khi ra khỏi trại sẽ vượt biên giới qua Thái Lan để t́m đường giây kháng chiến trở về giải phóng đất nước…Trong 2 tổ, tôi thích tổ 2 hơn v́ đồng quan điểm là chúng tôi phải làm ǵ cho quê hương đất nước chớ không thể khoanh tay.. Nhưng vẫn phải chờ cơ hội, v́ các anh đều c̣n hy vọng là được bọn CS thả về rồi mới xoay xở về sau.

Tháng thứ 2 đă trôi qua, bọn chúng bắt đầu cho học tập 10 bài chánh trị trong tháng thứ 3. Nội dung các bài có tánh cách phỉ báng chế độ VNCH, và ngụ ư tất cả người dân miền Nam đều có tội với cách mạng của bọn chúng qua nhiều h́nh thức khác nhau… Tháng thứ 4, sau khi học xong 10 bài, bọn chúng bắt tất cả phải khai tội đối với cách mạng, và dụ dỗ phải khai cho thật, chúng sẽ khoan hồng. v.v.

Tôi rất nóng ḷng v́ biết bọn chúng chẳng bao giờ thả tôi ra. Tôi giấu nhẹm không khai thành tích diệt Cộng Sản khi c̣n ở đơn vị Người Nhái đă từng tiêu diệt VC trong những lần phục kích và đột kích vào mật khu của chúng trong vùng Rừng Sát Nhà Bè, trong suốt mấy tháng hành quân phối hợp cùng với Seal Team Hoa Kỳ .. Nhưng tôi vẫn lo không biết là hồ sơ trong đơn vị c̣n nguyên hay đă được tiêu hủy trước khi chúng vào..

Tôi tổ chức một người bạn ngày trước làm việc tại BTL/HQ/P4. ở gần pḥng tắm của bọn cán bộ để lấy tin tức t́nh h́nh ở ngoài như thế nào, sau mấy tuần tôi được biết ở ngoài đă có biểu t́nh đ̣i chồng con đang đi học tập, và có đụng độ ở Đèo Cheo Reo và Đèo An Khê, Ban Mê Thuột có pháo kích do phần tử ly khai của Quân Đội VNCH thực hiện..

Những tin nầy càng làm cho tôi tin chắc các Sĩ Quan sẽ khó mà được chúng thả về. Tôi đem tin nầy bàn với tổ 1, Nam và Dũng đều không dám vượt rào, tôi đành phải nói xuôi theo là cùng chờ đợi..Tôi bàn với tổ 2 , Hoành và Trinh hơi ngần ngại, nhưng tôi khích động nên 2 anh đồng ư vượt rào, kế hoạch từ trong ra ngoài th́ bên của ai nấy lo, và hẹn điểm gặp nhau ngoài ṿng rào là băi tha ma cách ṿng rào phía Đông chừng 700 thước.

Tôi đem những điều đă nghiên cứu như sau cho Hoành và Trinh biết :

Hệ thống pḥng thủ : Cô lập từng khu; an ninh mật báo từng tổ (v́ thế mà tôi không tổ chức vượt rào trong đội của tôi); giới hạn đi lại qua con đường nhựa; ban đêm có lính gác đôi lưu động có đèn rọi sáng cả con đường nhựa; bờ đê cao 2 thước; 6 lớp Consertina;4 lớp rào kẽm gai, rào đứng, xiêng, ngang và hào chống chiến xa sâu 4 thước, rộng 5 thước; 2 giờ đổi gác 1 lần;ở ngoài ṿng rào khoảng 2 giờ có toán tuần tiễu (đoán theo tiếng chó sủa).

Khi thoát ra đến điểm hẹn ngoài ṿng rào nơi băi tha ma, nếu quá 2 tiếng đồng hồ không gặp nhau th́ tự t́m về Sài G̣n, qua ngày sau sẽ gặp nhau tại điểm hẹn ở xa lộ Biên Ḥa, trễ nhứt là ngày thứ 3 sau khi ra được phải gặp nhau để bàn tính thêm kế hoạch vượt biên giới…Bây giờ chúng tôi chỉ c̣n chờ cơ hội và thời tiết thuận tiện.

***

Đời sống của các Sĩ Quan VNCH trong các trại giam cầm mà bọn CS gọi danh từ thật hoa mỹ là “Học tập cải tạo” thực ra chỉ để trả thù tập thể Quân Đội VNCH, giết lần ṃn v́ đói thiếu dinh dưỡng, bịnh tật v́ không có thuốc men. Trong tổ của tôi có anh bạn Trần Văn Hồ bị bịnh tiêu chảy suốt 1 tuần lễ mà pḥng Y Tế không cho một giọt thuốc nào cả, đến tuần lễ thứ 2 th́ bịnh biến chuyển qua kiết lỵ, anh em cùng tổ lo cho nhau chớ pḥng Y Tế không ngó ngàng ǵ đến.. Ăn uống quá thiếu dinh dưỡng, chỉ trong ṿng 2 tháng mà trại đă có khoảng 40% bị liệt bại.

Tôi nghi ngờ là bị chúng đầu độc bằng thuốc mà bọn chúng đă cho uống khi mới vào trại, từ khi uống thuốc vào, khoảng chừng 2 tháng rưởi sau, đang đứng mà té lúc nào chẳng hay.

Trong suốt gần 4 tháng mà chúng tôi chỉ ăn được mỗi tháng một lần thịt heo, mỗi người được khoảng 8 gram thịt, mỡ lẩn da . Tôi nghĩ may là trại nầy c̣n được mấy con heo do trại gia binh quân đội VNCH bỏ lại, nên bây giờ chúng tôi mới được ăn thừa của bọn chúng bỏ ra cho.. Thèm thịt, thiếu mỡ, không đường, nên chúng tôi bắt tất cả con ǵ ăn được mà ăn như chim chóc, rắn rết,chuột, ếch, cóc nhái, ảnh ương .v.v.

C̣n về tinh thần anh em Sĩ Quan th́ lụn bại thê thảm, tất cả đều bi quan về cuộc chiến thảm bại vừa qua, ư nghĩ của họ mong mỏi được CS khoan hồng mà thả họ về với gia và đ́nh phục hồi đời sống cũ …Cũng trong trại tôi có gặp 2 người bạn ở trại kế bên , một anh lúc trước chỉ huy toán pḥng không dinh Độc Lập, thuộc Toán 4, khi chiếc phản lực cơ do tên phản nghịch Nguyễn Thành Trung, mang bom dội vào dinh Độc Lập, anh đă kịp thời bắn chận nên lần thứ 2 bom thả đălệch ra ngoài v́ không c̣n chính xác , và anh Trưởng Toán gác dinh Độc Lập. Tôi đem ư định vượt rào th́ anh nào cũng không dám thực hành mà cũng chỉ mong được thả về đoàn tụ với gia đ́nh…

Thời cơ đă đến do việc chúng nó phát động phải tích cực lao động nặng. Tôi suy đoán là chúng nó sắp chuyển chúng tôi đến trại khác xa xôi và làm việc nặng nhọc hơn. Tôi bàn tính với Hoành và Trinh nếu để chúng đưa đi trại khác th́ chúng ta không thể biết được t́nh h́nh nơi đó, nếu muốn vượt trại chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, tôi đề nghị vượt trại vào ngày 17-9 âm lịch là ngày 21-10-75. Hoành và Trinh hỏi tôi tại sao lại chọn ngày trăng tṛn mà ra ? Tôi trả lời :

Ḿnh chọn ngày đó là v́ yếu tố bất ngờ, bọn chúng nghĩ chúng ta không dám ra trong những đêm có trăng sáng, chúng sẽ chểnh mảng hơn, và kế hoạch tôi là sẽ vượt ra lúc 8 giờ tối, sau 7.30 giờ điểm danh th́ bọn chúng thay vọng gác mà đi tuần dưới đất, và trước 9 giờ giới nghiêm, và giờ đó trăng chưa mọc. C̣n thoát ra th́ 2 anh nghiên cứu như thế nào th́ hăy cố gắng vượt ra, c̣n tôi th́ đă có cách riêng. Chúng ta phải đi riêng rẽ, chúng nó khó phát giác hơn.

Tôi khích động tinh thần 2 anh :

“Chúng ta toàn là tay thiện chiến, Biệt Động Quân, Biệt Kích Dù và Người Nhái, chúng ta phải chứng tỏ cho chúng nó biết khả năng của chúng ta”.

Tôi tiếp: Tôi nói thật với các anh, nếu ngày mai nầy chúng nó thả tôi ra mà ngày hôm nay có cơ hội tôi cũng thoát ra trước khi chúng nó thả..

Tôi khích động tinh thần và danh dự Binh Chủng của các anh nên 2 anh đồng ư theo chương tŕnh đă hoạch định cho ngày 21-10-75.

***

Vượt trại.! Vượt trại !!

Tiếp theo có tiếng súng nổ và tiếng kẻng đánh liên hồi…và lịnh tập họp điểm danh lúc 2 giờ khuya đêm 14-10-75. Tập họp điểm danh, báo cáo quân số xong, chúng tôi được biết có 2 Sĩ Quan cấp Đại Úy đă vượt rào bị phát giác và bị bắn chết 1 anh tại hàng rào và 1 anh bị thương nơi chân, chúng kéo lôi anh nầy vào để tại hội trường để cảnh cáo chúng tôi hăy xem đó làm gương…Sáng ngày các anh em bó chiếu xác anh đă chết và chôn tại chỗ, c̣n anh bị thương th́ chúng mang đi đến các trại khác để cảnh cáo.

Sự việc xảy ra đă làm cho Hoành và Trinh mất tinh thần không ít. tôi cố gây niềm tin cho 2 anh, phân tách kỹ những lỗi lầm của nạn nhân cho Hoành và Trinh thấy : Các anh đó chọn thời điểm không đúng, 2 giờ khuya thanh vắng quá, nhằm ngày mồng 9 âm lịch, giờ đó có trăng non, và mặc đồ màu xanh lợt nên dễ bị phát giác, và c̣n nhiều chi tiết mà tôi không biết rơ..

Chúng tôi cùng kiểm soát lại kế hoạch xem coi có cần bổ khuyết hay không ?! Và chúng tôi cương quyết vượt trại giam, với tinh thần bất khuất, bất chấp mọi nguy hiểm sẽ xảy ra cho ḿnh. Tôi rất tin tưởng ḿnh sẽ vượt ra an toàn..Chúng tôi chờ đợi chỉ c̣n đúng 1 tuần là đến ngày quyết định với cảnh giác căng thẳng tột độ..

21-10-75. Ngày, giờ quyết định đă đến, lúc 7giờ tối tôi mang qua trại của 2 anh Hoành và Trinh 3 trái lựu đạn M 26 (tôi đă giấu trong đống cát như đă kể trên) c̣n tôi giữ lại 2 trái. 2 anh ngạc nhiên, tôi giải thích cho 2 anh biết và căn dặn, nếu lỡ bị phát giác khi trốn ra th́ phải hy sinh chớ đừng để chúng nó bắt lại

.. Chúng tôi cùng kiểm điểm lại lần cuối cùng kế hoạch đào thoát. Hoành là người hoạt bát và nhờ thế nên Hoành đă nhờ cán bộ mua giùm 100 gr café và đường cách nay hơn một tháng, tôi đă dặn Hoành để dành lại cho ngày hôm nay 3 ly café đặc. Chúng tôi vừa uống vừa tính toán, khi xong hết, Hoành nói là cần mang theo mền và mùng v́ đó là kỷ niệm đời binh nghiệp của anh. Tôi không đồng ư nên ngăn cản .

Trong lúc đó lại thấy gió thổi mạnh và mây đen kéo đến làm cho anh em chúng tôi lên tinh thần vô cùng, tôi thầm nhủ “Trời thương anh em chúng con rồi !”.

19giờ 30 là giờ tập họp điểm danh, tôi từ giă Hoành và Trinh hẹn đúng 20 giờ vượt trại và gặp nhau ngoài điểm hẹn tại băi tha ma. Tôi lần ra hàng rào kẽm gai cô lập trở về trại ḿnh. Tôi đă tạo thói quen là cứ đến khoảng 19 giờ là tôi giăng mùng sẵn để các người cùng tổ không để ư tới tôi, hôm nay cũng vậy. tôi từ bên trại của Hoành và Trinh về, tập họp điểm danh xong tôi liền vào mùng nằm, chừng 20 phút sau, tôi ra đi tiểu, lúc nầy gió thổi rất mạnh, mưa bắt đầu rơi, trại chúng tôi cũng như trại của vệ binh VC đều lo đóng cửa sổ, thừa lúc lộn xộn đó tôi vội bước qua hàng rào kẽm gai lọt qua khu vực của vệ binh VC, đi nhanh ra bờ đê và lăn nhanh qua bờ đê, tôi nằm im để nghe động tịnh và móc ra 2 miếng cao su, (Tôi lấy ruột xe mà bọn VC bỏ lại khi chúng cắt các vỏ xe máy ủi đất để làm dép, tôi đă cắt lỗ để xỏ mấy ngón tay và đem cất giấu) tôi mang 2 bao tay giă vào và ḅ đến hướng đă định, dùng bao tay giả đó để nâng đỡ kẽm gai, lách ḿnh chui qua, tôi làm rất thận trọng, nhanh nhẹn và chính xác, v́ tôi đă nghiên cứu thật kỹ từ loại kẽm gai và cách thức rào ra sao như rào đứng th́ bợ lách như thế nào, rào xiên th́ phải nâng đẩy và đưa chân nào ra trước, rào thấp ngang mặt đất th́ phải nằm ngửa và đỡ từng sợi kẽm gai, rào consertina phải lách và chun qua làm sao…V́ thế nên vượt qua 10 lớp kẽm gai hàng rào và hào chống chiến xa, chỉ trong ṿng 15 phút đến 20 phút th́ tôi đă có mặt ngoài hàng rào rồi, tôi tiến nhanh vào lũy tre cách hàng rào khoảng 50 thước ẩn ḿnh vào bóng tối của lũy tre để tránh đường chân trời..

Mưa bắt đầu nặng hột, tôi thu ḿnh dưới lũy tre cố giương mắt nh́n về hướng điểm hẹn băi tha ma cách đó khoảng 100 thước, v́ đề pḥng 2 anh bạn bị lộ có thể chỉ điểm cho cán bộ bao vây.

Cơn mưa kéo dài đến khoảng 11 giờ đêm, vẫn không thấy bóng dáng của Hoành và Trinh, c̣n ở trong khu trại giam cũng không nghe báo động. Mưa đă tạnh lần, tôi di chuyển ngược lên hướng đào thoát của Hoành và Trinh để đón cũng không thấy tăm hơi chi cả. Tôi nóng ḷng, suy nghĩ không lẽ 2 anh bạn nầy không dám vượt ra ?. Càng về khuya càng cảm thấy nhiều nguy hiểm ! Nhưng tôi vẫn cố gắng đợi chờ, câu hỏi tại sao, tại sao cứ loanh quanh trong đầu óc của tôi. Cảnh đêm khuya hoang vắng cạnh băi tha ma trong rừng chồi nó âm u làm sao !. Tôi cố chờ măi đến khoảng 2 giờ khuya, bầu trời lại bắt đầu vần vũ, mây đen kéo đến mờ mịt. Biết sắp có trận mưa to, tôi lo ngại quá, v́ điểm hẹn chỉ cách hàng rào trại giam có khoảng 700 thước..Trời mưa mà tôi đổ mồ hôi hột v́ lo cho 2 bạn của ḿnh, tôi không nở bỏ đi. . Nhưng ở lại th́ thập phần nguy hiểm có thể bị chúng bao vây bắt lại..

Tôi đang suy tính bỗng nghe có tiếng nói và tiếng chân người đi tới, tôi cấp tốc nép ḿnh vào bụi cây, ḷng hoang mang hồi hộp chờ đợi.. Khi đoàn người đến gần, tôi lắng nghe tiếng nói chuyện … À ! th́ ra là những người dân trong thôn xóm đang gánh rau cải ra chợ bán.! Ư nghĩ thoáng nhanh trong đầu tôi, ḿnh phải rời khỏi nơi nguy hiểm nầy trước, về Sài G̣n rồi sẽ gặp nhau tại điểm thứ 2 an toàn hơn, v́ địa thế nơi đây tôi không biết nên sẵn dịp nầy tôi nương theo những người gánh hàng để tránh các chốt chận khám xét của VC.

Và tôi đă ra đến chợ Hốc Môn, tôi đón chuyến xe đ̣ sớm nhứt và về đến Sài G̣n lúc 7 giờ sáng. Tôi đến nhà người bà con bên vợ để hỏi thăm tin tức và liên lạc với vợ con , tôi và vợ con gặp lại nhau sau 6 tháng qua người bà con nầy, tôi ở tạm đây vài hôm để liên lạc với Hoành và Trinh, nhưng suốt mấy ngày liền tôi đến điểm hẹn đều không có tin tức của 2 anh. Vợ tôi cũng đã thay tôi liên lạc với gia đình của Hoành và được biết không có tin tức gì về Hoành cả. Thế là chương tŕnh dự tính vượt biên giới qua Thái Lan không thành.!

***

Sau mấy ngày ở tạm nhà người bà con, tôi từ giă và di chuyển qua nhà anh Nguyễn Thành Nhơn ở tạm phía sau để liên lạc lại với các anh em đồng chí hướng.

Trước năm 1975. Anh Nguyễn Thành Nhơn, là Chủ Tịch Tổng Cuộc Phong Trào Thể Dục Thẩm Mỹ Việt Nam và cũng là Chủ Tịch Tổng Cuộc Thám Hiểm và Săn Bắn Cá Dưới Biển VN. Giám Đốc Chương Tŕnh Sức Khỏe Giống Ṇi , Chương Tŕnh Con Kiến Càng trên Đài truyền h́nh VN.. Đối với tôi, anh Nguyễn Thành Nhơn là người Thầy và cũng là người Anh tinh thần của tôi, v́ trước khi nhập ngủ vào Quân Đội tôi đă được anh huấn luyện trở thành Huấn Luyện Viên của pḥng tập Trung Ương.

Tôi ở ẩn trong nhà anh và thường xuyên liên lạc với các anh em cùng đơn vị(Xin tạm dấu tên v́ các anh em c̣n đang ở VN). đang chờ đợi những đường dây yểm trợ từ ngoài về để cùng nhau hoạt động lật đổ chế độ Cộng Sản bạo tàn nầy..

NGÀY ĐỊNH MẠNG ĐƯA TÔI VÀO TÙ LẦN THỨ NH̀
(Ngày 9-4-76-Sau 6 tháng vượt trại tù Thành Ông Năm) .

Vào lúc 7 giờ tối, tôi đang đứng chờ vợ tôi làm việc ở ṭa soạn báo Tin Sáng, măn việc ra về, tôi đón nàng để đưa lại chiếc xe velo solex cũ (không có gắn máy) V́ thương con sợ con bị kẹt chân vào bánh xe làm con đau v́ nó đă bị kẹt một lần rồi nên tôi vừa gắn chiếc yên nhỏ để cho vợ tôi chở con tôi..V́ thân phận vượt tù nên tôi phải trốn tránh không thể để cho bà con thân thuộc biết được. Tôi đang đứng chờ đợi ở trước trụ sở Khóm mà tôi không biết v́ chúng không có treo bảng, khoảng chừng 15 phút, tôi thấy 2 tên Công An trong trụ sở đi đến hỏi giấy tờ của tôi, tôi lo sợ nhưng không c̣n tránh né được nữa đành phải đưa giấy tờ ra, chúng giữ giấy tờ của tôi và mời tôi vào trụ sở, tới lúc đó tôi mới biết là đang đứng trước hang cọp. Vừa lúc đó vợ tôi nghỉ việc ra về vừa đi tới, tôi vội trao chiếc xe cho vợ tôi và dặn “Anh đang bị theo dơi em hăy đi nhanh đi..hăy lo cho con..”

Rồi tôi theo Công An vào trụ sở. Sau khi xem giấy tờ tên Công An nghi ngờ giấy tờ của tôi là giả, nên giữ tôi lại để chờ điều tra lại địa chỉ. Ḷng tôi lúc đó như lửa đốt v́ tôi biết sẽ không thoát được, giấy tờ của tôi toàn là giả th́ làm sao chứng minh được ?

Tôi nghĩ hậu quả sẽ vô cùng thảm khốc, nên có ư định hạ tên Công An đang canh gác. Tôi xin đi tiểu để xem địa thế. Xung quanh ṭa trụ sở nầy tường cao khoảng 2 thước phía trên đầu tường có gắn miểng chai lại c̣n 1 ṿng kẽm Consertina, phía sau có dăy nhà bếp, pḥng chứa củi và nhà cầu, trên nóc nhà cũng có ṿng kẽm gai Consertina. Tôi vào pḥng tiểu, suy tính chỉ có phía sau là hy vọng nếu nhảy qua được phía bên nhà khác…Tôi nghĩỉ đă đến đường cùng rồi nên quyết định hy sinh nếu không thoát được th́ thôi !. Tôi ra khỏi nhà cầu và bước theo tên Công An bất thần tung ra một quả đấm vào hàm hạ của tên nầy, nhưng rủi thay, tên nầy trước khi bị ngất xỉu đă la lên một tiếng, tôi chạy nhanh lấy đà đạp lên thành tường nhảy lên nóc nhà phía sau, chạy dọc theo đường kẽm gai, trong lúc đó bọn Công An túa ra và bắn theo tôi, tôi vẫn cố chạy trên nóc nhà,dự tính nhảy qua nóc nhà khác, bỗng tôi bị trượt chân v́ miếng ngói tróc xi măng nên đành nhảy trở xuống đất.. Thôi rồi ! Mặc t́nh cho bọn Công An xúm lại c̣ng tay tréo ra sau rồi chúng thi nhau đấm đá vào thân thể tôi, chúng treo tôi lên cửa sắt với chiếc c̣ng sắt, sức nặng của thân h́nh trên 60 kư lô mà bị treo hỏng chân tréo tay như thế, nên tôi không c̣n sức chịu đựng với những trận đ̣n như mưa bấc..Thân ḿnh tôi gục xuống như tàu lá rủ..

Sáng hôm sau chúng đưa tôi lên khẩu cung, Để tránh liên lụy cho anh Nguyễn Thành Nhơn, tôi khai theo lời sắp sẵn là “sĩ quan trốn trại học tập về thăm nhà, nhưng không dám về nhà v́ biết Công An canh chừng nên phải lang thang ngoài chợ trời, đêm đến th́ mướn chiếu ngủ ngoài nhà ga xe lửa. v.v”. Sau đó bọn chúng giải tôi qua pḥng giam Quận Nh́, trên đường đi tôi có ư định nhảy xuống xe nhưng không có cơ hội v́ chúng nó c̣ng tay tôi chung với ông kư giả Trần Hồng Thu. Đến Quận Nh́, sau khi làm thủ tục, chúng đem tôi và ông Thu vào pḥng giam.

Trại giam quận 2 Sài Gòn.

Nơi đây thật đúng là địa ngục ở trần gian! Chúng vừa mở 2 lớp cửa sắt ra, mùi hôi nồng nặc, chúng xô tôi vào trong rồi khóa cửa lại. Cảm tưởng cửa tôi nơi đây như là nhà thương điên…Trong ánh sáng âm u tôi thấy không biết là bao nhiêu người, thân h́nh gầy guộc trần truồng như nhộng. Lớp th́ bất động miệng thều thào..C̣n những người mạnh hơn th́ bao quanh tôi, xô đẩy nhau dành được đến gần tôi, thật là một cảnh tượng kỳ lạ mà tôi chưa bao giờ thấy. Tên đại diện trại giam phải đánh đập la thét những người nầy mới chịu dang ra khỏi tôi, tên đại diện hỏi tôi có mang theo thuốc lá không ? Tôi trả lời không có v́ tôi không biết hút thuốc. Tốp người vây quanh tôi mới thở dài chán nản. À ! th́ ra các người tưởng tôi mới vào có đem theo thuốc lá nên mới tranh nhau để xin thuốc lá. Tên đại diện trại giam đưa tôi vào trong một pḥng giam phía trong nữa rồi khóa lại. Các người vây quanh hỏi thăm tôi đủ chuyện , tôi chán nản ngồi bó gối không muốn trả lời, v́ biết có trả lời cũng không xuể.

Đời sống trong trại giam nầy chắc không có ai tưởng tượng được, pḥng c̣n để bảng pḥng giam rộng 8 thước vuông , phạm nhân giam chứa tối đa là 40 người, nhưng bọn CS đang giam gần 300 người. Nơi đây nếu người nào đứng lên th́ mất chỗ ngồi, và không đủ không khí để thở, v́ vậy mà đêm ngày ǵ phạm nhân cũng ḿnh mẩy ướt đẫm mồ hôi, ăn uống không có dinh dưỡng, một bữa ăn là 2 chén cơm lường bằng chén nhỏ cho mỗi người, đổ chung vào cái thau nhôm với 4 giá canh rau muống nấu với muối hột, 6 người ăn chung với 3 chiếc muỗng chia nhau múc ăn, v́ tranh ăn nên bữa ăn nào cũng căi vă, đánh đấm nhau , ồn ào suốt ngày đêm..Ban đêm th́ nằm sắp chồng lên nhau, tới lỗ cầu tiêu cũng được nhét giẻ lại để nằm, các song sắt trong hai pḥng giam riêng cũng được chia nhau đeo vào song bằng chiếc áo lót cột ngang lưng để ngủ.

V́ t́nh trạng nêu trên nên những người bị bắt vào đây chỉ trong ṿng 2 tháng là bắt đầu bị ghẻ, loại ghẻ thiếu dinh dưỡng nầy nổi lên thành vành chính giữa th́ lơm sâu và chảy nước vàng. Nước vàng nầy chảy đến đâu th́ ghẻ lở chỗ đó, và sau đó bị liệt bại, ban đêm bị ghẻ lở hành hạ, bịnh nhân la khóc vang trời..Tôi có cảm tưởng như đang ở Địa ngục, thỉnh thoảng có người chết v́ liệt bại, thân xác nạn nhân dược lôi ra khỏi pḥng.

Tôi cố gắng giữ sức khỏe, hàng ngày đều tập thể dục, chạy bộ 400 bước, hít đất 100 cái, tập tay mỗi bên 60 cái. Chịu đựng được đến tháng thứ 5, tôi cảm thấy yếu lần.

Dự tính phá trại giam Quận Nh́.

Tôi đă có ư nghĩ phải phá trại giam nầy từ ngày đầu khi đặt chân vào đây nhưng chưa t́m được người thích hợp nên phải chờ đến bây giờ.

Trong thời gian ở đây tôi quen với một ông Trưởng Ty Xă Hội tại Tỉnh ở Cao Nguyên (Xin tạm dấu tên v́ c̣n đang ở Việt Nam) Ông là đảng viên của Đại Việt. Ông thường kể cho nghe về quá tŕnh hoạt động của Đảng và về cá nhân của Ông.

Vào khoảng một tháng nay, tôi để ư theo dơi một người bị bắt về tội tư sản mại bản, v́ tồn trữ 60 tấn café sống mà không khai báo, tên là Hồ Ngọc Ẩn …Nhà ở đường Tự Do ..,Mỗi tuần đều phải lên pḥng Điều Tra lấy khẩu cung , tôi làm quen và hỏi thăm ư định sau nầy của anh, anh cho biết là không thể chịu đựng nổi ở nơi đây, và anh có ư định trốn ..Tôi gợi ư hỏi Ẩn, nếu muốn thoát ra , anh phải làm sao?. Ẩn nói về cách trốn của Ẩn, tôi thỉnh thoảng bổ túc cho Ẩn, tôi thấy Ẩn có vẻ vui mừng..

V́ tôi nóng ḷng t́m người để thực hiện kế hoạch của tôi nên tạm chọn Ẩn, nhưng tôi chưa cho Ẩn biết ư định của tôi. Ngày hôm sau Ẩn được gọi lên lấy khẩu cung lúc 8 giờ sáng th́ khoảng 9 giờ có tiếng gọi tên tôi và Ông Trưởng Ty , khi tôi và Ông vừa ra khỏi pḥng giam th́ đă có tên Cán Bộ Trưởng trại và 2 tên Công An ôm súng AK, tên Cán Bộ ra lịnh c̣ng tay tôi và ông Trưởng Ty rồi day qua chỉ mặt và nói với tôi : “Tao đă biết kế hoạch của chúng mày rồi, dự định chúa nhựt nầy sẽ giết Cán Bộ, cướp vũ khí, phá trại giam”, rồi quay lại bảo 2 tên Công An đem chúng tôi qua trại giam đặc biệt. Pḥng giam đặc biệt bề dài 3 thước, bề ngang rộng 1. thước, nhốt 10 người, tiêu tiểu tại chỗ, lỗ thông hơi để thở th́ vừa lọt bàn tay, và đến giờ cơm được bọn cán bộ đưa vào mỗi tù nhân là một chén cơm đút vào vừa lọt cái lỗ thông hơi..Sự việc xảy ra tôi nghĩ là do tên Hồ Ngọc Ẩn phản bội đă báo cáo với Công An để lập công .

Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại!

Ngày ở trong tù sao mà dài lê thê, ngột ngạt, nặng nề ghê gớm vô cùng.

Ngồi bó gối, tôi ôn lại những chuỗi ngày trong tù cải tạo lần trước..

-Thiếu Úy Trần tấn Mao, Sĩ Quan tiếp liệu Người Nhái đă buồn rầu, khóc thương cho gia đ́nh 14 đứa con đói khổ của ḿnh, tôi thường khuyên và gợi ư vượt trại với anh. Nhưng biết ḿnh già yếu, không đủ can đảm vượt trại..Anh chỉ mong được Cộng Sản giữ lời khoan hồng thả anh về đoàn tụ với gia đ́nh.. Anh khóc măi.. Khóc đến mù đôi mắt..!

Tôi buồn ..Tôi suy tư, những h́nh ảnh sắt máu gớm ghê chẳng bao giờ tôi quên được.! Tôi căm thù, uất hận. Tôi nguyện sẽ đem hết sức ḿnh để làm những ǵ mà tôi có thể làm được, để đóng góp cho ngày lật đổ Cộng Sản, giải phóng quê hương được trở lại ngày tự do tươi sáng..Nước mắt tôi rơi.. Đúng tôi khóc chứ ! tôi khóc v́ căm thù, v́ uất hận, hổ thẹn lớp người chúng tôi đă để mất nước…Việt Nam ơi.. Việt Nam ơi !.. Chúng con phải làm sao ? phải làm ǵ cho tổ quốc ?. Rồi bây giờ tôi lại đang sa vào lao lư, biết bao giờ tôi thoát được nơi đây?!

Sau 10 ngày giam tôi nơi biệt pḥng để chúng điều tra lại, nhưng không ra manh mối, nhưng chúng không dám trả tôi về pḥng giam cũ, chúng chuyển tôi qua pḥng giam Quận Nhứt kiên cố hơn. Tôi vừa vào pḥng giam th́ đă thấy 2 người bị giam bên quận 2 là anh Tiến, Trung úy Cảnh Sát và Ông Trưởng Ty. Chúng tôi chào mừng nhau và với các bạn tù mới, trong pḥng giam nầy có một băng đảng cướp có súng nổi tiếng trước năm 75, là băng đảng Đà Lạt. Trong khoảng thời gian trước năm 75, băng đảng nầy đă từng tranh giành ảnh hưởng khu vực làm ăn của nhau với băng đảng Đại Cathay ở vùng Sài G̣n ..Bằng đại diện cho 4 anh em trong băng đảng, đến gặp tôi chào hỏi và ngỏ lời nhờ tôi đứng ra sắp xếp kế hoạch phá trại giam nầy, Bằng nói : “Tụi em đă nghe tiếng anh đă từng vượt trại tù cải tạo, và vừa rồi lại bị bể kế hoạch phá trại giam ở Quận Nh́ .v.v”. Tôi chỉ cười mà không trả lời.

Mỗi ngày Bằng và các anh em đều đến ngồi chung và tâm sự. Bằng kể lại chuyện xưa và nói : “Chúng em ngày trước chỉ biết ăn chơi du đăng du thực, phá phách .. trốn tránh không chịu đi lính để bây giờ chúng nó chiếm miền Nam tất cả đều đói khổ .Bây giờ tụi em hối hận quá! Mong nếu tụi em ra được lần nầy, tụi em nhứt định phải t́m cách phá tụi nó..”

V́ tôi vừa bị phản bởi tên Ẩn, nên thận trọng hơn, tôi đă nghĩ cách phá chỗ nầy rồi nhưng c̣n giữ kín. Tôi hỏi Bằng và anh em có được thăm nuôi không ? Bằng đáp hàng tuần đều được thăm nuôi, tôi nói với Bằng hăy bảo người thăm nuôi gởi vào một típ kem đánh răng chứa Acid nguyên chất, khi nào có rồi th́ cho tôi hay và tôi dặn Bằng đừng hỏi tại sao, Bằng thấy tôi đă chịu giúp th́ rất vui mừng, hứa sẽ làm theo lời dặn của tôi.

Sắp đặt kế hoạch phá trại giam Quận Nhứt.

Nhưng đêm 4-10-76, cán bộ vào thông báo ngày mai tôi và một số người sẽ chuyển trại trong đó có ông Trưởng Ty và Tiến. Tin nầy làm cho Bằng và các anh em trong băng đảng lo buồn, Bằng nói : “Anh rời khỏi nơi đây tụi em không biết làm sao!”. Tôi bèn họp các anh em Bằng lại và nói : “Trước khi tôi đi, tôi sẽ chỉ kế hoạch lại cho các anh, bây giờ các anh em cho tôi biết trong pḥng giam nầy chỗ nào yếu nhứt ?”. Anh em Bằng nói : “Tụi em ở đây gần một năm rồi mà vẫn không nghĩ ra v́ tường dầy 2 tấc, song sắt to bằng cườm tay, nóc và nền đúc xi măng, cửa sắt phải 2 người mở, đóng mới nổi..” Tôi nói : “Tất cả đều kiên cố, các anh thấy cánh cửa sắt dầy và nặng nhưng 2 cái bản lề là chỗ yếu nhứt, các anh em vẫn chưa hiểu?”.

Tôi bắt đầu chỉ kế hoạch dự tính phá trại giam nầy. Khi có típ acid nguyên chất rồi th́ mới lo các phần khác như dưới đây :

· Chọn ngày giờ cho thích hợp

· Chuẩn bị một người giỏi vơ .

· Một chiếc xe đậu sẵn vào giờ đó tại đường gần nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi.

Bắt đầu vào kế hoạch :

– Chọn đêm Chúa nhựt, lúc 1 giờ khuya (chúng đổi gác lúc 12 giờ khuya , chọn 1 giờ khuya là lúc tên gác buồn ngủ.)

Đúng giờ đă định, đem típ acid nguyên chất đổ vào 2 bản lề cửa sắt, khoảng 15 phút sau, 2 người khiên cánh cửa sắt qua một bên, người giỏi vơ chạy nhanh ra hạ tên lính gác cướp lấy súng, cách pḥng giam 2 tấm vách tường, trong lúc đó tất cả các anh em đồng chạy lên pḥng trực, hạ sát 3 tên đang ngủ và lấy súng đạn rồi chạy xuống đánh thức tất cả tù nhân cho họ hay là Phục Quốc Qquân đến giải vây và chỉ cho tất cả chạy ra cổng chánh, c̣n các anh em th́ phải vượt tường rào phía nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi để lên xe đậu sẵn nơi điểm hẹn .

Điểm quan trọng là phải nhanh lẹ chính xác và cố gắng làm thật im lặng và đừng nổ súng nếu thấy không cần thiết. V́ khi đó mà bị náo động th́ rất nguy hiểm, các điểm gác khác sẽ báo động, các anh em sẽ khó thoát thân.. Các anh em phải xem lại thật kỹ để biết rơ nhiệm vụ của mỗi người mà làm cho thật gọn..Các anh em phải nghĩtrong đầu ḿnh là chỉ được thành công chớ không được thất bại..

Sau khi nghe tôi tŕnh bày sắp xếp kế hoạch, anh em của Bằng rất vui mừng, ôm vai tôi tỏ ḷng biết ơn…

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi những người có tên trong danh sách chuyển trại, chúng c̣ng tay chúng tôi lại với nhau đưa lên xe Molotova phủ mui bố xuống, xe chạy đưa chúng tôi lên Gia Định (BCH/Tiểu khu VNCH cũ) để tập trung tù nhân trong 14 Quận của Thành Phố tại đây , sau đó đoàn xe trực chỉ ra ngoại ô, v́ xe bỏ mui bố che lại hết nên chúng tôi không biết bọn chúng chở đi đâu, khoảng 4 giờ di chuyển xe ngừng lại, chúng tôi lần lượt xuống xe. Tôi vươn ḿnh hít dài một hơi thở không khí trong lành của vùng rừng núi cho thoải mái, v́ suốt 6 tháng bị giam, tôi chưa được thấy ánh sáng mặt trời và thở được không khí trong lành..

Chúng tôi đang ở trên một ngọn đồi, san sát các dăy nhà tole và có rất đông bọn Công An.. Các người bị nhốt ở đây cho chúng tôi biết nơi đây là đồi là Phượng Vĩ căn cứ của Trung Đoàn 52, thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh, tại Ngă 3 Ông Đồn, dưới chân núi Chứa Chan..



Trại Cải Tạo Phản Động K3
do Công An thành phố quản lư
Đồi Phượng Vĩ trước ngày 30-4-75 là Căn cứ Trung Đoàn 52 Sư Đoàn 18.

Tập họp điểm danh, 120 người chúng tôi được đưa vào 2 dăy nhà lợp tole vách ván , trong tổng số 20 dăy, xung quanh các dăy trại gồm có nhiều lớp kẽm gai bao bọc có gắn lon thiếc. Tất cả 120 người “tù phản động” nầy hầu hết đều liệt bại nên phải khiêng vào..Vừa yên chỗ, một tên cán bộ quản giáo vào “sinh hoạt” cho biết đây là Trường K3 . .Hôm nay các anh đến đây là ngày thứ nhứt của 3 năm học tập cải tạo..v.v. Nơi đây các anh được liên lạc về gia đ́nh để thăm nuôi, mỗi lần thăm nuôi15 phút. Các anh hăy nhớ viết thơ thế nào mà có lợi cho cách mạng, cho gia đ́nh và cho bản thân các anh th́ các anh viết.. Tên cán bộ quản giáo tuyên truyền một lúc rồi kết thúc : V́ các anh mới nhập trại nên ban quản giáo cho các anh được nghỉ “Bồi Dưỡng” vài hôm. Chúng tôi đều hiểu, v́ tất cả bị liệt bại nên chúng nó để cho chúng tôi hồi phục rồi mới bắt đầu mang cày vào cổ chớ có tốt lành ǵ đâu.

Nghiên cứu kế hoạch vượt trại tù lần thứ 2 tại đây trong ṿng 20 ngày.

Một đêm ngủ thoải mái với không khí trong lành của miền rừng núi Chứa Chan, tỉnh Long Khánh.

Ngày hôm sau tôi đi ṿng quanh các dăy trại, tôi gặp anh Dũng Mặt đỏ của pḥng An Ninh Đặc Tra Phủ Tổng Thống. Tôi gặp Dũng sau giờ lao động, anh mừng rỡ chạy lại ôm tôi, tôi dặn nhỏ Dũng đừng nói với ai v́ tôi không có khai thật là Sĩ Quan Cận Vệ. Tôi hỏi thăm Dũng t́nh h́nh nơi đây và tại sao Dũng không vượt trại ? Dũng cho biết hiện giờ đội công tác của anh đă được bọn chúng tin tưởng nên cho đi làm xa tận trong rừng để cưa cây gỗ. C̣n trốn th́ Dũng không dám v́ sợ bị bắt lại và sợ về không có chỗ an thân.

Dũng cho tôi biết: Dũng bị đưa lên đây từ ngày đầu, chúng lấy trại nầy dự định chỉ giam thành phần tŕnh diện học tập thuộc đơn vị tỉnh Biên Ḥa. Sau một thời gian chúng bố pḥng chắc chắn hơn, chúng đưa thêm về đây các tù “phản động” gồm nhiều thành phần từ cấp Tá đến binh sĩ và tù chính trị luôn cả phụ nữ phản động. Phụ nữ th́ chúng ngăn riêng khu vực, và nguy hiểm nhứt là dọc theo triền đồi, trong các lớp kẽm gai có chôn ḿn 3 râu (loại ḿn chống cá nhân có 3 ng̣i nổ) hiện giờ thỉnh thoảng gió thổi lay động cây dại ḿn cũng nổ, v́ vậy mà suốt 16 tháng rồi mà không có ai dám vượt trại trốn ra.!

Tôi gặp anh Thiếu Úy Hoa, Cảnh Sát Dă Chiến Biệt Đoàn 222, Vơ sư Thái Cực Đạo, Huấn luyện viên của Đại Đội Đặc Nhiệm bảo vệ Phủ Tổng Thống. Hoa cho biết anh đă tổ chức trong đội anh được gần 20 người ở đội 16 của anh.
Anh Thượng Sĩ Truyền Tin Vơ Pḥng phủ Tổng Thống là anh Quốc, anh bị bắt v́ hoạt động trong lực lượng Dân Quân Phục Quốc, anh cũng đă tổ chức ở đội 15 gần 20 người.
Anh Ba Hương, là vệ sĩ cho Ông Đại Sứ Nguyễn Văn Kiểu (Anh ruột của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu) anh Ba Hương thuộc toán Bảo Vệ yếu nhân của Cảnh Sát, anh cũng cho biết có tổ chức ở đội 17, gần 20 người.
Được biết Đại Tá Nguyễn văn .P… Tỉnh Trưởng Long Khánh, bị bắt ngoài mặt trận trước ngày 30-4-75 đang bị nhốt ở đây. Tôi nhờ anh Tiến, trước năm 75, Tiến là đệ tử của Đại Tá .P..liên lạc với ông để biết thêm tin tức, th́ được Đ/T P.. cho biết, ông vẫn thường xuyên l/l với Lực lượng Phục Quốc ở bên ngoài. Tôi đề nghị với Đ/T qua anh Tiến . Nếu Đ/T thấy cần đánh phá trại giam nầy th́ tôi xin trách nhiệm một lực lượng xung kích khoảng 50 người giỏi vơ thuật. Anh Tiến chuyển lời tôi đến Đ/T, sau đó Tiến cho tôi biết Đ/T bảo đừng lo, v́ ông đă được lực lượng bên ngoài cho biết sẽ giải thoát trại giam trong tuần nầy hoặc tuần tới ? Nhưng đă qua hơn tuần mà không thấy động tịnh ǵ cả , Tiến hỏi lại Đ/T th́ tôi được biết là trong tuần nầy ?. Tôi cảm thấy bất ổn v́ tôi đă nghe tin nầy đă xầm x́ trong một vài trại, tôi nghi ngờ tin nầy đă bị lộ.! V́ tôi đă theo dơi trong mỗi đội tù đều có nhiều an ninh ch́m của Công An. Tôi nghĩ hậu quả rất ghê gớm, nhưng tại sao chúng biết mà vẫn làm ngơ ? Có lẽ chúng đă có chuẩn bị rồi.Trong đêm thỉnh thoảng chúng thực tập báo động – Chúng thổi c̣i và đánh kẻng báo hiệu, trong ṿng 10 phút tất cả 20 dăy trại đều bị phong tỏa-. Mỗi dăy trại đều có 1 tiểu đội cầm AK 47, trung liên Tiệp Khắc và B 40, chỉa thẳng vào trại…

***

Tôi lo chọn trong số những người trong trại để tính việc đào thoát, v́ tôi không tin tưởng khả năng của LL phục Quốc do Đ/T P… cho biết.

Trong số các anh em quen thân đều ngại vượt tù, chỉ mong được CS tha tội trở về sống với gia đ́nh, tôi chỉ chọn được một người là :

Trung Úy Kỹ sư Điện Tử Trần Quang, đặc trách Đài Radar Phú Lâm. Can đảm chịu đựng, bị bắt do tên Hạ Sĩ Quan dưới quyền điềm chỉ, Quang vẫn cương quyết không nhận làm lại cho CS để được tha tội. Quang cũng thường ngỏ ư với tôi nếu có tổ chức th́ xin cho anh tham gia, và anh hứa sẽ làm bất cứ việc ǵ do tôi sắp đặt, v́ đă nghe tôi đă có thành tích tổ chức vượt tù.

Tôi chọn anh Trần Quang là v́ thích hợp cho kế hoạch của tôi và cùng ở chung dăy với tôi, khổ người của anh nhỏ nhắn, trầm tĩnh nhưng linh hoạt…

Tôi quyết định theo kế hoạch trù liệu để vượt trại. Tôi và Quang mỗi sáng thức dậy và đi “viếng lăng bác Hồ”, tiếng lóng để chỉ việc giải quyết vệ sinh. Vừa đi vừa bàn tính, tôi cho Quang biết ư định vượt rào và dặn Quang chỉ làm theo những ǵ tôi cần chớ đừng hỏi tại sao và phải ngăn cách đừng tỏ ra thân thiện để chúng không nghi ngờ, Quang đồng ư v́ Quang tin tưởng nơi thành tích của tôi.

Sau 2 tuần lễ, tôi đă thâu thập hệ thống pḥng thủ và nghiên cứu thận trọng như sau :

· 20 dăy tole, vách ván, mỗi miếng chiều dài 3 thước có đóng nẹp chận đầu.

· Sau khi điểm danh, 18.giờ 30, tất cả các cửa sổ, cửa chánh đều khóa lại.

. Bên ngoài pḥng, Hàng rào 4 lớp kẽm gai cao 2 thước có treo lon, nhiều hàng rào kẽm gai dọc theo triền đồi, có khoảng 3 lớp consettina cuối cùng dưới chân đồi.

· Băi Ḿn do Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH thiếp lập lẩn trong các lớp hàng rào, Trung Tá Đức Chỉ Huy Trưởng Hậu cứ của Trung Đoàn 52 hiện đang bị giam tại đây, xác nhận là đúng.

. Quân số canh gác và phân công dẫn tù đi lao động là khoảng 200 tên công an.

. 4 vọng gác cao 5 thước, khoảng 2 giờ đổi phiên 24/24, ban đêm khoảng giữa phiên đổi gác, có toán tuần tra vơ trang lẻn vào nghe lén từng dăy trại.

Hệ thống bố pḥng xung quanh đồi

Trung Đoàn Bộ Đội đóng quân toàn diện từ hướng Đông qua Nam đến hướng Tây. Nằm sâu trong rừng và đặc trách núi Chứa Chan, ước tính chiều dầy khoảng chừng 3 cây số, bao trùm mặt tiền của trại giam. Mặt hậu từ hướng Tây Bắc đến Bắc qua Đông, do cán bộ, thanh niên xung phong và khu kinh tế mới, cán bộ nằm vùng lẫn lộn có thể Trung Đoàn Bộ Đội cũng đảm trách vùng nầy. Nh́n chung mặt nầy có vẽ lỏng lẻo nhưng là tử địa v́ khi thoát ra mặt nầy th́ chỉ có thể đi về phía rừng lá, không c̣n đường trốn.

. Hệ thống an ninh ch́m là nguy hiểm nhứt, riêng đội 18 của tôi 60 người đă có 5 tên ch́m đội lớp tù, (do sự điều tra của Quang), chúng kiểm soát từ lời nói và hành động của mỗi người, khi ăn,khi ngủ, khi đi lao động v.v.

Bây giờ tôi chỉ c̣n chờ chúng đưa đi lao động ở ngoài để quan sát và t́m hướng đi…

Sau hai tuần nghỉ dưỡng sức, các người bị liệt bại đă khá hơn. Tối Chúa Nhựt, trước giờ điểm danh, cán bộ đem xuống một danh sách biên chế chỉ định tôi làm đội trưởng 18 K, đúng như suy đoán của tôi, v́ chúng muốn kiểm soát tôi chặt chẽ, sắp xếp đánh số chỗ ngủ, không được ngủ khác chỗ. Tôi phải chịu trách nhiệm mọi sự xảy ra trong đội, báo cáo quân số trước khi đi và khi về, lao động, nghỉ bịnh, công tác nhẹ, và trước khi đi ngủ, tối đến sau khi điểm danh tôi phải điều hành sinh hoạt, phê b́nh, sửa sai, đề nghị, đọc báo và văn nghệ.. Mục đích của chúng là làm cho tôi phải bận rộn trong công việc và an ninh ch́m của chúng dễ theo dơi tôi.(Tôi đă đề pḥng việc nầy nên đă chọn Quang giúp tôi trong việc đào thoát, v́ chúng không để ư đến Quang).

Xung quanh các dăy trại đều đóng ván chiều dài 3 thước và đóng chận nẹp. Tôi giao cho Quang một miếng sắt mỏng nhỏ và dẫn Quang đi ngang qua chỗ miếng ván thiếu chiều dài, chúng thêm vào một miếng ngắn mà không có đóng chận nẹp, tôi chỉ cho Quang và dặn mỗi đêm đi tiểu, Quang ḅ xuống dưới sàn ngủ, đến chỗ đó long đinh, từ bây giờ cho đến thứ sáu phải xong nghĩa là ḿnh có thể đẩy ra nhẹ nhàng không bị động, sau khi xong báo cho tôi hay. Quang nhận lời…

Ông Trưởng Ty T.. và tôi vẫn thường ngày lănh cơm và ăn chung, tôi rất mến ông là người học thức qua tư cách, rất trầm tĩnh. trong tuần lễ vừa qua ông có thăm nuôi, ông được người cháu ruột đem đồ ăn, gồm muối sả, café, sữa đặc, đường và vài trăm gram thịt kho. Được gia đ́nh báo cho biết, trước ngày đi thăm ông, có người anh bà con của ông tập kết về cấp Trung Tá VC . Người nầy coi đồ thăm nuôi đă rầy là gởi đồ thăm nuôi cho tù nhân ăn ngon sẽ bị đưa ra Bắc v́ trại nầy là trại phản động ! Tôi nh́n thấy ông có vẻ lo buồn, nhưng tôi vẫn chưa cho ông biết tôi đă chuẩn bị vượt trại mà trong đó có ông..

Hôm nay là tuần lễ thứ ba, đội 18K của chúng tôi bắt đầu mang cày vào cổ, đội chúng tôi dẫy cỏ và nhổ cây bắp khô.. Đến chiều hết giờ lao động, chúng tôi đến ao tưới rau để tắm, nước ao tù nầy do nước mưa đọng lại gồm cả nước phân do ban trồng hoa màu phụ gánh từ trong trại tưới, nước phân chảy xuống ao. V́ thế đêm đó đội chúng tôi bị ngứa găi muốn rách da..

Ngày thứ ba, vun vồng trồng khoai. Ngày thứ tư, khiêng đá đắp đập ngăn ḍng suối. Ngày thứ năm , tiếp tục khiêng đá đắp đập..đến 11 giờ. Nghỉ việc, tất cả tập họp điểm danh về trại ăn trưa. Khi điểm danh thiếu mất người, tôi vội báo cáo cho tên cán bộ, tên nầy b́nh tĩnh đưa súng AK lên bắn chỉ thiên 3 phát một, và khoảng 1 phút sau có tiếng súng AK đáp lại khắp nơi.. (Cũng nhờ việc nầy xảy ra nên tôi biết được hướng các chốt bọn chúng đang đóng dọc theo b́a rừng từ hướng Tây qua đến hướng Bắc..) Tên cán bộ ra lịnh cho tôi dẫn tù nhân về trại, trên đường về chúng tôi đi ngang qua các chốt của bọn công an, chúng chĩa súng vào đội chúng tôi và chửi nhiều câu thô tục… Tôi căm hận dẫn đội ḿnh về trại. Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau, chúng bắt lại được tên trốn và đem về nhốt bên dăy trại của chúng. Tên phó thủ trưởng gọi tôi lên lấy khẩu cung cùng với vài người trong đội. Tôi được biết tên trốn là an ninh ch́m, do Quang báo lại cho tôi, buổi chiều hôm trước tên Hậu nầy đă đứng nói chuyện với cán bộ ở gần hàng rào…, tôi nghỉ đây là màn dàn cảnh để cảnh cáo chúng tôi..

Sáng ngày thứ sáu, Chúng tập họp tất cả 20 dăy trại. Tên phó thủ trưởng đọc bản án và đem tŕnh diện tên Hậu. Tiếp theo chúng cảnh cáo chúng tôi “hăy yên tâm học tập cải tạo. Ngày mà các anh đặt chân đến đây là ngày thứ nhứt của 3 năm. Các anh đừng mong trốn thoát nơi đây, dù một con kiến cũng thể rời khỏi nơi nầy ?..Bằng chứng là suốt 16 tháng qua chẳng ai có ư nghĩ đó. Anh Hậu v́ mới đến nên chưa hiểu, nên anh sẽ lănh phạt 15 ngày quản chế nơi hầm tối…”

Hôm nay đội tôi được lịnh tháo kẽm gai ṿng rào tiền đồn h́nh tam giác án ngữ căn cứ của Trung Đoàn 52/18. Tôi mừng thầm v́ hướng đào thoát của chúng tôi sẽ ở chỗ nầy.. Tôi đôn đốc anh em tháo gỡ cho nhanh kịp trong ngày thứ bảy., v́ tối chúa nhựt là ngày, giờ quyết định.

Trong giờ cơm, bắt đầu tôi báo cho ông Trưởng Ty biết để chuẩn bị thoát khỏi chỗ nầy, ông ngạc nhiên hỏi lại, tôi nói :

“Bác hăy chuẩn bị sẵn bộ đồ đen để mặc khi rời khỏi nơi đây, và một bộ đồ khác bỏ vào túi nylon rồi bỏ vào bao cát để đem theo”.

Tôi nói tiếp:

“Bác phải rời khỏi nơi nầy nếu không Bác sẽ bị đưa ra Bắc”.

Tôi nói tránh v́ ông thường ngày ngồi ăn cơm với tôi, nếu ông không đi ông sẽ bị liên lụy. Tôi nh́n thấy nét mặt đăm chiêu của ông, tôi hơi lo ngại, ông hỏi :

“An tính chừng nào ?”.

Tôi đáp :

“Có thể đêm mai, nếu thời tiết tốt”.

Ông hỏi tiếp :

“Làm sao ra từ đây?”.

Tôi đáp :

“Sẽ chun ra dưới gầm chỗ của bác nằm đó!”

Ông giựt ḿnh :

“Sao ? ở dưới chỗ tôi nằm à ?”

Tôi đáp :

“Dạ phải, miếng ván dưới chỗ bác nằm tôi đă long đinh rồi ! V́ chỉ có chỗ nằm của Bác là có lối ra thôi”.

Tôi kể rơ kế hoạch cho ông nghe :

“Sau khi từ đây chun ra, tôi chạy nhanh ra hàng rào treo lon, tôi ngồi xuống, Quang sẽ chạy ra và leo lên vai tôi, tôi đứng lên, Quang bước qua phía bên kia hàng rào và đứng chờ, Bác chạy ra bước lên vai tôi, tôi đứng lên, bác bước qua vai của Quang ,Quang ngồi xuống để Bác xuống đất.. và tiếp tục đến hết các hàng rào treo lon, và sau đó Bác và Quang phải theo bên tôi, đừng bước sai nguy hiểm..v́ Băi Ḿn dọc theo triền đồi.

Ông lo lắng hỏi :

” An có chắc ḿnh sẽ thoát được Băi Ḿn hay không ?”

Tôi đáp :

“Bác đừng lo, tôi đă t́m ra điểm chuẩn của Băi Ḿn rồi!”

Tôi nói để cho ông an ḷng, và kể rơ hướng đi của kế hoạch.

Nghiên cứu cách thức vượt Băi Ḿn



Về phần Băi Ḿn tôi đă suy nghĩ nhiều ngày đêm, tôi đem ra so sánh các cách gài ḿn bẫy của Người Nhái chúng tôi và của Việt Cộng, mà vẫn chưa t́m ra manh mối.. (V́ lúc phối hợp công tác với Người Nhái Hoa Kỳ, tôi đă từng tháo gỡ ḿn bẫy của VC).

V́ chuyên viên Ḿn Bẫy khi gài Băi Ḿn th́ chỉ có đơn vị trưởng và người gài biết sơ đồ mà thôi..

Sau cùng , tôi suy ra từ 2 chữ Pḥng Thủ . Tôi lập sa bàn để định vị trí, các hàng rào cách khoảng với nhau đều đặn, và các trụ cột th́ đều đặt so le hay nói cách khác là h́nh chữ Z. Vậy PḥngThủ th́ khi chuyên viên đặt ḿn bẫy phải đặt Ḿn ở chỗ an toàn cho các trụ cột hàng rào, để khi ḿn nổ không làm sụp đổ các hàng rào để c̣n giữ được phần nào các kẽm gai, v́ hàng rào pḥng thủ mục đích là chống xâm nhập chiến thuật biển người của VC..Theo sa bàn, tôi sẽ vượt ra theo h́nh chi (Z) theo hướng các trụ cột, tránh các khoảng trống mà tôi nghĩ là có đặt Ḿn, và sẽ lần ra gần pḥng trực cổng chánh của bọn công an, v́ trụ cột chuẩn tôi chọn gần cổng chánh, chính xác hơn mấy trụ cột ở khoảng giữa… Tôi đă xem xét rất kỹ giữa khoảng cách 2 hàng rào, chỉ rào kẽm gai chạy dọc, song song với các hàng rào khác và từ hàng nầy qua hàng kia bằng các đường kẽm gai giăng ngang với 2 đường chéo góc, c̣n phía cuối chân đồi có 3 ṿng rào loại Consertina, báo hiệu là đă hết băi Ḿn. (V́ rào loại Consertina cuốn ṿng tṛn, không thể rào trong vùng có ḿn bẫy, v́ có thể bị gió thổi rung động mà chạm ng̣i nổ, v́ loại ḿn chống cá nhân có 3 ng̣i nổ rất nhạy thường gọi là Ḿn 3 râu.).

Tôi vui mừng lẫn lo âu mặc dầu không dám tin chính xác 100/100. Nhưngng tôi đă quyết ḷng t́m cái Sống trong cái Chết , bất chấp mọi nguy hiểm..

Đêm thứ bảy 23-10-76 khoảng 8 giờ tối, trời mưa thật lớn, kéo dài đến 2 giờ khuya, tôi thầm cầu nguyện cho đêm mai cũng có mưa to th́ sẽ là giờ quyết định đào thoát của chúng tôi, v́ theo kinh nghiệm của tôi, nếu hôm nay có mưa th́ ngày hôm sau cũng sẽ có mưa trễ hơn hôm nay, và sẽ mưa liên tiếp vài hôm, (Lần trước tôi đào thoát trại tù Thành Ông Năm, cũng có mưa giống như ngày hôm nay ở đây).

Ngày Chúa Nhựt, từ sáng đến 5 giờ chiều, vợ con tôi mới gặp được tôi sau 6 tháng tù, tôi hàn huyên với vợ con trong 15 phút. Vợ tôi đem đồ ăn thăm nuôi, tôi chỉ lấy café, đường, sữa đặc và mấy đ̣n bánh tét nhỏ,và túi trái cây, c̣n các thức ăn khác tôi đưa lại để vợ tôi đem về, v́ tôi biết vợ con của tôi rất thiếu thốn, khi đi thăm nuôi chắc lại phải bán bớt vật dụng trong nhà.

V́ có tên công an ḍm ngó, tôi chờ khi vợ tôi cúi xuống gần tôi khẽ nói : “Đêm nào trời mưa th́ cầu nguyện cho anh”.

Vợ tôi nghe tôi nói giựt ḿnh lo sợ, v́ vợ tôi hiểu ư câu nói của tôi… Hết giờ thăm nuôi, vợ con tôi phải rời khỏi trại thăm nuôi để đến nhà ga Gia Rây, đón xe lửa về Sài G̣n. C̣n tôi và đoàn tù được thăm nuôi trở lại trại giam..

Cũng như thường lệ, tên cán bộ điểm danh xong, chúng lo khóa lại các cửa cẩn thận. Khoảng 8 giờ tối, mây đen kéo đến và trận mưa bắt đầu đổ hột lúc 9 giờ, Tôi đă cho Quang biết chuẩn bị các chi tiết như ông Trưởng Ty, dặn Quang lược café lấy nước đậm pha với sữa, đường, rồi cất vào b́nh nylon nhựa, chung với các đ̣n bánh tét, c̣n café nước nh́ th́ đăi các anh em không có gia đ́nh thăm nuôi, với chút ít bánh trái .. v́ sợ các anh em uống café đậm sẽ khó ngủ, sẽ tạo khó khăn cho chúng tôi..

Tôi và Quang b́nh tĩnh chờ đợi, tôi chỉ lo cho ông Trưởng Ty, v́ sau khi nghe tôi thông báo vượt trại, tôi thấy ông không ngủ mà ngồi hút thuốc suốt đêm qua. Tôi mến ông v́ đă ở chung qua nhiều lần chuyển trại, và cùng ăn cơm chung..

Mưa càng lúc càng to, 9 giờ tắt đèn, tất cả đều về chỗ nằm, nhưng v́ hôm nay có thăm nuôi, họ thức th́ thầm kể chuyện gia đ́nh cho nhau nghe trong bóng đêm.

11 giờ đêm, tôi cố giương mắt thật to nh́n qua kẻ vách theo dơi 4 chiếc bóng đen mặc áo mưa đi đổi vọng gác qua các lằn ánh sáng của sấm chớp.-Khoảng 1/2 giờ sau, 1 tiểu đội tuần tra mang vũ khí đi kiểm soát 20 dăy trại rồi chúng trở ra pḥng trực ở cổng chánh. .

Giờ đào thoát đă đến..

Tôi nhẹ nhàng rời khỏi chỗ nằm đến chỗ Quang bấm nhẹ. Quang bước theo tôi trong bóng đêm dến chỗ ông Trưởng Ty nằm tôi kéo nhẹ ông xuống đất nhưng ông không chịu xuống, ông kéo tôi sát lại và khẽ nói:

“Xung quanh họ c̣n thức!”.

Tôi trả lời :

“Không sao đâu bác, bác cứ chun xuống gầm sàn là xong”

Ông không chịu, bảo tôi phải chờ cho ông 1 tiếng đồng hồ nữa.

Tôi sợ động mấy người nằm gần nên đành lui về với Quang trở lại đầu dăy trại để tiếp tục theo dơi các toán lính gác qua kẽ hở. Quang nóng ḷng th́ thầm qua tai tôi : “Ông làm như vậy là chết ḿnh rồi anh.” Tôi cố trấn tĩnh Quang: “Không sao.” .Nhưng ḷng tôi như lửa đốt. khoảng nửa giờ sau, bên ngoài bớt mưa.

Tôi quyết định kéo nhẹ Quang đến chỗ ông. Tôi kéo hẳn ông xuống đất và đẩy ông chun xuống gầm sàn dưới chỗ ông nằm ông ta cứ dùng dằng không chịu chun, Quang chun vào trước đẩy nhẹ miếng ván đă long đinh và chun ra ngoài, tôi liền đẩy ông chun ra tiếp, ông không chịu lại đẩy tôi ra, trong lúc dằn co đó làm cho người nằm kế bên ông lên tiếng : “Không biết cái ǵ kêu lụp cụp vậy ?”. Liền lúc đó nghe có tiếng diêm quẹt, tôi cấp tốc chun ra ngoài, nh́n lại không thấy ông chun theo, Quang kéo tôi thúc giục :” Đi anh để chết đó!”. Tôi cố rướn ḿnh lên nh́n vào trong không thấy được v́ tối. Tôi chạy nhanh theo Quang và ngồi xuống cho Quang leo lên vai, tôi đứng lên Quang bước qua bên kia rào tuột xuống đất chờ .Tôi dặn Quang chờ tôi một chút, v́ lúc đó tôi vẫn c̣n nghĩ đến ông. Tôi nhanh nhẹn chạy trở lại lỗ trống hy vọng ông đă chun ra, nhưng tôi không thấy, tôi dán mắt vào kẽ hở, qua diêm quẹt mồi đèn, bóng ông ta đang ngồi bó gối hút thuốc lá trên sàn nơi chỗ ông nằm. Thôi rồi !!…Tôi không c̣n hy vọng ǵ để cứu ông được nữa..!! Tôi chạy thật nhanh trở ra hàng rào kẽm gai, không thấy bóng của Quang, tôi vội trèo qua 4 lớp hàng rào kẽm gai mà vẫn không thấy bóng của Quang đâu cả , tôi cúi rạp người xuống nh́n theo đường chân trời , bổng thấy bụi cây bên phải của tôi lay động, tôi vội ḅ ngay lại đó gặp Quang, th́ ra Quang không dám chờ tôi tại chỗ v́ là đường đi tuần của bọn lính gác. Tôi nắm tay Quang : “Đi theo tôi..”

Tôi dẫn Quang ḅ đến trụ hàng rào điểm chuẩn, gần trạm canh cổng chánh. tôi nhắm theo các trụ cột hàng rào và ḅ lách kẽm gai, thận trọng theo h́nh chữ Z Quang ḅ theo sát tôi, độ chừng 15 phút, tôi và Quang đă xuống tới dưới triền đồi thoát khỏi Băi Ḿn, chúng tôi khom người chạy nhanh qua khoảng đất trống, băng qua tiền đồn h́nh tam giác, nơi đó là chỗ đội của tôi vừa tháo hết kẽm gai hôm thứ bảy, nên tôi và Quang đă vượt qua chỗ nầy dễ dàng, chạy thêm một đoạn thẳng vào b́a rừng , chúng tôi lọt vào vùng gai mắc cỡ tây cao phủ đầu, chúng tôi bị gai đâm vào ḿnh không biết bao nhiêu mà kể, chúng tôi đang vạch gai để t́m đường đi, bỗng chúng tôi bị lọt xuống ḍng suối, tôi rất mừng v́ trong dự tính kế hoạch của tôi không biết có ḍng suối nầy, tôi biết chắc chắn theo con suối nầy sẽ xuống được nhà ga Gia Rây,(v́ tôi đă nh́n thấy từ trên trại giam chiếc cầu xe lửa gần chợ Gia Rây). Tôi bảo Quang tắm cho sạch và đồng thời di chuyển theo ḍng suối, khi đến gần nhà ga Gia Rây, tôi kéo Quang ḅ lên cầu để vào hướng núi Chứa Chan, nhưng khi qua ngang đường rầy xe lửa, bổng tôi nghĩ ra một phương pháp vội kéo Quang đứng lên đường rầy, mỗi người một bên, tôi quàng tay qua vai Quang và Quang làm ngược lại, bây giờ tôi và Quang đă vững trên đường rầy, chúng tôi bắt đầu chạy trên đường rầy dễ dàng không sợ vấp ngă, chúng tôi tiếp tục chạy khoảng 2 giờ đồng hồ nữa rồi ngồi trên đường rầy mà nghỉ mệt, v́ chúng tôi biết là đă thoát ṿng kiểm soát của khu vực trại giam khá xa…

Tôi đang nghỉ đến Ông Trưởng Ty, có lẻ ông biết ḿnh già yếu không c̣n đủ sức chạy bộ, ông lo sẽ làm vướng bận chúng tôi nên đành ở lại?. Khi c̣n ở quận 2, ông có tặng một bài thơ cho tôi và bảo tôi học thuộc ḷng bài thơ như sau :

Tự Thán

Đời là chi ?
Ta là ǵ ?
Ḍng đời vẫn chảy,
Ta cứ mải đi !
Ta là một cội thông hiu quạnh
Đứng chọc trời xanh dưới nắng tà
Sớm chiều vi vút tiếng thông reo
Ẻo lă cành theo ngọn gió vèo
Giông tố bao lần lay lá cội
Sớm chiều vẫn vút tiếng thông reo
Tiếng thông reo, tiếng thông reo
Trải bao giông tố vẫn reo gió chiều.

Nguyễn văn T …

Vừa ngồi nghỉ mệt trên đường rầy xe lửa vừa ăn bánh tét và thưởng thức café sữa ngon lành…Quang quàng tay qua vai tôi giọng cảm động :

“Anh An, anh là người cứu mạng của tôi, nên tôi xin nói thật cho anh biết, – giọng Quang trầm lại – Tôi là đảng viên của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, tôi tên thật là Lai Minh Quang, cháu ruột của Trung Tướng Lai Minh Kiên, hiện bác tôi đang ở Đài Loan, tôi có nhiệm vụ nằm trong Quân Đội VNCH, và tên Trần Quang là tên giả, tôi học và tốt nghiệp Kỹ sư Điện Tử tại Okinawa Nhật Bản. Khi về Việt Nam, tôi phụ trách Trưởng Đài Radar Phú Lâm, mục đích là để theo dơi bên Trung Cộng, các máy bay bên Trung Cộng cất cánh th́ ở Đài Radar Phú Lâm đều nhận biết… .Khi miền Nam sụp đổ , tôi đă được báo trước nên đă cho vợ con rời khỏi Việt Nam hiện đang ở Tân Gia Ba, v́ tôi c̣n công tác nên phải ở lại Việt Nam .. Bây giờ việc trước mắt là về Sài g̣n, tôi bắt liên lạc với các điểm rồi chúng ḿnh cùng t́m đường qua Đài Loan, khi ra được ngoại quốc rồi sẽ tính sau..”

Chúng tôi tiếp tục chạy , khi đến nhà ga Bảo Chánh th́ trời gần sáng. Chúng tôi vào rừng chồi thay bộ đồ khô mang theo trong bao nylon bỏ trong bao cát, nhờ lọt xuống suối nên chúng tôi đă tắm sạch đất đỏ, bây giờ thay bộ đồ khô vào trông cũng sạch sẽ. Chúng tôi vẫn tiếp tục chạy trên đường sắt hướng về Long Khánh cho kịp chuyến xe lửa từ Nha Trang vào. Khi tới những nơi có người ở th́ chúng tôi đi bộ, c̣n những chỗ không người th́ chạy tiếp. Những dân cư ở dọc theo con đường xe lửa từ nhà ga Bảo Chánh vào đến Long Khánh chúng tôi thấy phần nhiều là người Thượng. Khi đến nhà ga Long khánh khoảng 8 giờ sáng, con đường dài 35 cây số. Tôi lấy trong lai quần ra 5 đồng tiền VC (V́ đă có kinh nghiệm vượt tù lần trước.) tôi đă dấu từ lúc mới bị bắt, tôi đưa tiền cho Quang vào mua vé, được trạm bán vé cho biết 9 giờ xe lửa tới, tôi và Quang vào quán café gần đó ngồi uống café và bàn chuyện về Sài G̣n mua hột giống để đem về vùng kinh tế mới trồng trọt .v.v . Trong quán cũng có vài tên cán bộ công an VC đang ngồi uống Café.

Tiếng c̣i hú từ xa của chuyến xe lửa từ Nha Trang vào Sài G̣n đă gần đến , tôi và Quang đều cảnh giác. Chúng tôi chia nhau mỗi người một đầu toa để tránh sự theo dơi của bọn công an. Và chúng tôi đă về đến Sài G̣n lúc 12 giờ trưa, nhưng Quang lại bị sưng vù cả 2 chân không đi được nữa,(v́ Quang chưa bao giờ chạy xa như vậy, c̣n đối với tôi đă được huấn luyện qua khóa Người Nhái th́ chạy bộ 35 cây số không có ǵ trở ngại.), tôi gọi xe xích lô đạp chở chúng tôi về Chợ Lớn, nhưng khi đi ngang qua quán phở 79, đường vơ Tánh, chúng tôi cảm thấy thèm quá nên xuống xe vào tiệm gọi phở ăn một bữa thật ngon. V́ thấy chúng tôi nước da sạm đen ông chủ tiệm phở hỏi : “Các anh ở đâu về mà đen quá vậy.?”. Tôi trả lời là chúng tôi từ vùng Kinh Tế mới về Sài G̣n để mua hột giống trồng trọt … Sau đó chúng tôi gọi xe xích lô chở Quang đến một địa điểm riêng của Quang. Chúng tôi từ giă và hẹn gặp lại tại một quán café ở ngả 7 Chợ lớn, nhưng tôi đă đến điểm hẹn liên tiếp mấy ngày mà không gặp Quang. Tôi nghỉ có thể điểm liên lạc của Quang không muốn tiếp xúc với tôi v́ sợ bị lộ, và tôi mất liên lạc với Quang từ đó..!

Tôi đến thăm anh Nguyễn Thành Nhơn trong đêm mới trở về Sài G̣n, tôi nhảy rào vào nhà gặp anh chị. Anh chị rất vui mừng. Tôi kể chuyện lại cho anh chị nghe . Anh Nhơn cho tôi hay là pḥng tập Thể Dục của anh đă bị bọn công an phường tịch thâu rồi, anh bảo tôi ở lại ngủ một đêm rồi sáng mai sẽ đi, tôi cám ơn anh chị và từ giă trước v́ sáng sớm tôi đă rời khỏi nhà của anh chị..

Tôi cố liên lạc lại với các bạn thân ngày trước, nhưng có người thấy tôi từ xa th́ đă vội vào nhà khóa cửa lánh mặt..Cũng may được một người bạn cho mượn chiếc xe đạp, và nhờ đó tôi di chuyển khắp nơi trong thành phố, dự định t́m vào các lực lượng kháng chiến trong rừng. Tôi gặp một đại diện của một giáo phái (xin tạm giấu tên) sau một tháng, ông gặp lại cho và cho hay :

“Chắc em không có phần vào trong với anh em, là v́ tôi đă liên lạc và ở trong đă gởi 3 lần liên lạc viên ra để đưa em vào nhưng đều đổ bể cả.. Và ở trong đă quyết định hủy bỏ công tác đón em rồi!..”

Thêm một lần thoát nạn..

Người bạn thân Mai Văn Lương (hiện đang sống tại Cali) cùng đơn vị phủ Tổng Thống, đă giúp tôi thật nhiều trong lúc cùng cực. Anh đăgiúp tôi liên lạc với một lực lượng vùng Hậu giang, có cơ sở mua bán phân bón, văn pḥng tại đường Trần Hưng Đạo, đối diện với Tổng Nha Công An thành phố. Đêm đó tôi ở lại ngủ tại cơ sở suốt đêm tṛ chuyện cùng anh Hoàng (Hoàng cấp bậc Đại Úy Sĩ Quan Đà Lạt trốn tŕnh diện đi tù cải tạo.) cho biết cơ sở nầy được quyền giữ 20 nhân viên ngủ lại đêm, anh khuyên tôi yên tâm ở lại đây để chờ liên lạc viên từ Hậu Giang lên đón tôi… Sáng sớm hôm sau tôi và anh Hoàng ra ăn sáng ở tại quán café vỉa hè gần đó, Lương cũng vừa tới. Ttrong quán có rất đông bọn Công An đang uống café. Tôi có linh cảm như có việc ǵ sắp xảy ra nên sau khi ăn sáng xong tôi nói với Lương đưa tôi về chỗ ẩn trú của tôi và khi nào có liên lạc viên ở Hậu Giang lên th́ đến đón tôi, v́ ở đây tôi cảm thấy có nhiều nguy hiểm. Lương đồng ư và đưa tôi về chỗ ẩn rồi ra đi.. Nhưng khoảng 12 giờ trưa, Lương trở lại kiếm tôi và cho hay tất cả cơ sở đó đă bị Công An thành phố hốt hết rồi..! Thật may cho tôi, tôi chỉ thoát trong đường tơ kẽ tóc.

Có nhiều ngày tôi lang thang đạp xe từ 6 giờ sáng khắp nơi trong thành phố cho tới 9 giờ tối mà tôi chưa biết đêm nay phải ngủ ở đâu ?.. Có hôm tôi chỉ ăn vài trái chuối qua ngày v́ không tiền. Có nhiều hôm được tin bọn công an bố ráp ở các bến xe đ̣ Xa Cảng Miền Tây, nhà ga xe lửa là những nơi tôi thường mướn chiếu để ngủ nên phải t́m vào nhà các bạn để trốn..

Tôi bị bắt hụt lần thứ 2..

Có lần tôi đang ẩn trong nhà một người bạn ở quận 11, Sài G̣n, khoảng 1 giờ khuya, bọn Công An Phường tông cửa ập vào nhà, tên Công An trưởng ra lệnh tất cả phải đứng yên tại chỗ và cho biết là chúng được tin trong nhà bạn tôi có làm ḷ nướng bánh ḿ lậu . Chúng bắt đầu lục soát..T rong lúc đó tôi đang ở trong pḥng ngủ của bà mẹ anh bạn v́ bà về thăm quê ở Thốt Nốt, nên anh bạn cho tôi ngủ tạm, v́ tôi cũng đề pḥng trường hợp nầy có thể xảy ra nên tôi không nằm ngủ trên giường mà chỉ trải tấm mền lót để nằm dưới đất, c̣n trên giường th́ mùng,mền, nệm gối đều xếp ngay ngắn, cửa pḥng khi vào tôi đă khóa lại phía trong, khi nghe tiếng bọn Công An vào tôi liền kéo tấm mền đẩy vào gầm giường rồi chung vào trốn trong tủ áo v́ quá cấp tốc nên tôi không c̣n đường nào để thoát.. Tiếng tên Công An trưởng hỏi bạn tôi :

“Ai ở trong pḥng nầy?”

Bạn tôi trả lời :

“Đây là pḥng ngủ của má tôi hôm nay bà đă về quê ở Thốt Nốt thăm bà con, không có ai ở trong đó hết”

Tên Công An ra lệnh bạn tôi lấy ch́a khóa mở cửa pḥng để chúng khám xét. Tôi lo sợ nghĩ rằng lần nầy hết phương thoát khỏi. Sau khi cửa pḥng đă mở tôi nghe tiếng chân của tên Công An bước vào pḥng, tôi hé nh́n kẹt cửa tủ áo thấy tên nầy ngó dáo dác trên giường rồi bước đến bàn đèn chộp lấy chiếc đồng hồ đeo tay của tôi đang để trên bàn rồi vội bước ra và ra lệnh cho mấy tên khác lên gác lục soát để t́m tang vật về việc làm bánh ḿ lậu như bột ḿ, bàn cân bột .v.v. Khi bọn Công An lên gác anh bạn vội mở cửa sau cho tôi tẩu thoát. Tôi thoát nạn lần nầy là nhờ vào chiếc đồng hồ “Hai cửa sổ, ba người lái” (Tiếng của bộ đội CS khi mới vào Nam) của tôi, v́ tên Công An lấy được nên vội bỏ đi ra ngay…

Lần thứ 3 bị bắt hụt.

Trong gần dịp lễ Giáng Sinh năm 1977, được tin bọn Công An sẽ bố ráp ở các nơi công cộng, bến xe đ̣, nhà ga xe lửa, nên tôi đến xin bạn tôi cho ngủ nhờ.. Khoảng 12 giờ khuya có tiếng đập cửa và tiếng bọn Công An kêu gọi mở cửa phía trước lẫn phía sau.. Trong lúc bạn tôi đi mở cửa, tôi chạy lên gác lầu và mở cửa sổ leo lên nóc nhà và ḅ rạp ḿnh theo bóng tối qua 2-3 nóc nhà và nằm nép ḿnh xuống máng xối giữa 2 mái nhà của pḥng bán thực phẩm do cán bộ VC quản lư. Chúng lục xét khắp nơi rồi lên gác mở cửa sổ nơi tôi vừa thoát ra.. Chúng nh́n qua mấy nóc nhà nhưng v́ tối quá nên chúng nó không thấy tôi nên chúng xuống lầu rồi bỏ đi… Kể từ đó anh bạn tôi không c̣n muốn thấy mặt tôi nữa v́ anh đă quá sợ. C̣n về phần tôi th́ cũng ngại ngùng không muốn liên lụy đến anh bạn nữa nên tôi tránh xa khu nhà của anh..!

Tôi được một anh bạn khác giới thiệu cho tôi gặp một người đại diện cho một tổ chức kháng chiến chống Cộng ở miền Tây,(xin được giữ kín) lúc đó tôi cũng có trách nhiệm cố vấn tham mưu, đại diện cho một lực lượng tại đô thành Sài G̣n gồm nhiều thành phần hỗn hợp, tôn giáo, quân nhân, công chức của Việt Nam Cộng Hoà . V́ lúc nầy tất cả Sĩ Quan đều bị đi tù cải tạo. .c̣n lại thành phần quân nhân từ Hạ Sĩ Quan trở xuống . Anh bạn Người Nhái của chúng tôi cấp bậc là Thượng Sĩ đă họp cùng một số anh em quân nhân và vài đoàn thể Tôn Giáo khác tổ chức ra một lực lượng trong đô thành. Khi anh gặp được tôi trốn trại lần thứ 2 , anh ngỏ ư nhờ tôi giúp trong phần điều hành nhân sự v́ trong tổ chức nhân sự đă vượt quá khả năng Hạ Sĩ Quan của anh .Tôi cũng cho anh biết là khả năng của tôi cũng hạn hẹp. Không thể lộ mặt được v́ đang lẩn trốn, tạm thời tôi xin nhận phần Ch́m đại diện cho tổ chức để t́m các tổ chức khác để kết hợp.v.v. Trong phần vụ đó tôi đă dấn thân cùng với một tổ chức khác đi về miền Tây để liên lạc với các cánh quân ly khai vùng Sóc Trăng và Cờ Đỏ.., và sau buổi họp tại khách sạn ở Cần Thơ, tôi đă bí mật mang về Sài G̣n những số nhà của các địa điểm cần được phối kiểm để tiếp tế khi cần. Nhưng chỉ vài tuần sau th́ tổ chức tôi đang hơp tác bị bể.. Chúng tôi đành phải nằm yên..

Nhờ người bạn thân giới thiệu tôi với một đại diện một cánh quân ở Miền Tây, tổ chức của anh đang bị động ở miền Tây nên anh lánh về Sài G̣n..Tôi và anh bàn thảo trong tinh thần cởi mở thân mật v́ chúng tôi đều đang đi t́m những đường dây tiếp tế thật sự từ ngoại quốc về và hứa sẽ giúp đỡ cho nhau khi cần với khả năng mà ḿnh có..

Sắp đến Tết Nguyên Đán ở đô thành lại bị bố ráp, tôi đến gặp anh Trần (xin tạm gọi là anh Trần…) nhờ anh giúp đưa tôi tạm lánh nạn về miền Tây ở vùng Cái Răng..Anh giới thiệu tôi là người Tàu lai ở Chợ Lớn đi t́m việc làm với ông chủ vườn cây ăn trái và nhờ ông giúp đỡ.. Ông chủ vườn đưa tôi vào vườn cây của ông cách mặt lộ khoảng 3 cây số.. V́ là vùng đất Bưng (đất sét đen) nên chỉ đi bằng chân không, v́ bùn śnh lún sâu không thể mang giày dép được .Tôi ở chung với vợ chồng người cháu. Tôi tạm gọi là anh Ba, anh là HSQ Truyền Tin, anh tự làm cho mù mắt để được miễn dịch, sau khi VC chiếm miền Nam, vợ chồng anh bần khổ nên về đây ở tạm. Anh cũng thường tự trách ḿnh mỗi khi tâm sự với tôi là ngày trước anh đă hèn nhát, đă tự hủy hoại thân thể để cầu an..bây giờ VC vào rồi anh mới thấy hối hận.. Anh cũng hỏi thăm ḍ tôi thuộc thành phần nào nhưng tôi giấu nhẹm chỉ cho anh biết tôi là người Tàu lai tên là Hứa Gia Ân..

Vườn cây ăn trái có khoảng 300 gốc, ban ngày tôi tưới nước và lặn xuống ḍng rạch để móc śnh non lên vun gốc. Ban đêm khi chiều xuống , tôi và anh Ba chèo xuồng đi giăng câu ở những nơi hoang vắng để tránh tai mắt bọn Công An vùng.. Có nhiều đêm mưa tầm tă chúng tôi quần áo ướt sũng co ro trên xuồng, hoặc t́m vào các ngôi miễu hoang mà trú ẩn cho qua cơn mưa, gần sáng chúng tôi mới chèo xuồng về. Vợ anh Ba, chị đem cá câu được đem ra chợ Cái Răng bán và mua lại gạo muối về dùng..Thỉnh thoảng một vài tuần anh Trần vào thăm tôi và tiếp tế chút ít tiền đưa cho anh chị Ba lo giúp phần ăn uống cho tôi v́ ông chủ vườn cũng không có dư dả nên vợ chồng anh Ba và tôi điều phải tự túc..

Thoát nạn lần thứ 4.

Tôi ở đây gần 3 tuần, tôi đă gặp NN Nguyễn Văn Cao chung khóa 2 NN với tôi,trong lúc tôi ra mặt lộ để hớt tóc. Cao gặp tôi vui mừng, tôi vội kéo Cao ra ngoài để tránh mọi người để ư và cho anh Cao biết là tôi đang lẩn trốn v́ đă vượt tù cải tạo hiện giờ thân phận tôi là người Tàu lai ở Chợ Lớn thất nghiệp nên xuống đây làm vườn để sống….Cao khẽ nói với tôi :

“Chú Ba T..(Ông chủ vườn) ngày xưa đă tiếp tế VC. Nếu anh ở nhà ông th́ tạm là an toàn v́ Công An phường khóm đều quen biết ông.”

.Nhưng vài hôm sau ông chủ vườn cho tôi hay là Công An nói giấy tờ của tôi đă gần hết hạn và muốn gặp mặt tôi vào ngày mai. Tôi cảm thấy nguy hiểm nên khoảng 3 giờ sáng sớm hôm sau tôi lén rời khỏi Cái Răng đi xe đ̣ trở về Sài G̣n…

Sau đó có lúc tôi ở Cai Lậy, Cần Thơ, Cái Răng, Ḅ Ót, Ô Môn, Thất Sơn, Châu Đốc. ..Tôi cố t́m vào các nơi bưng biền, nhưng khi biết ra th́ các anh em chỉ có “ngọn mà không có gốc”.

Tôi đành phải vượt biên, sau khi đă bị VC bắt hụt mấy lần. Cuối cùng tôi được một người bạn thân giúp cho tôi đem vợ và đứa con trai vừa hơn 3 tuổi.

NGÀY VƯỢT BIÊN

Ngày lễ Thanh Minh là ngày vượt biên! Chúng tôi xuống ghe tại bến Ninh Kiều Cần Thơ rồi chạy ra cửa biển Tranh Đề, được chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG- 0660 đón lên ghe và khởi hành ra cửa biển, nhưng khi vừa ra tới cửa biển chiếc ghe lại leo lên cồn cát, tất cả trên ghe là 59 người kể cả lớn nhỏ, đều nhốn nháo lên, v́ trên ghe có người đă vượt biên 5 lần 7 lượt mà vẫn không thoát, lần nầy ghe lại mắc cạn, nên mọi người đều lo sợ.

Tôi đứng ra kêu gọi tất cả hăy b́nh tĩnh, và tổ chức lại, chia ra nhiều tổ, mỗi tổ 2 người, bắt đầu xuống nước tính từ ghe chia ra tổ nào đi theo hướng nấy và khi nào t́m được chỗ nước sâu tới ngực th́ kêu lên. Tất cả đều làm theo lời của tôi, một lúc sau ở hướng bên trái kêu lên có chỗ sâu, tất cả đều cùng xúm lại đẩy ghe về hướng đó, ghe lại khởi hành, nhưng ghe chạy chỉ được chừng vài trăm thước th́ máy bơm nước từ trong ra ngoài bị bể. Tôi liền tổ chức chia thành 3 toán thay phiên nhau tát nước trong ghe ra ngoài. Tôi chọn 3 người lớn tuổi làm trưởng toán có trách nhiệm sắp đặt thay phiên nhau.

Tôi nghi ngờ anh tài công nầy, tôi lên pḥng lái hỏi anh tài công : “Anh chở theo bao nhiêu lít dầu ?”

Tài công trả lời : “400 lít”.

Tôi hỏi :” Ghe nầy chạy bao nhiêu cây số giờ ?”

Tài công : “không biết!”

Tôi hỏi: “Bây giờ anh đang chạy đi đâu ?”

Tài công : “Cứ chạy rồi sáng vô Ḥn Khoai tính lại”

Tôi biết tên tài công nầy có mưu đồ, tôi tức giận thét lớn lên :

“Anh rời khỏi pḥng lái ngay, kể từ bây giờ tôi lái chiếc ghe nầy!”

Tôi kéo cổ tên tài công ra khỏi pḥng lái và dặn các anh trưởng toán coi chừng tên tài công, c̣n tôi vào pḥng lái, lấy hướng 180 độ trên la bàn là hướng giữa Côn Sơn và Ḥn Khoai mà lái đi suốt đêm cho đến 7 giờ sáng. Tôi nh́n về hướng bên trái ghe thấy dạng núi Côn Sơn, biết là đúng hướng rồi, tôi lái thêm ba giờ nữa để ghe ra tới hải phận quốc tế.

Tôi được các người trên ghe cho biết tên tài công không có ư định vượt biên, nên vợ con anh ta để lại Việt Nam. C̣n ghe th́ không có tu bổ hay sửa chữa chi hết, nên nước đă vào theo kẽ hở tróc chai rồi lại hư luôn máy bơm nước, c̣n máy cũng hư, chỉ c̣n máy tiến mà không có máy lùi. Trên ghe đi biển vượt biên mà không có hải đồ, chỉ vỏn vẹn một la bàn trong pḥng lái mà thôi. Tôi đem tấm bản đồ giới thiệu đường hàng không của Mả Lai, tỷ lệ 1/40.triệu, nh́n vào bản đồ thấy nước Việt Nam bằng đầu ngón tay út, dùng bản đồ đó và địa bàn Bộ Binh,(Tôi đem theo tấm bản đồ và địa bàn nầy trong ḿnh là dự tính vượt biên bằng đường bộ.) tôi đo và xoay theo hướng độ, tôi kẻ đường thẳng đến thị trấn Kotabaru,của Mă Lai, giáp biên giới của Thái Lan, là hướng 240 độ.



Tôi lái ghe đổi hướng trực chỉ.. chúng tôi đă đi 2 đêm 2 ngày, mỗi ngày tôi đều thay dầu vào lúc 4 giờ chiều, rồi lại đi tiếp. Bỗg thấy có chiếc tàu từ xa chạy cùng chiều , chiếc tàu chạy tốc độ rất nhanh khi đến gần chúng tôi mới biết là tàu đánh cá Thái Lan. Chiếc tàu vượt qua ghe rồi ngừng lại, ra dấu cho chúng tôi cập vào, v́ ghe không có máy lùi nên kêu tất cả thanh niên khoảng gần 30 người đứng dàn hàng trên ghe để khi cập vào th́ đỡ lại, và tôi lái góc 90 độ mũi ghe chỉa thẳng vào hông tàu của Thái Lan dự tính khi đến gần sẽ lấy mũi lại song song với tàu, nhưng tàu Thái Lan hoảng sợ vội vọt mạnh về phía trước, làm cho một tên Thái rớt xuống biển. Tôi ṿng ghe lại vớt tên nầy lên, tên thủy thủ lên ghe chúng tôi mà có vẻ sợ sệt, chiếc tàu Thái Lan ṿng lại và ra dấu thả tên Thái đó và ra dấu sẽ tiếp tế thực phẩm cho chúng tôi. Tôi ra dấu cho tên Thái Lan nhảy xuống lội về tàu, chúng tôi được tàu Thái câu bỏ xuống 2 bao gạo và 2 thùng bằng nylon chứa nước ngọt, (v́ khi ghe bị mắc cạn chúng tôi đă đổ bớt nước ngọt đem theo để cho ghe được nhẹ bớt nên thiếu nước ngọt.) Sau đó tàu Thái Lan trở hướng chạy ngược lại, c̣n chúng tôi tiếp tục đi. Bà con trên ghe bàn tán, có lẻ tàu Thái Lan đó là hải tặc, nhưng khi thấy trên ghe đông thanh niên đứng dàn hàng nên chúng nó sợ chúng tôi cướp lại tàu của chúng nó nên chúng đành bỏ đi..?!

Đến chiều ngày hôm đó tôi họp với 3 anh trưởng toán lại và cho các anh biết là t́nh trạng chiếc ghe không c̣n an toàn nữa, v́ chất chai trét đă bị tróc nước vô nhiều, hy vọng có tàu lớn đi ngang cứu giúp. Tất cả đều lo lắng.. Khoảng 6 giờ chiều, bổng thấy ánh sáng chớp lên thật xa, tôi xem kỷ biết là Hải Tiêu, tôi báo cho tất cả trên ghe hay tin đều vui mừng, tôi lái theo hướng Hải Tiêu cho tới 12 giờ đêm mới vào được tới cửa sông, khi tôi ủi ghe lên bờ vừa chạm cồn cát, chiếc ghe ră ra và ch́m xuống nước, 59 người lớn và trẻ em trên ghe đều bồng bế nhau nhảy xuống biển, nước sâu tới cổ, và tất cả mọi người đều an toàn đến bến bờ đất nước Mă Lai..



Chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG – 0660 đă làm tṛn trách nhiệm của ḿnh đưa người tới bến bờ TỰ DO và đătrở về với ḷng Đại Dương ngàn đời.!.C̣n Chúng ta ….những đứa con v́ 2 chữ TỰ DO đă bỏ nước ra đi đang lang thang nơi đất lạ khắp năm châu.. Biết đến bao giờ những đứa con nầy mang 2 chữ TỰ DO về cho đất mẹ ?..!!

NN Lê Đ́nh An

Mă Lai, Mùa thu 1978.

Ghi chú : Vào năm 1984, gia đinh tôi c̣n ở Thành phố Houston, tôi có gặp lại một anh sĩ quan bị tù chung ở Thành Ông Năm quận Hốc Môn (Nơi tôi vượt tù lần thứ nhứt). Anh nầy được thả ra sau 3 năm tù, và anh đă vượt biên bằng ghe đánh cá. Sau khi tay bắt mặt mừng, anh cho tôi biết tin tức về các anh em tù cải tạo, tôi hỏi về 2 anh Nguyễn Hoành và Hoàng Trinh. Anh thở dài và cho biết : …Sau khi ở Trại Thành Ông Năm, bọn chúng đă chuyển tù nhân tất cả ra vùng U Minh rồi sau đó chuyển ra An Thới Phú Quốc, rồi chuyển về núi Thị Vải, 2 anh Nguyễn Hoành và Hoàng Trinh đă vượt trại tù ở chân núi Thị Vải Vũng Tàu và đă bị bắn chết cả 2 ở giữa ṿng rào kẽm gai…!!

* * *

Vào tháng 5 – 2003 . Tôi được NN Nguyễn Đức Nguyên báo tin cho tôi biết có gặp anh Đặng Văn Sáu, sĩ quan bị tù cải tạo qua Mỹ trong diện HO hiện anh đang làm an ninh khu vực (Security) của Ngân Hàng nơi NN Nguyên đang gởi tiền. Anh nầy biết Nguyên là NN nên hỏi Nguyên có biết anh Lê Đ́nh An làm việc ở Phủ Tống Thống hay không ?.Nguyên trả lời Anh An là bạn cùng chung đơn vị Phủ Tổng Thống với tôi. Anh Sáu kể lại câu chuyện :

“Anh Lê Đ́nh An và tôi ở tù chung trại Phản động K3. ở Gia Rây. Ngày anh An vượt trại với một người tên là Trần Quang, tất cả Trại tù anh em đều bàng hoàng kinh sợ v́ xung quanh trại đều có ḿn.. Anh Sáu kể tiếp : “Sau khi anh An vượt trại, bọn cán bộ cho tất cả tù ngưng lao động để chờ bắt các anh trở lại, nhưng bọn cán bộ rất tức giận v́ chúng không bắt lại được ..Sau đó khoảng chừng 4 tháng, chúng nó chuyển tất cả trại K.3 ra miền Bắc.Trên chuyến Tàu đang chờ đợi chở ra Bắc, anh em lại thấy cán bộ giải đến một người bị c̣ng tréo tay sau lưng, thân h́nh gầy g̣ ốm yếu, khi giải đến gần anh em mới biết là anh Trần Quang . Sau nầy anh Quang v́ ở chung trại với tôi nên kể cho tôi nghe cuộc vượt tù với anh Lê Đ́nh An, thời gian đó anh Quang v́ bị bịnh sốt xuất huyết cho nên người quen của anh Quang phải đưa vào nhà thương điều trị ..v́ vậy nên Quang bị lộ và bị bắt lại, rồi chúng nó giải giao lại cùng trại Nam Hà chung với toán chúng tôi…

Được vài tháng sau Quang tâm sự với tôi là sẽ t́m cách trốn nữa…Quả thật Quang đă t́m cách trốn bằng cách uống nhiều thuốc trị sốt rét nên bị vật vă , khi bọn cán bộ chở vào nhà thương th́ Quang đă chết v́ bị uống quá liều. Có lẽ Quang dự tính dùng phương pháp nầy để khi vào nhà thương, anh sẽ t́m cách thoát thân… Nhưng anh vĩnh viễn không c̣n cơ hội nữa…!

Vào ngày 03-01-2004. Tôi nhận được diện thoại của anh Đặng Văn Sáu, tôi rất vui mừng. Sau khi hàn huyên thăm hỏi … Anh Sáu cũng kể lại diễn tiến từ khi tôi và Trần Quang vượt trại cải tạo K.3 như kể ở phần trên…

Anh Đặng Văn Sáu được thả ra vào năm 1982. Anh lập gia đ́nh vào năm 1983, khi có được một cháu, gia đ́nh anh được qua Mỹ trong diện HO đợt 10, hiện đang sống tại California.


NN Lê Đ́nh An

hoathienly19 10-12-2020 03:46

TRẠI GIAM CỔNG TRỜI
 
TRẠI GIAM CỔNG TRỜI





TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 1 & 2






TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 3






TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 4&5





C̣n tiếp

hoathienly19 10-12-2020 06:53

TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 6 -7 -8-9 -10
 
TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 6





TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 7&8





TRẠI GIAM CỔNG TRỜI PHẦN 9 & 10






hoanglan22 10-13-2020 14:50

Trung Tá Vơ Vàng - Xin Một lần Được Nhắc Tên
 


Thời gian vẫn vô t́nh trôi qua, như nước chảy dưới cầu, như vó câu qua cửa sổ.... Và ḷng người th́ bị cuốn hút vào trong cơn lốc xoáy nghiệt ngă của thời cuộc. Tháng Tư uất hận một lần nữa lại về .... Đă bao lần tôi muốn viết vài ḍng trân trọng, để tưởng nhớ anh, nhưng tiếc thay tôi biết quá ít về đời tư của anh, dù đă có thời gian anh đối xử và thương mến tôi như thằng em nhỏ dại. Sau khi cải tạo về, tôi đă cố t́m gặp những người có mặt bên anh trong những giây phút cuối, để lấy thêm dữ kiện sống, nhưng cũng không thỏa măn được những điều tôi muốn biết. Ngay khi mới đinh cư tại Hoa kỳ, tôi đă t́m ṭi qua báo chí, nhất là những thiên hồi kư trong tù của nhiều người, nhưng cũng chỉ thoáng qua tên anh. Tháng Tư năm 1975, tháng Tư 2004: 29 năm, một phần ba đời người sống thọ. Thời gian thật dài. Sợ chờ đợi măi, có khi trí óc bị bào ṃn và thời gian sẽ đưa tất cả vào quên lăng. Thà thắp lên tia lửa nhỏ, c̣n hơn ngồi nguyền rủa bóng đêm. Tôi quyết định, mạo muội viết những kỷ niệm về anh, gọi là thắp nén hương tưởng niệm người anh hùng, tôi hằng kính yêu nhân ngày giỗ thứ 27 sắp tới của anh. Tháng 7 năm 1977.... Tháng 7 năm 2004.

QUEN ANH NHƯ LÀ MỘT ĐỊNH MỆNH - Người ta ở đời có hai trường hợp:

Thứ nhất: Mới thoáng gặp nhau là đă có cảm t́nh, muốn tṛ chuyện, muốn kết thân, hay trai gái mới gặp nhau đầu mày, cuối mắt đă phải ḷng nhau, muốn trao nhau trái tim yêu nóng hổi, sách tướng số, bói toán gọi là hạp căn, hạp tuổi, hạp mạng, v.v.. Thứ hai: Mới gặp nhau dù chưa từng quen biết, mới thoáng qua là đă muốn dọa, muốn đục, muốn đuổi đi cho khuất mắt, sách tướng số gọi là xung khắc, không hạp căn, không hạp mạng, gần nhau là như chó với mèo.... Tôi hân hạnh quen anh nằm trong hai trường hợp trên. Sau chuyến công tác, trở về Đà Nẵng, buổi chiều hôm đó tôi dẫn cô bé Lệ H... đi ăn ở nhà hàng nổi, trước khách sạn Bạch Đằng, đây là lần đầu tiên tôi đưa cô bé đi ăn ở nhà hàng. Thường thường chúng tôi đi ăn kem Diệp Hải Dung, cơm gà Hải Nam, hay bánh hỏi thịt nướng, chè Ngă Năm... đi vào chỗ nào, cô bé cũng rụt rè, e lệ, tôi muốn đưa vào nhà hàng để cô bé làm quen với không khí mới lạ. Bước chân vào trong, cô bé đă tỏ ra mất b́nh tĩnh trước không khí nhiễm đầy khói thuốc và sắc áo rằn ri. Tôi trấn tĩnh em và đưa vào một góc cuối, hai đứa đang cúi xuống trên tấm thực đơn, chọn thức ăn, th́ có một bóng người đến đứng trước bàn tôi, tôi ngẩng đầu lên, bắt gặp khuôn mặt đỏ ké, trong bộ quân phục rằn ri Biệt động, trên cổ áo một bông mai đen, tôi tưởng bạn nh́n lầm người, nên định đứng lên chào, nhưng không, anh chàng đưa mắt nh́n Lệ H. và gằn giọng nói với tôi: Ai cho phép mày nghinh bọn tao? Tôi biết ḿnh đang bị kiếm cớ gây sự. Tôi thầm kêu khổ trong bụng, không phải tôi sợ, tôi là thằng ĺ có tiếng, ngàn lần tôi không sợ, nhưng làm sao tránh cho cô bé khỏi bị tổn thương. Tôi xin vắn tắt vài ḍng, xem tôi đă làm ǵ mà các bạn Biệt Động ngứa mắt. Tôi vừa ra trường trên một năm, xông pha trận mạc vài lần, nhưng nhỏ con, chưa qua khỏi tuổi 21, nên c̣n rất thư sinh, nếu cởi bỏ binh phục thay vào áo trắng quần xanh, tôi cũng chỉ là cậu hoc tṛ trung học. Thế mà dám dẫn đào vào đây rước đèn, áo quần cũng rằn ri nhưng khác màu của Biệt động, binh chủng chúng tôi có cái thói quen lập dị là không bao giờ mang cấp bậc, nếu có mang cũng rất kín đáo, như muốn không cho ai thấy, gắn ở chuôi dao găm, sau nắp túi áo.... Rừng nào th́ cọp nấy, thành phố Đà Nẵng là rừng của anh em Liên đoàn I BĐQ. Tôi biết tôi đă làm cho các anh gai con mắt, và muốn đục tôi, dằn mặt.

Anh Thiếu úy chưa thấy tôi trả lời, đă cao giọng ra lệnh: mày hăy đến bàn kia xin lỗi mấy anh đi, th́ tau tha cho! Tôi biết t́nh h́nh quả gay go. Thực khách lần lượt ra khỏi nhà hàng. Xin lỗi ư? Không bao giờ, v́ tôi có lỗi ǵ đâu. V́ tự ái, v́ màu áo tôi đang mặc, tôi biết chắc là có đổ máu, đổ máu một cách vô ích, v́ trong túi quần trận tôi luôn luôn có khẩu Breta nhỏ, Lệ H. tái mét mặt mày. Tôi bảo nhỏ: Em qua ghế đá ngồi đợi anh. Tôi bỏ tay vào túi quần, chạm cục thép lạnh, tôi nghĩ nếu anh bạn xáng tôi bạt tai, th́ máu sẽ đổ. Trong giây phút quả bong bóng căng sắp nổ, th́ có tiếng tằng hắng nghe rơ mồn một ở gần quầy, anh chàng Thiếu úy nh́n lên, lẳng lặng về bàn và cả bộ ba kéo nhau rời nhà hàng. Lệ H. như chết khiếp, tôi phải trấn an nàng, nên chưa để ư xem ai vừa tằng hắng, mà mấy ông thần gây sự bỏ đi, th́ một người cao to, bước đến trước mặt, tôi nh́n thấy cặp galong Thiếu Tá trên cổ áo rằn ri, bảng tên trên túi: VANG. Tôi đứng thẳng người chào, nhưng Thiếu Tá vỗ vỗ vào vai tôi và nói: Em hăy ngồi xuống và tự nhiên cùng bạn gái em ăn uống, xem như không có ǵ xảy ra. Ông hỏi tôi về đơn vị, tôi tŕnh bày đơn vị, cấp bậc, và nói: Em vừa về sau chuyến nhảy dài nên chưa cắt tóc, các anh kia thấy gai mắt mà sinh chuyện, xin Thiếu Tá tha lỗi. Ông dịu dàng: Em không có lỗi ǵ cả, thôi quên đi mà vui vẻ với bạn gái. Chúng tôi chưa ăn ǵ cả, và thức ăn cũng chưa mang ra. Lệ H. một mực đ̣i về, tôi đành chiều nàng. Tôi đứng lên: Thưa Thiếu Tá, cho em đưa bạn gái về, không ngờ ông sốt sắng lấy xe Jeep đưa chúng tôi về, dù tôi quyết liệt từ chối, sợ làm phiền ông. Sau khi trả Lệ H. về nhà nàng, tôi lại đi chơi và tâm sự với ông gần sáng đêm. Đó là Thiếu tá VƠ VÀNG, Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 21 BĐQ, lừng vang trên chiến trường Miền Trung.

Từ lúc c̣n mài đũng quần trên ghế Trường TH/PCT/ĐN, tôi đă nghe danh và ngưỡng mộ người anh hùng này, không ngờ t́nh cờ như một định mênh xui khiến, tôi được quen Ổng và được ổng thương mến như em út. Ông bắt tôi gọi bằng anh và gọi tôi bằng mày (tiếng mày từ miệng ông sao mà thân mật quá, không như tiếng mày của anh bạn Thiếu úy BĐQ gọi tôi trong nhà hàng, nghe qua đă lộn máu nóng lên đầu....) Tôi thưa: Trước mặt lính tráng của Thiếu Tá, mà em gọi như vậy e bất tiện quá! Ổng nghiêm giọng: Có sao đâu, mày là em tau, là em tau th́ phải gọi tau bằng Anh.

NHỮNG NĂM THÁNG CÓ ANH TRONG ĐỜI

Từ đó sau những lần về ĐN tôi thường ra căn cứ Liên đoàn 1/BĐQ ở Phú lộc (trên đường ra Ḥa Khánh, quẹo tay mặt) để thăm anh, nhờ đó mà tôi quen gần hết các bạn trong Tiểu đoàn 21/BĐQ, kể cả anh Thiếu úy T. người đ̣i đục tôi trong nhà hàng. Thời gian những năm 66, 67, chiến trường miền Trung vô cùng sôi động. Đồng minh ào ạt đổ quân vào. Tiểu đoàn 21 BĐQ của Thiếu Tá Vơ Vàng đă tạo những chiến công vang dội, báo chí trong và ngoài nước nức ḷng ngợi khen, các cấp chỉ huy Quân Đồng minh nể mặt. Những lần gặp lại anh, tôi được anh thương mến đặc biệt, thường dặn ḍ và bày vẽ những kinh nghiệm chiến trường, v́ duới mắt anh, tôi chỉ là con dê non ưa húc càn. Anh luôn nói về đời lính và yêu đời quân ngũ trên hết mọi chuyện, ở anh chỉ có chiến công và mong sớm có thanh b́nh cho quê hương. Tết Mậu Thân, hai anh em cùng hành quân trên một địa bàn, Nam sông Hương. Khi tạm yên tiếng súng, anh gọi tôi sớm mai đến Bộ chỉ huy (BCH) của anh để uống bia, nhưng đêm đó, tôi nhận lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm cho đơn vị bạn, để đến vùng hành quân khác,thất hẹn với anh. Sau Mậu Thân, anh được vinh thăng Trung tá và giữ chức vụ Liên đoàn phó LĐ1/BĐQ. Sau đó anh được thuyên chuyển về Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, giữ nhiệm vụ Trưởng ban Quân vụ; đây là thời gian dài, chúng tôi không gặp nhau, Trường Vơ Bị Đà Lạt là chỗ dung thân tốt nhất cho những ai muốn t́m chữ THỌ, nhưng trong những bức thư anh gởi cho tôi, anh luôn luôn than buồn chán và nhớ chiến trường. Hơn ai hết, tôi biết con hổ bất đắc dĩ phải xa núi rừng th́ rất nhớ rừng xanh núi thẳm. Anh mong được trở lại thời ngang dọc cũ. Và anh được toại nguyện, anh trở ra cầm quân trong chức vụ Trung đoàn trưởng trung đ̣an 5/SĐ2 Bộ Binh, tôi cứ đinh ninh với tài thao lược và kinh nghiệm của anh, đường tiến thân của anh sẽ thênh thang, rộng mở. Những ngày trước khi Hiệp định Paris được bốn bên kư kết, VC cố đánh chiếm Sa Huỳnh để làm cửa khẩu và cắt đứt con đường huyết mạch Nam Bắc của VNCH; đây là đất anh dụng vơ, anh muốn đánh trận đánh để đời, nhưng đột nhiên tôi nghe anh bị cách chức Trung Đoàn trưởng. Nguời cách chức anh là Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh SĐ2 BB. Tôi xin dành ít ḍng để điểm qua báo chí về vị tướng này:

Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của Chuẩn tướng Nhựt th́ canh bạc x́ phé ông ăn đậm nhất là khi mặt trận B́nh Long nổ ra. Ông đă về nhiệm sở kịp thời để xí phần v́ trên cương vị Tỉnh trưởng và Tiểu khu trưởng B́nh Long, ông không góp tí công lao nào cả, mà mọi chuyện đă có Chuẩn tướng LÊ VĂN HƯNG Tư lệnh SĐ5/BB, Đại tá Lê Quang Lưỡng, Lữ Đoàn Dù, Đại tá HUẤN, Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù lo trọn gói. Khi An lộc được quân dân anh hùng tái chiếm, Bà vợ Chuẩn tướng Nhựt đă chạy cửa hậu với chị Sáu Thẹo, kiếm cho cái chức Tư lệnh SĐ2BB và một ông sao (ông này có số núp bóng quần hồng). Trong trận tái chiếm Sa Huỳnh, SĐ2BB dưới tài cầm quân của Chuẩn tướng Nhựt th́ ra sao (?) xin mời quư vị hăy nghe nhân chứng sống, Trung úy Trần Thy VÂN, người trực tiếp dự trận đánh với chức vụ Đai đội trưởng ĐĐ1/Tiểu Đoàn 21 BĐQ, kể sau đây trong tập bút kư chiến trường ANH HÙNG BẠT MẠNG của Ông: (Theo lời Thiếu tá Quách Thưởng kể, trước khi TT Nguyễn Văn Thiệu đến BCH Trung đoàn 6 xem thành quả tái chiếm Sa Huỳnh, các khối vũ khí được tŕnh bày riêng rẽ, với tấm bảng đề tên đơn vị tịch thu. Dĩ nhiên chiến lợi phẩm của LĐ1/BĐQ cũng được ghi rơ. Đặc biệt thêm một tấm tương tự treo trên ṇng súng pḥng không 12ly8. Nhưng khi phái đoàn Tổng Thống đáp trực thăng xuống và các Sĩ quan Mũ nâu ra sân đón rước, th́ Chuản Tướng TRẦN VĂN NHỰT LIỀN CHO BỘ HẠ NƠI PH̉NG TRIỂN LĂM ĐÁNH THÁO HẾT CÁC TẤM BẢNG GHI CHIẾN LỢI PHẨM, NGHĨA LÀ MỘT DĂY 300 CÂY SÚNG ĐỦ LOẠI DO BĐQ TỊCH THU, BỖNG TRỞ THÀNH CHIẾN LỢI PHẨM CỦA SĐ2BB. Ông c̣n trắng trợn, bỉ ổi không thể tả được là độc nhất có cây pḥng không 12ly8 của ĐĐ tôi cũng bị đánh tráo luôn, không chút ngượng tay. Rơ ràng hành động của Chuẩn tướng NHỰT như anh hàng thịt, treo đầu heo bán thịt chó. Tội nghiệp đám tướng sĩ tượng, cả xe pháo mă đứng xem chỉ biết tấm tắc khen tài, chứ đâu có ngờ ông b́nh vôi, nửa người nửa ngợm, vừa làm tṛ ảo thuật cướp công xương máu BĐQ....) (Xin ngưng trích).

Tháng Tư năm 1975, Chuẩn Tướng NHỰT (hay là GIỰT chạy) kéo được ít quân tháo chạy về Tuy Ḥa, được Trung Tướng Vĩnh Nghi, Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 3, giao cho làm Phụ tá Hành Quân tái phối trí lực lượng. Giữa lúc dầu sôi lửa đỏ, Chuẩn tướng NHỰT lên trực thăng xin đi thị sát mặt trận, nhưng vù thẳng ra Hạm đội 7, đào ngũ. Theo kỷ luật Quân đội: khi đối diện với địch mà đào ngũ th́ ra toà án binh, bị tước đoạt binh quyền và có thể bị Tử h́nh. Nhưng khi qua đến Mỹ, Chuẩn tướng NHỰT đă không bị lột lon, mà c̣n tự phong là Thiếu tướng, ba hoa chích choè. Khi bị báo chí vạch lưng, th́ đánh lận con đen, xưng là Tướng (General) để người ta có thể tưởng là Major General, hay Lieutenant General, hay hơn nữa... mà thực chất là phường biển lận, tên hèn nhát, kẻ vô liêm sỉ, bất tài. Đất nước chúng ta để cho những tên như vậy, giữ trọng trách trấn nhậm những vùng hiểm yếu, mà măi đến 1975 mới rơi vào tay VC, âu cũng là một phép lạ, hy vọng sử sách sẽ dành cho những tên tướng Quảng-lạc này vài chương, để hậu thế tránh vết xe cũ. Hiệp định Paris được kư kết, trong đó có kèm theo 2 Nghị định Thư, tổ chức hai cơ quan thi hành, đó là ICCS (International Commission Control, Surpervision) gọi là Uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế gồm hai nước CS là Ba Lan và Hungary, hai nước tự do là Indonesia và Canada. Nhưng sau Canada thấy không đi đến đâu nên rút lui và Iran vào thay thế (thời gian này Iran c̣n có Vua Palavi, thân Mỹ) và cơ quan kia là Ban liên hợp quân sự bốn bên và sau c̣n lại hai bên (VNCH và Thằng Giải Phóng đội lốt). Trung tá VƠ VÀNG bị đưa về Phú Bài, Huế giữ chức vụ trưởng toán BLH/Quân Sự VNCH Phú Bài, một chức vụ ngồi chơi xơi nước vối. Anh như con cọp bị chặt hết nanh vuốt, buồn rầu, chán nản. Tôi đến thăm anh, t́m cách an ủi anh, cũng như t́m hiểu nguyên nhân tại sao cờ đến tay anh đang phất mà bị người ta giựt mất. Anh chỉ buồn rầu nói: Chỉ v́ anh biết quá nhiều, người ta sợ anh nổi lên th́ người ta sẽ mờ đi. Nó nhiều tham vọng nhưng tài hèn và nhiều thủ đoạn....

Tôi sợ anh buồn chán, nên đem đến cho anh đủ dụng cụ thể dục và khuyên anh tập đều đặn, để giữ sức khoẻ, người ta sẽ cần đến anh. Trong thời gian ở Phú Bài, công việc của anh có phần nghi lễ, nghĩa là đón tiếp các phái đoàn từ Sài G̣n ra tại sân bay Phú Bài. Một hôm anh ra đón một Đại tá người Hungary, Trung tá Vơ Vàng trong cái bắt tay xă giao, đă bóp nát tay tên Đại tá CS, tên Đại tá này sau đó làm lớn chuyện, gởi văn thư phản kháng đến Trung ương. Anh rất căm thù CS dù dưới màu da nào. Hiệp định Paris chưa ráo mực, CSVN đă vi phạm khắp nơi, Tướng Ngô Quang Trưởng sáng suốt, thấy được viên dơng sĩ đang ngồi chơi xơi nước vối, nên vội gọi vào tŕnh diện và giao cho Liên đội ĐPQ Quảng Nam, h́nh thức tổ chức của Liên đội ĐPQ, cấp số cũng tương đương với Lữ đoàn hay Trung đoàn. Khi đi nhận nhiệm vụ, anh có hỏi tôi: Muốn làm việc cạnh anh không? Tôi biết anh thương tôi, muốn nâng đỡ tôi. Tôi quá quyến luyến màu áo đang mặc, nên xin cho thời gian nữa. Nhưng không có thời gian nào cho chúng tôi nữa cả. Tháng 3/75, Đà Nẵng tan tác, ĐN uất nghẹn đau thương, tan đàn rẽ nghé.... Ngày 5 tháng Tư năm 1975, một buổi sáng tôi ra giếng nước trong Quận Điện Bàn, Quảng Nam (nơi đám tù tàn binh tập trung) để lấy nước, bất ngờ gặp anh, tôi như chết lặng. Tay trái anh được treo lên: Anh cho biết ngày 29/3 mới về đến Đà Nẵng, đang đi trên đường Thống Nhất gần Cầu Ṿng, th́ bị một chiếc xe dân sự tông anh, may mà anh văng lên lề, chỉ bị thương. Tôi thật sự lo lắng cho anh, v́ anh nổi tiếng quá. Ngay đây, nơi tập trung tù binh, cũng không có ai dám gần anh để giúp anh trong khi anh đang bị thương. Tôi chỉ nói với anh, ngay bây giờ anh phải t́m cách thoát, lợi dụng lúc này để thoát, nguy hiểm quá. Tuần lễ sau, tôi bị đưa đi chỗ khác với thầy Hoàng Thế Diệm, không c̣n qua lại thăm anh.

NGƯỜI ANH HÙNG BỊ THỦ TIÊU

Sau thời gian tập trung tại Quận đường Điện Bàn, QN, tất cả tù tàn binh tŕnh diện hay bị bắt tại Đà Nẵng, được đưa lên Trại Kỳ Sơn. Trại Cải tạo Kỳ Sơn gồm 1 tổng trại và 4 phân trại. Sĩ quan cấp tá ở trại I gần mỏ vàng Bồng Miêu. Trại 2 nằm sâu về hướng Tây, dành cho Sĩ quan cấp Đại úy. Trại 3 và 4 dành cho cấp Trung úy trở xuống, gần trại 1 và Tổng trại. Anh Vơ Vàng nằm trong trại 1. Sau thời gian đầu lo xây dựng doanh trại, phát rẫy canh tác, ổn định nơi ăn chốn ở. Tháng 5 năm 1977, đợt học tập chính trị được mở ra trên quy mô rộng lớn. Tất cả đều nghỉ lao động và tham dự 100%. Những buổi học, tất cả tập trung tại hội trường để nghe cán bộ chinh trị lên lớp và sau đó về tổ thảo luận những bài: Đế quốc Mỹ, tên sen đầm quốc tế, kẻ thù số 1 của nhân dân ta và loài người tiến bộ trên trái đất. Hệ thống Xă hội chũ nghĩa.... Nhưng hóc búa và điên đầu nhất là bài Ngụy quân và Ngụy quyền, tập đoàn tay sai bán nước. Sau khi ngồi nghe chưởi rủa trên hội trường, trở về tổ phải liên hệ bản thân, tự giác khai ra những việc đă làm trong thời gian phục vụ trong quân đội VNCH. Đây là bản án, tự ḿnh viết cho ḿnh, ai cũng phải t́m cho ḿnh một cái tội. Sau đợt học tập chính trị, có người như bị kiệt sức v́ bị những đ̣n tra tấn cân năo. Nhiều lúc giữa đêm khuya bị gọi lên khung (bộ chỉ huy) làm việc, cứ tra đi hỏi lại những hoạt động đă qua. Trung tá Vơ Vàng là mục tiêu chính, bọn cai tù nhắm đến, luôn luôn chúng đặt câu hỏi: Trong quá tŕnh chỉ huy BĐQ, Trung đoàn Trưởng, Liên đội Trưởng, anh đă giết bao nhiêu cán bộ CS và dân lành? Mấy ngày đầu anh trả lời: Trên cương vị chỉ huy, tôi chưa bao giờ trực tiếp bắn, c̣n lính dưới quyền, lúc xung trận, ai bắn chậm th́ chết, tôi không biết. Bọn chúng đâu có chịu... bọn chúng quay anh từ sáng tới tối, ngày nọ sang ngày kia, nhưng anh vẫn kiên gan giữ vững lời khai... đến lúc đó, bọn chúng mới đem những tờ báo cũ có ghi kết quả các trận đánh ra và tổng kết tổn thất địch (VC) trong khoảng thời gian anh Vàng chỉ huy, không dưới 20 ngàn VC phơi thây. Bản án Tử h́nh cho anh đă manh nha thành h́nh.

Trong số các vệ binh coi tù, có nhiều tên mới theo VC sau 30 tháng 3/75, gồm nhiều thành phần, có tên rất khát máu, thù hận v́ có thân nhân bà con chết trong cuộc chiến, nhưng cũng có tên nguyên trước 30 tháng 3 là học tṛ của vợ tù, nên cũng dễ dăi và dễ bị mua chuộc để lấy tin tức. Sau đợt học tập chính trị quy mô kéo dài trên một tháng, tất cả tù được lệnh đi lao động trở lại. Một đêm đầu tháng 7 năm 1977, bộ chi huy trại 1 có cuộc họp chi bộ đảng, bản án tử h́nh dành cho Trung tá VƠ VÀNG đă được tổng trại Kỳ Sơn kư từ trước. Buổi họp này có mục đích t́m người t́nh nguyện thi hành bản án. Tên Nguyễn Bốn, tên vệ binh loắt choắt, nhỏ con nhưng khét tiếng ác độc và khát máu đối vời tù, đứng lên t́nh nguyện thi hành. (tên Bốn này có cha hoạt động nằm vùng cho VC bị nghĩa quân giết). Buổi trưa hè tháng 7 năm 1977, tổ của Trung tá Vơ VÀNG có nhiệm vụ tỉa bắp trong rẫy, cạnh sông Vàng (nói là sông, nhưng thật sự là ḍng suối nhỏ chảy qua các ghềnh đá bị xoi ṃn rất đẹp) trong khu vực Mỏ Vàng Bồng Miêu. Trời đứng bóng, nắng chang chang, tất cả tổ nghỉ lao động kéo nhau vào bóng mát, lấy vắt cơm sắn và chút nước mắm cái ra ăn, th́ tên Nguyễn Bốn xuất hiện với AK trên tay, ra lệnh: Anh Vàng theo tôi lên đồi nhổ sắn (củ ḿ) về bồi dưỡng cho cả tổ. Linh tính báo cho biết việc chẳng lành, anh em trong tổ nhao nhao lên: Xin anh cho tôi đi nhổ sắn thay, v́ anh Vàng mấy hôm nay bị kiết lỵ, yếu lắm. Nhưng tên Bốn vẫn khăng khăng bắt anh Vàng đứng lên đi lên đồi. Khoảng từ 7 đến 10 phút sau, th́ một loạt AK nổ. Lát sau, tên Bốn trở xuống nói: Các anh lên đem xác tên Vàng xuống chôn cất, nó giựt súng tôi, nên tôi đă xử lư. Bọn khốn nạn, lũ hèn nhát đă giết anh một cách hèn hạ. Tại sao chúng lại dựng nên tấn tuồng giết người tay không một cách hèn hạ như vậy? V́ bản chất chúng là bọn người hèn hạ, đê tiện, làm việc ǵ cũng không quang minh, chính đại, hành động của lũ đầu trộm, đuôi cướp.... Anh đă tức tưởi nằm xuống bên ḍng sông Vàng, trong khu Mỏ Vàng Bồng Miêu, như là một định mệnh....

Anh VƠ VÀNG kính yêu, đă 29 năm, ngày Tổ quốc bị bức tử, 27 năm ngày anh bị chúng hành h́nh một cách hèn nhát. Thời gian đủ để mọi người mở mắt nh́n thấy rơ Thiên đường Cộng sản, thời gian đủ dài để xác thân anh trở về với cát bụi, và em tin tưởng linh hồn anh đang oai nghi, thanh thản ở cơi vĩnh hằng. Xin hăy cho em một lần được nhắc đến tên Anh, Anh VƠ VÀNG, với ḷng kính phục và thương tiếc sâu xa, một người anh, một chiến sĩ QLVNCH kiệt xuất, hy sinh hết tuổi thanh xuân và cống hiến thân xác cho đại cuộc: Bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc. Xin anh cho em được đốt nén hương tưởng niệm anh nhân ngày giỗ thứ 27 của anh. Xin anh cho em một lần nữa nhỏ nước mắt nhớ thương Anh.

Trương Đức Thủy

Về Một Lời Hứa Từ 39 Năm Qua

Kính gửi chị Đường - Phu nhân cố Trung Tá Vơ Vàng,

Tôi không c̣n nhớ ḿnh đă từng kéo bàn phím chiếc computer ra bao nhiêu lần nữa, không phải để ‘check’ những ‘mail’ của bạn bè xa gần gửi đến hay t́m kiếm vài thông tin cần thiết hầu bổ sung cho cái ‘nghề tay trái’ đă nuôi sống bản thân và gia đ́nh trong mấy chục năm qua, mà như muốn viết lên một điều ǵ đó, một sự kiện ǵ đó đă xảy ra trong những đoạn đường đời ḿnh đă đi qua. Nhưng rồi, cứ mỗi lần nh́n đăm đăm vào chiếc màn h́nh trắng xóa th́ đầu óc lại không nhớ ra được ḿnh phải gơ lên đó những ǵ dù vẫn có cảm giác như có ai đó đă và đang hối thúc tôi ghi lại những ǵ đă ch́m sâu dần trong kư ức qua bao năm tháng dài tôi vừa phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày, vừa phải lạng lách tránh những ŕnh rập vô h́nh măi đeo đẳng tôi cho đến bây giờ…

Rồi bỗng dưng, như một cơn mưa bất chợt giữa ngày Hè nóng bức, trong cuộc gọi chuyện tṛ b́nh thường gần đây nhất với một người vừa là bạn, vừa là đàn anh trong quân ngũ, ở xa, không biết có phải từ những kư ức anh ấy đang cùng với một người bạn gợi lại về quăng đời lao tù trong những nơi Cộng Sản gọi là Trại Tù “Cải Tạo” mà thực chất là Trại Tù Khổ Sai dành cho những Sĩ Quan của chế độ cũ, anh đột nhiên nhắc đến tên của ‘một người’. Lời nhắc này giống như tiếng gơ rất mạnh khiến kư ức tôi mở toang cánh cửa đă vô t́nh đóng kín một lời hứa sau lời xin lỗi với ‘người ấy’ từ hơn 38 năm qua. Và tôi chợt liên tưởng đến những lần muốn kể lại điều ǵ đó từ lâu đang cứ lảng vảng trong tiềm thức khiến tôi măi ray rức, canh cánh trong ḷng….

Lời xin lỗi kèm theo lời hứa với ‘người ấy’ đă chỉ được nói lên trong thầm lặng trong khi tôi và anh Chí (Nhà trưởng thuộc Khối 1 của Trại Tù Kỳ Sơn vào khoảng giữa năm 1977) được lệnh trực tiếp từ tên “Quản giáo” Nhà phải tường tŕnh vụ ‘người ấy’ bị bắn chết, hoàn toàn trái ngược với sự thật, ngược lại với những ǵ chúng tôi đă nghe bằng chính tai và chứng kiến bằng chính đôi mắt của ḿnh.

Từ trại tạm giam tại Điện Bàn, Quảng Nam vào thượng tuần tháng 4/1975, sau khoảng gần 2 tháng và cũng sau khi Sài G̣n thất thủ, chúng tôi bị chuyển lên Trại Kỳ Sơn, Bồng Miêu (Tam Kỳ, Quảng Tín). Từ lúc xe lăn bánh, chúng tôi (số Sĩ quan cấp Tá) đinh ninh sẽ bị đưa ra các trại giam ngoài Bắc (theo tin đồn). Nhưng khi ra đến Quốc Lộ 1 th́ đoàn xe quẹo trái hướng về nam khiến chúng tôi không thể nào đoán được ḿnh sẽ bị đưa đến đâu. Dọc đường, tôi chỉ biết theo dơi những điểm đoàn xe đă đi ngang qua và nhớ lại rất rơ từng địa danh, v́ là vùng trước kia đơn vị tôi đă từng vượt qua trong những lần hành quân (từ cuối 1969 đến giữa 1971).

Đoàn xe đến Tam Kỳ th́ quẹo phải về hướng núi và tiếp tục trên con đường đất rộng khoảng 6-7 mét, lạ hoắc với tôi. Lúc này tôi chỉ c̣n theo dơi cảnh vật gần xa dọc 2 bên đường mà thôi.

Khoảng hơn 50 phút sau, (hồi đó, hầu hết tù binh chúng tôi đều c̣n mang đồng hồ, v́ tại trại Điện Bàn hằng ngày chỉ nghe giảng thuyết về tư tưởng Cộng Sản chứ không bị buộc lao động) đoàn xe chở chúng tôi dừng lại trước một khu trại đă có sẵn mấy chục căn nhà lợp tranh và chúng tôi được lệnh xuống xe vào trại.

Chúng tôi bị chia thành từng toán, mỗi toán gốm 25 người, không phải theo danh sách đă có sẵn mà do ngẫu nhiên, tức là tự động sắp thành từng hàng dọc và ai muốn bước vào hàng nào th́ cứ việc, miễn sao đủ 25 người là được. Sau đó, một người trong mỗi toán mới ghi tên họ những người trong toán, làm thành từng danh sách. Và mỗi toán sẽ ở trong cùng một căn nhà; mỗi 4 Nhà (ngoài Bắc gọi là Buồng) th́ thành một Khôi. Và Trại chúng tôi có tên là Trại 1. Sau đó mới biết Tổng Trại Tù Kỳ Sơn gồm cả Trại 2,3 và 4 nằm quanh quẩn cách Trại 1 chừng 3 hay 4 km do Bộ đội quản lư. Ngoài ra c̣n có một Trạm xá nằm đối diện hơi chênh về phía phải với Trại 3 nhưng ở phía bên kia con lộ chính, sâu vào khoảng 30 mét.

Nhà chúng tôi thuộc Khối 1 gồm hầu hết là Trung Tá và Thiếu Tá, chỉ có 4 hay 5 Đại úy. Tôi chỉ c̣n nhớ một số tôi c̣n ấn tượng do thường chuyện tṛ, cùng toán đi lao động hay ngủ cạnh nhau trên một dăy sạp bằng tre:

- Cấp Trung Tá có Ngô-Hoàng (SĐ2BB, người Huế), Ng-văn-Tố (từng là Tỉnh Trưởng Phú Yên, người Huế), Ng-văn-Thành (Liên đoàn Trưởng Địa Phương Quân, người Huế), Vơ-Vàng (gốc Biệt Động Quân, người Quảng - gọi chung cho Quảng Nam và Quảng Ngăi), Thuật-Xáng (CTCT/QĐ 1, người Huế ), Cẩn (Pháo.Binh, người Quảng-Trị), Liên (Không.Quân, người Nam), Chí (Truyền Tin, người Bắc), v.v…

- Cấp Thiếu Tá có Khoa ( Pháo.Binh, người Huế), Bảo (Pháo.Binh, người Bắc), Cảnh (Bộ Binh SĐ 2, người Huế), Cúc (Ban 2 Tiểu Khu Quảng.Nam, người Quảng ), Hiển (Cảnh Sát, người Huế), tôi (Kỵ Binh, người Huế),v.v…

- Và cấp Đại úy có Chí, Hóa (Công Binh, người Huế), Ninh (Ban 2 Chi.Khu Q.Tín, người Quảng ), v.v…

Mỗi Nhà bầu một Nhà trưởng, và chúng tôi đă bầu anh Chí (để phân biệt với anh Chí cấp Trung Tá, chúng tôi thường gọi anh là Chí ‘nhỏ’). Mỗi Nhà do 1 Quản giáo trách nhiệm. (theo như tôi để ư, hầu hết Quản giáo đều là người Quảng). Riêng về Khối th́ anh Ngô-Hoàng (do Cán bộ chỉ định) làm Khối trưởng Khối 1. Từ đó chúng tôi dần dần làm quen với nhau và cũng từ nơi này chúng tôi bắt đầu nếm mùi vị của tù lao động khổ sai.

Hàng tháng, chúng tôi phải “học tập Chính trị”, thường th́ theo từng toán gồm ½ Nhà (khoảng 12 hay 13 người), do” Quản giáo” hướng dẫn. Có lúc ½ nhà học chính trị và ½ Nhà c̣n lại đi lao động. Và mỗi 2 hay 3 tháng th́ toàn Trại học tại Hội trường do 1 tên chính trị viên từ cấp cao hơn đến phụ trách.

Khoảng hơn 3 tháng sau, gia đ́nh, thân nhân được phép đến thăm tù nhân theo định kỳ mỗi tháng 1 lần tại một căn nhà tranh lớn và tương đối rộng, dựng trên một ngọn đồi thấp, chung quanh là những bụi cây nhỏ cao khoảng hơn 1 mét, ngay ngả ba của đường vào trại 1,2 và 3 (Trại 3 nằm trên cùng một con lộ với Trại 1), cách Trại 1 chúng tôi khoảng 3 km, gọi là Trại Tiếp tân.

Cũng nhờ vào những lần thăm viếng này mà chúng tôi được cung cấp thông tin về t́nh h́nh bên ngoài của một số địa phương kèm theo một ít thức ăn, nhất là đường (loại bánh đường đen hay những miếng đường màu vàng, thứ mà chúng tôi thèm, nhất là trong thời gian lao động nặng).

Khoảng hơn 1 năm sau, sự kiện đầu tiên đă xảy ra, không phải tại các Trại tù mà ngay tại Trạm xá của Tổng trại :

Bác-sĩ Phạm-văn-Lương (nghe nói trước năm 1975 đă từng cầm lựu đạn đến tại cửa ṭa nhà Quốc Hội để chống đối Chính Phủ) đă tự vẫn bằng thuốc chống sốt rét ‘Chloroquine’.

Sau này một vài người trong nhà chúng tôi được vài tù nhân phục vụ tại Trạm xá kể lại về cái chết vật vă bằng loại thuốc này thật khủng khiếp: trước khi chết, anh đă điên cuồng búng người từ sạp này đến sạp khác, quằn quại rồi co quắp một hồi mới tắt thở. Họ cho biết thêm là khoảng 1 tháng trườc đó, sau lần gần nhất được vợ con đến thăm, anh Lương đă tỏ vẻ buồn bực, ít nói hơn. Điều suy đoán tương đối hợp lư cho lư do này là từ những thông tin do gia đ́nh những tù nhân quen biết và sống gần gia đ́nh anh Lương đă cho biết sự thật rất phũ phàng : vợ anh phải đi bán dạo quanh chợ Cồn (Đà Nẳng) để nuôi con. Rồi những lời bàn tán của tù nhân đă đến tai anh. Và thế là ‘Xă hội lư tưởng’ trong anh rách nát, ‘Thiên đường Cộng Sản’ trong anh vỡ vụn. V́ không chịu được cú sốc này, anh đă tự kết liểu đời ḿnh.

Sự kiện thứ 2 đến từ những buổi “học Chính trị”, nói đúng hơn là những lần phải kể lại lư lịch và cái được mô tả là ‘tội ác’ của tù nhân đối với ‘Nhân dân’ và “Cách mạng”. Mỗi lần học, chúng tôi phải khai lại lư lịch, không phải viết trên giấy mà phải tự phát biểu. (nhờ vậy mà về sau, chúng tôi biết anh Ngô-Hoàng có thân nhân tập kết đă vào Nam với chức vụ cao; anh Vơ-Vàng có người anh là “Trung tá Bộ đội” và anh Cúc có cha là “Đại tá Bộ đội”. Tất cả những thông tin bổ sung này có lẽ là do gia đ́nh họ đă cung cấp trong những lần ‘thăm nuôi’).

Riêng về mục kể ‘tội ác’ th́ chúng tôi, nhất là những người đă ở trong đơn vị tác chiến, phải nhớ thêm và nói cụ thể hơn số lượng Việt cộng (du kích, đơn vị địa phương hay bộ đội chính quy) đă bị chúng tôi giết trong những lần hành quân nào, tại những nơi nào, vào những thời điểm nào. Dĩ nhiên, chúng tôi vẫn nhớ chính xác một số yếu tố, c̣n về số lượng th́ phải khôn ngoan nói càng ít càng tốt để tội được nhẹ hơn. Riêng về anh Vàng, khi anh phát biểu, ngoài tên “Quản giáo” của Nhà chúng tôi c̣n có tên “Quản giáo” của Nhà bên cạnh (cũng là người Quảng) cũng bước qua tham gia. Giọng điệu tên này th́ ghê gớm và chứa nhiều hận thù hơn.

Qua những lần đó, tôi mới biết thêm thông tin cá nhân của anh Vàng (khóa 17 VBQGĐL), trong đó những chiến công của anh hồi c̣n làm Tiểu đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 21 thuộc Liên đoàn 1 Biệt Động Quân và sau đó là Trung đoàn Trưởng Trung Đoàn 4 hay 5 ǵ đó thuộc Sư Đoàn 2 BB đă rất vang lừng. (Tôi th́ nhập ngũ sau anh mấy năm và chỉ hành quân ở vùng Bắc đèo Hải Vân đến Bến Hải. Và thời gian đơn vị tôi nằm ở Đà Nẵng đă hành quân chung với Liên đoàn 1 BĐQ tại vùng Thăng B́nh, Quế Sơn và B́nh Giang, B́nh Dương năm 1970 th́ tôi không gặp được anh mà chỉ gặp anh Khang – Tiểu Đoàn 39, anh Thiết và anh Thưởng – Tiểu Đoàn 21 và 37 và Trung tá Hiệp là Liên Đoàn Trưởng). Do đó, mũi dùi của đám “Quản giáo” này nhắm vào anh nhiều nhất (có lẽ do vùng hành quân của đơn vị anh thuộc Quảng Nam và Quảng Ngăi).

Vào khoảng gần giữa năm 1977, trong buổi học chính trị cho toàn trại tại Hội trường, tên Chính trị viên (người Quảng), không biết từ cấp cao nào đến phụ trách, bô lô ba la gần cả giờ về đường lối chính sách của Đảng, tương lai đất nước, v.v… Rồi đến mục khuyên tù nhân thành thật khai báo về ‘nợ máu’ chúng tôi đă gây ra. Nó đă chuyển cụm từ ‘tội ác’ thành ‘nợ máu’, nghe càng rùng rợn hơn. Tôi tự hỏi: ‘Như vậy, nợ máu th́ phải trả bằng máu sao ?’

Sự kiện thứ 3 đă xảy sau buổi học chính trị toàn trại chỉ khoảng 2 tuần.

Hôm đó là ngày Chúa Nhật và cũng là ngày gia đ́nh tù lên thăm nuôi. Khoảng 8 giờ sáng, Nhà chúng tôi có anh Vàng được tên vệ binh Bốn đến gọi ra sắp hàng tại cổng trại cùng với số anh em tù từ các Nhà và Khối khác để nó dẫn ra Trại tiếp tân. Toán thăm nuôi đầu tiên thường được gọi là Toán 1. Khoảng 30 phút sau, tôi cũng được gọi tên ra sắp vào một toán khác gọi là Toán 2 và được một tên vệ binh người Bắc dẫn đi. Khi toán chúng tôi ra đến Trại Tiếp tân th́ mạnh ai nấy kiếm chỗ riêng để cùng gia đ́nh tṛ chuyện, một số ngồi trong trại, một số chọn những bụi cây quanh đó ngay phía bên ngoài trại cách khoảng 10 mét. Thời gian thăm nuôi chỉ được kéo dài 1 giờ theo qui định. Và hôm nay th́ tên Quản giáo phụ trách Trại Tiếp tân là người Bắc, không biết thuộc Khối nào.

Chỉ khoảng gần 15 phút sau, tôi nghe tiếng tên Bốn gọi tập họp Toán 1 để nó dẫn về. Và khoảng 3 phút sau, tôi lại nghe tiếng quát tháo khiến anh em đang ngồi quanh đó đều đứng lên, c̣n tôi th́ bước nhanh đến đó, thấy khoảng 8 người đang đứng sắp hàng chờ điểm danh và kiểm tra những thứ gia đ́nh họ mang lên thăm nuôi, riêng anh Vàng th́ đang đứng đối mặt với tên Bốn, nói :
- “Tôi đă xin phép anh Quản giáo được thăm nuôi thêm một xuất nữa.”

Tên Bốn quát :
- “Anh không chịu vào sắp hàng th́ tôi bắn đấy!”

Nói xong nó cầm súng, lên đạn rắc rắc và chỉ thẳng vào anh Vàng. Anh em quanh đó, ngay cả tôi, đều nghĩ rằng anh Vàng sẽ phải nhịn nhực và đứng vào hàng. Không ngờ anh dùng 2 tay banh ngực áo và nói lớn :
- “Muốn bắn th́ bắn đi!”

Cũng may tên “quản giáo” người Bắc đến vừa kịp, nói ngay:
- “Anh Vàng đă xin phép tôi thăm nuôi thêm một xuất. Và anh ấy sẽ về theo Toán 2”.

Tên Bốn hạ súng xuống một cách miễn cưỡng, đôi mắt nó vẫn đỏ ngầu trên nét mặt đầy hậm hực, khoát tay ra lệnh cho Toán 1 bắt đầu đi về, không nhớ đến việc điểm danh và kiểm tra mấy chiếc bị của tù. (Thật ra th́ chỉ là toán ít người, c̣n việc kiểm tra th́ có thể thực hiện sau khi toán vào cổng trại.)

Cũng chính từ sự kiện này, tôi để ư đến tên Bốn nhiều hơn, v́ chưa từng nghĩ rằng một tên Việt Cộng (không biết là du kích hay bộ đội chính quy v́ màu sắc áo quần của nó là màu xám mà áo quần bộ đội là màu olive) mặt mày c̣n non choẹt, tuổi đời tối đa khoảng 22-23, nhỏ con, mà lại ‘khát máu’ như vậy. Và cũng chính từ đây, tôi thán phục anh Vàng nhiều hơn. Thán phục v́ anh đă làm được điều mà tôi, hay đúng hơn là chúng tôi, không thể làm được, dù cho hành động của anh có xuất phát từ ḷng tự ái hay sự bộc phát nào đó th́ cũng vẫn thể hiện sự bất khuất của một Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa trước kẻ thù trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng này.

Thú thật th́ trước đó tôi đă có phần ngưỡng mộ anh về những chiến công anh đă kể lại trong những buổi học chính trị nên t́m cách tṛ chuyện với anh nhiều hơn, dù biết anh rất ít nói. (người tôi thân nhất trong Nhà là anh Tố và v́ anh lớn tuổi hơn nhiều nên tôi thường gọi anh là ‘Bố’). Có lẽ anh cũng hơi thích tôi do tôi là người hay kể chuyện vui, bông đùa và cười lớn tiếng thoải mái nhất trong Nhà. Nhờ vậy mà tôi biết được vợ anh tên Đường, là Giáo viên trước 1975.

Thế rồi, sau khoảng hơn 1 tháng, lúc này trong năm, thời tiết vào khoảng cuối mùa Hè nên không quá nóng như tại những vùng Huế, Quảng Trị và Đông Hà, một phần là do các trại tù đều nằm trong vùng núi, vào một buổi sáng, sau khi anh Chí ‘nhỏ’ (Nhà trưởng) đi họp nhận công tác cho Nhà về, vác theo một bao bố chứa những con ‘dao tông’ và ‘rựa’ và cho biết hôm nay cả Nhà sẽ lao động tập thể. phát quang tại vùng C̣ Bay (đường lên Mỏ vàng Bồng Miêu). Chúng tôi ăn sáng với chế độ ít hơn 1/3 với bữa ăn trưa, rồi lần lượt bới theo cơm trưa chứa trong ‘lon Gô’ (loại bằng nhôm đựng sữa bột Guigoz của Hà Lan dành cho trẻ sơ sinh đến 2 tuổi, khuấy tan với nước nóng để bú bằng b́nh hay bằng ly, tách), một số th́ dùng ‘gà men’ của Quân đội được thân nhân mang lên trong những lần thăm viếng tại ‘Trại Tiếp tân’. Rồi lần lượt xuống ‘Nhà bếp’ lấy nước sôi đổ vào bidon’(b́nh nhựa chứa nước của Quân đội). Những người trẻ như tôi, anh Vàng, anh Thành, Chi, Hóa, Ninh, Cảnh th́ nhận ‘dao tông’(loại dao dài gần 5 tấc với cán dính liền bằng sắt dùng để chặt những cây nhỏ bằng bắp tay), người lớn tuổi th́ nhận ‘rựa’ (loại dao dài chừng 7 tấc gồm luôn cán bằng gỗ dài khoảng 3 tấc, đầu rựa có mấu cong xuống, dùng để chặt tre, phát quang lau sậy, vót lạc, chẻ mây, và nhiều công dụng khác nữa); rồi lần lượt mài dụng cụ trên 2 tảng đá nhỏ đặt sau Nhà (chúng tôi vác chúng lên từ suối để tiết kiệm thời gian phải xuống suối mài trước khi đi lao động). Tiếp đến, chúng tôi được chia thành 2 toán, mỗi toán có 12 người. (riêng anh Cúc th́ thuộc thành phần không lao động ngoài trại được do gót chân đă bi thương trước khi vào Trại nên thường ở nhà trực pḥng, – một vài người trong Nhà của chúng tôi nghi ngờ anh làm ‘antenne’ v́ chính bản thân tôi đă bị 2 lần viết ‘Kiểm điểm’ do có người báo cáo tôi phát ngôn bừa băi trong những lúc chuyện tṛ với anh em ngay tại Nhà. Ví dụ như tôi đă đổi câu châm ngôn của họ : ‘Cho không lấy, thấy không xin’ thành ‘Không cho cũng lấy, không thấy cũng xin !!’…).

Đa số người trong Toán 1 chúng tôi có cấp bậc Thiếu Tá và Trung Tá trong đó có anh Vơ Vàng, cấp Đại úy chỉ có anh Chí và Hóa. Hành trang lao động là chiếc bị vải tự tạo có quai mang vai (có người được thân nhân gửi lên bao đeo mặt nạ ngừa hơi độc của Quân đội), chứa b́nh nước, bữa ăn trưa, vơng nylon hay vải và tấm nylon dùng làm áo mưa.

Đúng 07:30, Nhà chúng tôi bắt đầu di chuyển theo hàng dọc ra cổng trước của Trại, ngay con lộ lên Bồng Miêu, (cổng sau dẩn thẳng ra con suối cạn, rộng khoảng 40 mét, chảy ngoằn ngoèo theo dảy núi phía đối diện, chỉ dùng cho những lúc đi lao động nặng, riêng lẻ hoặc toán ít người và là nơi tắm rửa, giặt giũ), quẹo phải lên hướng vùng C̣ Bay theo con lộ đất rộng khoảng 4-5 mét. Dẩn đầu là tên vệ binh Bốn (người Quảng) và sau cùng là một vệ binh (người Bắc, tôi không nhớ tên). Cả hai đều mang AK-47. (Thường th́ khi tù binh đi lao động ngoài trại với những toán trên 5 người đều có vệ binh đi theo, khi th́ 1 người, khi th́ 2 người).

Thời tiết hôm đó vào buổi sáng vẫn c̣n mát mẻ dù mặt trời đă lên khá cao nhưng bị dăy đồi cao phía đông che khuất. Trong khoảng hơn 2 năm, chúng tôi đă từng đi trên con lộ này không dưới 20 lần nên cảnh vật chung quanh chẳng c̣n ǵ xa lạ nữa, ngoại trừ đám lau sậy và cây nhỏ dọc mé trái lộ đă được phát quang ngày càng xa dần lên hướng C̣ Bay.

Chúng tôi đi khoảng hơn 3 km, đến hết ranh đám lau sậy đă được phát quang, th́ tên vệ binh Bốn hô lớn bảo dừng lại và kêu anh Chí lên ra lệnh ǵ đó. Mấy phút sau th́ nghe Chí bào toán 2 tạt về mé trái con lộ và chỉ định anh Ninh làm trưởng toán với nhiệm vụ phải phát quang dọc bên trái lộ lên hướng C̣ Bay. Từ điểm này lên hướng Tây nam th́ vẫn c̣n đầy lau sậy cao hơn đầu người hơn 1 mét.

Toán 1 của chúng tôi cứ tiếp tục đi xa hơn khoảng hơn 300 mét th́ được lệnh dừng lại và nhận nhiệm vụ phát quang phía bên trái con lộ, sâu vào khoảng 40 mét rồi chuyển hướng dọc theo con lộ lên hướng núi có Mỏ Vàng. Ra lệnh xong, tên vệ binh Bốn và tên vệ binh người Bắc tiếp tục đi thẳng về phía trước. Theo kinh nghiệm từ những lần đi lao động và những khi được giao nhiệm vụ đi theo phát quang cho toán địa chất lên các ḷ của Mỏ Vàng Bồng Miêu, (thường th́ 2 tù binh đi theo để phát cây dọn đường cho toán địa chất gồm 3 hay 4 Kỹ sư có mang súng ngắn ) tôi đoán khoảng 80 mét nữa là đến chiếc cầu xi măng nhỏ, rộng khoảng 2 mét, dài khoảng 8 mét bắc qua con suối thường hầu như cạn nước vào mùa hè, v́ phía trước khoảng 30 mét đă hiện ra khúc quanh quẹo chênh về trái. Phía bên bờ Nam của suối cũng đầy lau sậy dày đặc chạy dài khoảng 300 mét th́ đến vùng trống trải có những căn nhà gạch đă rêu phong, tốc mái, đổ nát trên 60%, cạnh một nhánh suối nhỏ vẫn c̣n những bụi trúc vàng rất đẹp hai bên bờ. Đặc biệt nơi này c̣n sót lại vài đoạn đường ray rộng khoảng 8 tấc và dài khoảng 20-30 mét. Nghe đám địa chất nói th́ đây là những di tích hồi Pháp khai thác mỏ vàng.

Chúng tôi kiếm những cây nhỏ sát con lộ, chặt nhánh nhỏ, chừa một đoạn ngắn chỉa ra để treo những chiếc bị và bắt đầu dàn hàng ngang phát trống lau sây sâu vào chân dảy đồi khoảng 40 mét rồ́ đổi hướng phát dọc theo con lộ.

Dù có được khoảng 10 để uống nước và giải lao sau khoảng 1 giờ lao động (nhờ anh Chí ‘lớn’ và anh Tố vẫn luôn mang theo đồng hồ đeo tay trong túi quần. C̣n phần lớn th́ đă gửi về cho vợ bán lấy tiền nuôi con), chúng tôi cũng cố làm sao để phát quang một diện tích đáng kể trong ngày, nếu không th́ mấy tên vệ binh sẽ báo báo là lao động không tích cực và bị làm kiểm điểm. Mặt trời lên cao dần, giáng xuống đầu và lưng chúng tôi những luồng nóng rát hừng hực khiến mồ hôi liên tục búng ra đẫm ướt cả áo và mặt như đang đi trong mưa. Cho đến khi mặt trời gần đứng bóng, chúng tôi nghỉ khoảng 1 giờ để ăn bữa trưa chứa trong bị mang theo. Mỗi tụm 2 hoặc 3 người cố t́m một bóng cây nào quanh đó để tránh nắng nhưng quả thật rất khó. Chỉ c̣n cách chui đại vào những lùm sậy rồi dùng rựa phạt đứt sậy cao ngang đầu người và dùng chiếc vơng mang theo căng phủ lên phía trên tạo bóng dim bên dưới và mở lon cơm chừng 1 chén với ‘mắm cái’ và ngấu nghiến, mơ màng tưởng tượng một bữa ăn thịnh soạn để đánh lừa bao tử. Ăn xong th́ xé giấy báo vấn một điều thuốc ‘rê’, dựa lưng vào bụi sậy, vừa ph́ phà vừa trao đổi vài nhận xét bâng quơ cho có chuyện mà thôi.

Khoảng 1 giờ chiều, chúng tôi tiếp tục g̣ ḿnh vào công việc c̣n dang dở. Đến khoảng 2 giờ, chúng tôi mới nghỉ giải lao được khoảng 5 phút th́ tên vệ binh Bốn và tên vệ binh người Bắc từ hướng Bồng Miêu đi về. Tên Bốn bèn nói lớn :
- “Anh Chí cho tôi 1 người lên phía trước để chặt những cây lau về bó làm chổi quét”.

Nghe tiếng nói, chúng tôi ngừng tay và nh́n Chí. Dĩ nhiên, nếu chặt lau sậy th́ phải dùng rựa, v́ khi chặt được một số lau th́ dùng mấu rựa kéo về đằng sau. Tôi thấy Chí chỉ vào anh Xáng đang cầm cây rựa cạnh anh và nói :
- “Anh Xáng theo mấy anh vệ binh lên phía trước chặt lau đi !”.

Anh Xáng bèn bước đến một cây nhỏ gần đó lấy chiếc bị hành trang có mang nước theo để uống. Bỗng nhiên tên vệ binh Bốn cản lại và nói :
- “Anh lớn tuổi rồi nên chặt không nhanh. Anh đổi cây rựa cho anh này nè – vừa nói nó vừa chỉ tay vào anh Vàng đang cầm dao tông”.

Thế là anh Xáng và anh Vàng đổi dụng cụ cho nhau và anh Vàng đến lấy hành trang rồi đi theo 2 tên vệ binh. Chúng tôi đều nghĩ rằng đây chỉ là chuyện b́nh thường… rất b́nh thường. Hợp lư nữa là khác. Và chúng tôi lại tiếp tục công việc, cố làm sao để khi tối đến, sau khi cơm nước, họp b́nh bầu cá nhân xuất sắc tại Nhà mà khỏi bị làm kiểm điểm. Thật ra th́ những h́nh thức lao động toàn Nhà như thế này, việc nhận xét ‘tích cực’ hay ‘tiêu cực’ đều do sự cao hứng của vệ binh đi theo mà thôi.

Khoảng hơn 10 phút sau, chúng tôi bỗng nghe 3 tiếng nổ đoàng đoàng đoàng liên tiếp, nhưng từng phát một, ở phía trước, chắc chắn là từ súng AK của 2 tên vệ binh. Tôi buột miệng cười nói: – “Chắc là con nai nào xui xẻo đă bị hạ rồi. Tối nay thế nào mỗi người cũng đều có 1 miếng thịt bồi dưỡng”.

Nghe thế, tôi thấy mấy anh c̣n lại cũng mỉm cười tỏ vẻ đồng t́nh. (V́ thỉnh thoảng chúng tôi cũng đă từng được bồi dưởng bằng thịt heo rừng hay nai).

Đúng là đă hơn 2 năm rối mới nghe lại tiếng súng nên lúc đầu ai cũng hơi hốt hoảng, ngay cả bản thân tôi đă từng là dân tác chiến cũng có chút bàng hoàng, nhưng chỉ trong vài giây thoáng qua. Chúng tôi lại tiếp tục công việc.

Khoảng 5 phút sau, tên vệ binh Bốn, từ phía trước trở về, cách chúng tôi chừng 10 mét, đă kêu lớn :
- “Anh Chí ! Kêu thêm một anh nữa lên phía trên này ngay, không cần mang theo dụng cụ”.

Mọi người lại dừng tay. Riêng tôi th́ thầm nghĩ : ‘Không lẽ ḿnh đă đoán đúng ?’ Chí liếc nh́n quanh và đột nhiên gọi tôi (đang đứng trong hàng ngang cách xa anh 2 người về phía bên phải, gần con lộ):
- “Anh X… bỏ dao xuống và theo tôi”.

Vẫn là điều b́nh thường… rất b́nh thường !! Tôi và Chí bước nhanh để theo kịp tên vệ binh Bốn. Đúng là chỉ khoảng 70 mét, chúng tôi đă thấy chiếc cầu xi măng bắc qua con suối và tên vệ binh người Bắc đang đứng trên cầu. Chúng tôi đến cách cầu chừng 6-7 mét (tại điểm này th́ mé trái con lộ đă vừa mới được phát quang sâu khoảng hơn 1 mét, c̣n sót lại một cây cao, nhỏ và thẳng, trên cành thấp nhất c̣n lủng lẳng chiếc bị của anh Vàng) th́ tên Bốn chỉ tay xuống suối, phía bên trái cầu và nói :
- “Hai anh xuống dưới đó đi !”.

Chúng tôi cũng vẩn đinh ninh một con nai đă bị bắn hạ ngay dưới suối nên vội tạt trái, vừa bước vừa nh́n xuống chân, thận trọng để khỏi dẩm phải những gốc sậy bén. Đến được bờ suối th́ cảnh tượng trước mắt hiện ra giống như một chiếc búa tạ, đập tan vụn những ư nghĩ lạc quan đang nhảy múa trong đầu óc chúng tôi rồi nhét thay thế vào đó sự sợ hăi, thảng thốt : cách chúng tôi khoảng 3 mét, không phải là xác con nai mà là anh Vàng đang nằm sấp, mặt úp xuống bờ cát của ḷng suối c̣n ẩm nước, tay phải hơi giang ra và bàn tay c̣n nắm lơi một phần cán rựa, chân hướng về phía chúng tôi. Tôi cảm thấy như có một luồng khí lạnh từ nổi sợ len lỏi vào dọc xương sống, c̣n Chí th́ mặt mày tái nhợt hẳn ra, cùng ngước nh́n lên tên Bốn đang đứng trên cầu, cách chúng tôi khoảng hơn 4 mét theo đường huyền h́nh tam giác. Có lẽ thấy chúng tôi ngập ngừng không dám bước tiếp, nó dùng súng quơ quơ ra dấu bảo chúng tôi đi tiếp đến chỗ anh Vàng. Tôi, dù muốn dù không, là dân tác chiến nên tốc độ lấy lại b́nh tĩnh chỉ trong mấy giây, bèn đi trước đến sát chân anh Vàng và thấy ngay trên lưng áo của anh đă bị 3 lổ thủng nằm dọc từ hơi dưới vai trái xuống gần thắt lưng bên phải, giống như 3 trái bi trên bàn bi-da Pháp nằm theo thế ‘gị gà’ vậy. Tôi bảo Chí đang đứng phía sau :
- “Chí hăy lên phía đầu của anh Vàng rồi cùng nhau lật ngửa anh ra mới khiêng lên trên con lộ được.”

Chí và tôi vừa lật ngửa anh Vàng ra th́ đột nhiên anh mở đôi mắt, thấy anh Chí và thểu thào kêu lên :
- “Chí ơi !…”

Có lẽ trước khi chết, anh đă cố gom hết sức lực để nói lên điều ǵ đó nhưng chỉ được hai từ ngắn ngủi này, cho nên, dù là thều thào nhưng có lẽ cũng đủ cho 2 tên vệ binh trên cầu nghe, hay có lẽ chúng đă thấy đôi môi anh mấp máy và ngỡ anh vẫn c̣n sống, muốn nói ǵ đó, nên tên Bốn hét lớn :
- “Hai anh tránh xa ra !”

Tôi giật ḿnh phóng người ngược ra phía sau và té ngửa, c̣n Chí th́ chạy lui rất nhanh. Tôi vừa ngồi dậy và liếc nh́n lên cầu th́ một loạt đạn tóe lửa từ súng AK của tên Bốn nhắm vào đầu anh Vàng. Tôi thấy đầu của anh giật giật mấy cái rồi im luôn. Tôi lại đảo mắt nh́n lên cầu lần nữa và thấy tên Bốn, sau khi bắn xong, thản nhiên mang quai súng lên vai cùng tên vệ binh người Bắc song song bước nhanh về hướng cũ. Tôi vẫn ngồi như thế, ngoái nh́n theo cho đến lúc chúng đi khuất sau đám lau sậy mới đứng lên và bước đến gần anh Vàng. Trong loạt súng vừa rồi, có lẽ khoảng 2 hay 3 viên đă trúng làm nát luôn má và miệng của anh, máu chảy lênh láng. Chí th́ h́nh như vẩn chưa hoàn hồn. Tôi bèn bảo Chí :
- “Chí ở lại đây trông chừng để tôi chạy về báo cho anh em trong toán ḿnh biết.”

Chí bỗng nói ngay :
- “Anh ở lại đây để tôi chạy về báo tin cho.” Tôi thấy anh c̣n sợ nên đành gật đầu.

Chờ cho Chí đi rồi, tôi cẩn thận nh́n quanh khoảng một phút, có lẽ v́ sợ tên Bốn bất ngờ quày lại tặng luôn ḿnh một loạt đạn để bịt miệng, rồi nh́n lại anh Vàng th́ thấy hai mắt anh vẫn c̣n mở, bèn đưa tay vuốt mắt anh mà ḷng dậy lên nỗi đau buồn đă mất đi một người bạn tù, một người anh trong Quân ngũ.

Chưa đến 10 phút sau, tôi thấy mấy anh xuất hiện từ sau đám lau sậy rồi nhận ra anh Tố, anh Hoàng và anh Hóa cùng Chí đến gần chỗ tôi. Có lẽ dọc đường đến đây, Chí đă có kể lại một phần nào đó cho họ nghe nên khi đến nơi, chúng tôi chỉ cùng nhau nghĩ cách khiêng anh Vàng về. Liên tưởng đến lúc Trại có người bị bệnh không đi được th́ đă được khiêng bằng vơng đến trạm xá, tôi bèn đề nghị như thế và cùng Hóa chạy đến cây có treo chiếc bị của anh Vàng để lấy chiếc bị có chứa chiếc vơng của anh, đồng thời chặt luôn cây này, tỉa nhánh cho trơn tru dùng làm đ̣n cáng. Tiếp đến, anh Tố và anh Hoàng khiêng xác anh Vàng bỏ lên vơng và chúng tôi cột dây của 2 đầu vơng thật chặt vào đ̣n cáng. Anh Hoàng và anh Tố t́nh nguyện khiêng anh Vàng trước sau khi giao rựa của họ cho Chi, và tôi cùng Chí sẽ thay phiên khi 2 anh đó đă thấm mệt. Chí bèn giao 2 cây rựa của anh Hoàng và anh Tố giao luôn cho anh Hóa vác. Riêng tôi và Chí th́ trên đường về sẽ tạt lại điểm chúng tôi phát quang để lấy bị của mọi người và dao tông của ḿnh.

Anh Hoàng đứng phía đầu đ̣n cáng, hướng chân của anh Vàng và anh Tố ở cuối cáng, hướng đầu của anh Vàng, tôi và Chí cùng tiếp tay nhấc đ̣n cáng lên vai họ. Thế là 5 người chúng tôi bắt đầu lên đường. H́nh như mỗi người đều đang nặng trĩu nhưng suy nghĩ có lẽ cũng hao hao giống nhau: ‘khi về đến trại th́ sẽ phải làm ǵ đây, nói năng như thế nào đây?’ Riêng tôi, và chắc chắn là Chí nữa, th́ c̣n thêm những lo nghĩ khác v́ là những nhân chứng sống cho cái chết của anh Vàng.

Chỉ khoảng mấy phút sau, chúng tôi đă đến điểm chúng tôi đă phát quang, nhưng chẳng c̣n thấy bóng dáng ai cả. Tôi lên tiếng :
- “Họ đâu cả rồi ?”.
Anh Tố buột miệng trả lời :
- “Chắc họ sợ quá sau khi nghe thằng Bốn tuyên bố nên đă chạy về trước rồi.”.

Tôi hỏi tiếp :
- “Nó nói sao, Bố ?”

- “Tên Vơ-Vàng đánh vệ binh để cướp súng trốn trại. Ta đă diệt nó rồi.”
Tôi và Chí loanh quanh khoảng 1 phút t́m dao tông và bị nhưng không thấy. Chí nói :
- “Có lẽ anh em đă mang về giùm rồi.”

Cũng chỉ đoán như vậy thôi, chứ ở vùng không có bóng người dân nào th́ ai mà lấy mấy thứ đó chứ. Tôi và Chí bước nhanh để theo kịp chiếc vơng cáng. Vừa đến ngang anh Tố th́ thấy đầu của anh Vàng lắc lư theo bước chân người khiêng lệch ra khỏi vỏng, bèn vừa đi vừa banh rộng đầu vơng để đầu anh lọt vào. Máu trên vùng ngực của anh hầu như đă khô, c̣n ở má và miệng vẫn c̣n rỉ, tóc và trán vẫn c̣n bám cát từ ḷng suối khô.

Chúng tôi cứ thế lẳng lặng bước… và bước, mong sao cho nhanh về đến trại. Ngang qua điểm phát quang của Toán 2, chúng tôi cũng chẳng thấy ai nữa. Chắc họ cũng đă nghe tên Bốn nói ǵ và đă nhanh chân rời khỏi đó, giống như số anh em c̣n lại của Toán 1.

Tôi ngước nh́n lên bầu trời, lúc này có lẽ đă hơn 3 giờ chiều, nhưng nắng đă có phần dịu bớt nhờ những đám mây trắng nhỏ từ phía Tây bắc lăng đăng trôi qua, che khuất mặt trời như cố ư ngăn bớt luồng nóng hừng hực đâm thẳng vào thân xác một người đă từng vang bóng một thời, đă tung hoành trên khắp chiến trường phía Nam của Quân Đoàn 1 (vùng Quảng Nam, Quảng Ngăi), nhưng lại phải ĺa đời trong tức tưởi. Tôi lại tưởng tượng những đám mây kia là những thân nhân, vợ con và bạn bè, những người đă ngưỡng mộ và thương mến anh, trong những chiếc áo tang, những chiếc khăn sô, đưa tiễn anh lần cuối.

Rồi đầu anh Vàng lại lệch ra khỏi đầu vơng, và với những động tác cũ, tôi lại banh đầu vơng, nâng đầu anh lọt vào như cũ. Nhớ lại th́ tôi đă dùng động tác này không dưới 3 lần trên đường về đến trại, v́ 2 đầu vơng thường bị kéo túm lại do sức nặng nhún nhẩy từ phần giữa vơng. Trước đó, chúng tôi đă cẩn thận dùng phần dây vơng c̣n thừa để buộc 2 chân anh vào một đầu vơng, riêng vơng ở phần đầu của anh th́ không được.

Chúng tôi cứ tiếp tục bước…, bước nhanh, h́nh như không quan tâm ǵ đến thời gian và đoạn đường ḿnh đă đi qua. Cho đến khi tôi định lên tiếng đ̣i thay phiên khiên cáng th́ trước mắt, dảy hàng rào bằng ‘róng’ (cở cây nhỏ hơn hoặc bằng cổ tay cao khoảng 3 mét, gài chéo nhau theo h́nh tổ ong rào quanh trại) sát con lộ đă hiện ra phía bên trái, cách chúng tôi khoảng 60 mét, nên không lên tiếng nữa.

Chỉ khoảng hơn 5 phút, chúng tôi đă đến cách cổng trại chừng 15 mét th́ tên Quản giáo Nhà chúng tôi đă đứng đó từ trước chận chúng tôi lại và bảo :
- “Các anh bỏ anh Vàng tại đây rồi vào trại đi !.”
Nh́n chênh về phía phải, chúng tôi thấy một toán tù binh, không biết thuộc Khối nào, đang đào cái huyệt cách con lộ khoảng 2 mét. Chúng tôi đoán là huyệt dành cho anh Vàng.

Anh Hoàng và anh Tố nhẹ nhàng đặt xác anh Vàng xuống sát mé phải con lộ và chúng tôi lẳng lặng tiến về cổng trại. Qua cổng trại rồi đi xuyên qua trước mặt Khối 2, tôi thấy nhiều anh em tù, một số đứng trước sân, một số trong Nhà lặng lẽ nh́n chúng tôi, trong ánh mắt họ dường như đang ẩn chứa rất nhiều câu hỏi. Về đến Nhà, tôi thấy đống dao rựa đă nằm giữa nhà, cạnh cái lỗ h́nh chữ nhật bề 5 bề 8 tấc, sâu 2 tấc dùng để đốt lá tươi hun khói đuổi muỗi khi đêm đến hoặc đốt củi sưởi ấm vào mùa Đông, và những chiếc bị của chúng tôi đă nằm sẵn trên phần sạp ngủ của mỗi người. Cởi bỏ áo quần lao động (quần áo của lính Bộ binh chế độ cũ được cấp phát cho tù mặc khi lao động), chúng tôi ngả người trên phần sạp của ḿnh nằm nghỉ ngơi cho khô mồ hôi trước khi xuống suối để tắm và giặt. Riêng anh Chí th́ vừa đếm vừa đun hết số dao rựa vào trong bao bố và vác lên trả lại cho nhà kho chứa dụng cụ lao động.

Bầu không khí trong Nhà của cuối ngày lao động hôm đó bao trùm một sự tĩnh lặng hầu như tuyệt đối, giống như đang mặc niệm cho người bạn tù đă vĩnh viễn ra đi, cho một sự mất mát, thiếu vắng từ đây… chỉ c̣n những ánh mắt thỉnh thoảng nh́n nhau… Và thời gian cứ nặng nề trôi qua…

Bỗng nhiên, tôi nghe nhiều tiếng nói lao xao gần phía trước cửa nhà, liền nhỏm dậy xem th́ thấy 3 người, h́nh như thuộc Khối 2, đang vừa đi ngang qua cửa Nhà chúng tôi vừa nói chuyện.

Tôi vội chạy ra hỏi với theo :
- “Mấy anh có biết họ đă chôn anh Vàng chưa không ?”

Một anh trả lời :
- “Vẫn chưa, v́ phải đào một cái huyệt khác cách xa con lộ hơn 10 mét. Mấy thằng cán bộ nói cái huyệt đầu tiên nằm sát đường quá.”

Anh Tố đang nằm nghỉ, nghe thế bèn nhỏm dậy nói :
- “Như thế th́ xui lắm. Ông bà ḿnh tin rằng nếu đào huyệt thứ 2 th́ thân nhân của người chết sẽ bị chết thêm một người nữa đó !”

Tôi th́ chẳng biết ǵ về chuyện này. Anh em c̣n lại trong nhà cũng chỉ đưa mắt nh́n nhau, nửa tin nửa ngờ… nhưng phần nào cũng có chút lo lắng cho những người trong gia đ́nh anh Vàng.

Rồi, như cái máy chạy theo thời khóa biểu, chúng tôi xuống suối, tắm, giặt. Sau đó, người trực cơm xuống bếp nhận cơm lên chia đều cho anh em trong Nhà. Cũng chỉ là 1 chén cơm và ‘mắm cái’ hầu như thường lệ, nhưng hôm nay dường như có thêm những giọt nước mắt nhỏ xuống từ bên trong, thẳng vào cuống họng mỗi lần nuốt 1 ngụm cơm…

Lúc này, màn đêm đang dần phủ trên Trại Tù. chúng tôi chuẩn bị họp Nhà để b́nh bầu cá nhân xuất sắc cho ngày lao động dở dang hôm nay. Một người mang củi vào nhóm lửa và 1 người nữa mang mấy nhành cây nhỏ có nhiều lá c̣n xanh để hun khói đuổi muổi. Trong ánh lửa lập ḷe kèm theo khói, chúng tôi vừa bắt đầu họp th́ thấy tên Quản giáo (người Quảng - tôi không nhớ tên) bước vào. Nó không ngồi lên sạp như thường lệ mà chỉ nói lớn :
- “Các anh hăy coi chừng! Cái chết của anh Vàng là sự trừng phạt cho những muốn trốn trại đó !”

Rồi bỏ đi, một chốc sau, chúng tôi lại thấy tên Bốn đi ngang và nh́n vào Nhà chúng tôi liếc ngang liếc dọc, vai vẫn mang khẩu AK-47, nét mặt có vẻ vênh váo như vừa mới lập được một ‘chiến công’ hèn hạ chưa chừng thấy. Thật ra th́ tất cả anh em cùng Nhà đều mang tâm trạng phập phồng lo sợ… sau sự kiện của anh Vàng. Riêng tôi, và chắc là với Chí ‘nhỏ’, lại càng cảm thấy thấp thỏm hơn, v́ là những nhân chứng sau cùng.

Họp xong, tôi đến bên Chí ‘nhỏ’, nói :
- “Ngày mai Chí cắt tôi đi công tác theo nhóm cho bảo đảm đó !” Chí gật đầu, phần nào hiểu được ư của tôi.

Đặc biệt tối nay, sau khi họp xong, chúng tôi không ra phía trước sân, tụm 2, tụm 3, trao đổi năm điều ba chuyện bâng quơ trước khi vào ngủ, mà một số th́ vẫn ngồi trên sạp, một số nằm dài, theo đuổi những suy nghĩ riêng tư của ḿnh.

Rồi một đêm không b́nh thường nặng nề trôi qua. Sáng hôm sau, Chí lên nhận công tác và vác theo về một bao bố chứa toàn dao tông, và công tác hôm nay là chặt những khúc cây dài từ 4 – 4,5 mét, thật thẳng, có ngọn tối thiểu là 1 tấc 3. Thường th́ đây là công tác riêng lẻ, tức là mạnh ai nấy lên rừng và lục t́m và chặt rồi vác về, nhưng Chí cũng cẩn thận dặn anh em nên đi theo từng toán 4 hay 5 người để khỏi bị vệ binh len lén đi theo và ‘diệt’ từng người trong chúng tôi như trường hợp của anh Vàng.

Cũng may đến gần trưa th́ anh Tố, tôi, Ninh và Cảnh đă chặt xong cây và vác xuống sườn núi, nơi có khoảng trống khá lớn nằm trên con đường nhỏ dẫn về trại và cách trại khoảng hơn 2 km. Chúng tôi kiếm bóng mát để nghỉ ngơi và ăn trưa. Nhân lúc này anh Tố mới bảo tôi kể lại phần cuối của vụ anh Vàng bị bắn. Và tôi đă nói cho họ nghe.

Đến chiều, khoảng 4 giờ, khi vác cây về đến Nhà, chúng tôi lại thoáng thấy tên Bốn đi từ hướng Khối 2 về Khối 1 và, khi đi ngang Nhà chúng tôi, nó bước chậm lại và liếc nh́n vào. Tôi nghĩ rằng đây là điều không b́nh thường, dù thỉnh thoảng vẫn có vệ binh đi ḷng ṿng trước sân các Khối vào gần cuối ngày lao động. Nhà chúng tôi đă cố làm cho bầu không khí trở nên b́nh thường, nhưng thật ra vẫn không b́nh thường như cũ được. Mọi người có vẻ thận trọng, dè dặt, ít nói chuyện với nhau hơn. Chỉ mong thời gian sẽ xóa dần nỗi lo sợ cho những ǵ sẽ xảy ra kế tiếp.

Và điều không b́nh thường này đă đến ngay vào buổi sáng hôm sau. Khi Chí đi nhận công tác về với chiếc bao bố chứa dao, rựa trên vai. Khuôn mặt anh hơi lộ vẻ lo âu. Anh nói đại khái chỉ tiêu lao động trong ngày, rồi tiếp :
- “Hôm nay tôi và anh X… ở nhà làm công tác khác.”

Mọi người bắt đầu hoang mang, thắc mắc nh́n nhau nhưng chẳng ai buồn lên tiếng, ngay cả tôi, mà chỉ lẳng lặng ăn hết miếng bánh xốp làm bằng bột ḿ Liên Xô thay cho điểm tâm rồi mài dụng cụ lao động và rời khỏi Nhà.

Chờ cho anh em đi hết, tôi kéo Chí ra khỏi nhà để đề pḥng anh Cúc nghe được, và chưa kịp hỏi th́ Chí đă nói:
- “Một chốc nữa th́ tên Quản giáo sẽ đến hướng dẫn chúng ta viết bản tường tŕnh về cái chết của anh Vàng. H́nh như người anh của anh Vàng là Trung tá Bộ đội đă đến Tổng trại và yêu cầu điều tra rơ chuyện này. Anh tính thế nào?”

Tôi suy nghĩ một chốc, rồi nói :
- “Viết tường tŕnh vụ này mà do Quản giáo hướng dẫn th́ chắc 2 anh em ḿnh sẽ không nói lên được sự thật ḿnh đă chứng kiến đâu. Bây giờ tụi ḿnh đều như cá nằm trên thớt. Nó bảo sao th́ phải viết vậy thôi.” Như một sự đồng cảm đă có sẵn, Chí gật đầu.

Chúng tôi vào nhà, nằm dài trên sạp của ḿnh, vừa chờ tên “Quản giáo” đến, vừa suy nghĩ xem c̣n có cách ứng phó nào khác nữa không.

Hơn nửa giờ sau, tên “quản giáo” bước vào, tay cầm cuộn giấy tập vở và 2 cây bút bi, bảo chúng tôi đến Hội trường và nói:
- “Hai anh hăy tường tŕnh lại đúng y như lời vệ binh đă nói, tức là anh Vàng đă đánh vệ binh, cướp súng để trốn trại nên đă bị vệ binh bắn chết. Viết ngắn gọn thôi rồi ghi tên ḿnh, Khối và Trại và kư tên là xong. Càng nhanh càng tốt”.

Tôi không biết Chí có ư nghĩ ǵ không. Riêng tôi th́ thầm nói: “Anh Vàng, xin anh thứ lỗi và thông cảm cho hoàn cảnh chúng tôi hiện giờ. Nhưng tôi xin hứa với anh là sẽ kể lại toàn bộ chuyện này cho chị Đường nghe sau khi tôi được tha về!”

Chưa tới 10 phút, chúng tôi đă viết xong. Tên “Quản giáo” cầm từng tờ giấy lên đọc rồi gật đầu, nói :
- “Hai anh về làm vệ sinh quanh Nhà rồi nghỉ ngơi đi!”, rồi bước nhanh về phía cổng trại.

Khoảng 1 giờ sau, chúng tôi đă làm xong công việc được giao phó, rồi Chí th́ soạn kim chỉ vá chiếc bị của anh, c̣n tôi th́ nằm ngả người trên sạp, mắt nh́n lên trần nhà, nhưng lại không thấy trần nhà mà lại thấy hiện ra 2 h́nh ảnh của anh Vàng:

- Một anh Vàng với thân thể cường tráng, nở nang, tiềm ẩn một sức lực dồi dào (anh đă từng được b́nh bầu xuất sắc trong lao động rất nhiều lần và là người khỏe nhất Nhà), dáng người tầm thước (khoảng 1,68 mét), nước da hơi đen sạm. Điểm đặc biệt là anh có đôi mắt to, màu đen pha một chút màu nâu, đầy vẻ bướng bỉnh. Anh thường ít nói và cũng ít cười nhưng dễ tiếp cận. (Tôi chỉ thấy anh cười nhiều nhất, bằng mắt nhiều hơn bằng miệng, khi tôi kể mấy chuyện phiếm tôi c̣n nhớ từ cuốn ‘Truyện cười của Đặng-trần-Huân’). C̣n nghe nói anh cũng có ‘nghề’ (biết vơ thuật) nữa. H́nh như anh không hút thuốc, nhưng v́ có một vài người trong Nhà tập hút thuốc lào nên anh đă thử. Và trong những lần đầu, khi anh rít xong một hơi th́ mặt anh trở nên đờ đẫn, mắt mơ màng khiến anh em không nhịn được cười…

- Và Một anh Vàng trong tư thế nằm sấp nơi ḷng suối khô của vùng C̣ Bay, Bồng Miêu với 3 lỗ đạn ở lưng, rồi trong tư thế nằm ngửa với má và miệng banh nát sau loạt đạn thứ hai, với cái đầu lắc lư trên đầu vơng… : kết quả từ thủ đoạn đê hèn của một chế độ đầy âm mưu thâm độc…

Hai h́nh ảnh này cứ luân phiên chợt ẩn chợt hiện không ngừng trước mắt tôi như chồng chất thêm trong ḷng tôi nổi xót xa, mất mát một người bạn tù đáng kính.

Anh đă nằm xuống nhưng tên Vơ Vàng của anh sẽ không bao giờ chết trong ḷng chúng tôi. Anh vẫn là Người Hùng, một ngôi sao sáng chói trong binh chủng Biệt Động Quân, trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

V́ hoàn cảnh không cho phép gặp trực tiếp để kể lại cho chị Đường và các cháu nghe, tôi xin ghi lại những ḍng này thực hiện lời thầm hứa với anh Vàng sau 39 năm.
Tôi cũng thành thật xin lỗi đă gợi lại những buồn đau của gia đ́nh chị mà có lẽ phần nào đă phôi pha theo thời gian, nhưng đồng thời cũng giúp chị và các cháu luôn giữ vững niềm tự hào đă có một người chồng, người cha kiêu hùng, bất khuất…

Tôi cũng cảm ơn anh Tấn đă nhắc tôi ghi lại sự kiện này, và nhờ anh (cựu Trung Tá, Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 2/SĐ 3 BB) t́m cách liên lạc và chuyển giùm, không chỉ cho chị Đường mà c̣n cho những người có tên đă được đề cập trong bài viết để nhận những phản hồi thông qua anh.

Xtanker20
Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam - Đà Nẵng

hoathienly19 10-17-2020 06:13

NGƯỜI NGHĨA QUÂN THỜ H̀NH CỦA CHÍNH M̀NH
 
1 Attachment(s)

NGƯỜI NGHĨA QUÂN THỜ H̀NH CỦA CHÍNH M̀NH


Rừng thiêng sơn trại không ḥ trận

Chỉ thấy tiêu điều những bóng ma

Viên Linh






Tết năm đó tôi về Việt Nam ghé thăm bạn bè. Đến miền Trung, tôi được một người bạn rủ thăm mộ một người bạn khác.

Từ một thị trấn miền biển, chúng tôi ra quốc lộ Một, theo hướng bắc, lên một đèo nhỏ, đến đỉnh đèo, thay v́ xuống dốc, bạn tôi cho xe chạy vào một đường ṃn dọc theo chân núi.

Đây là một vùng hoang vắng, cằn cỗi, toàn đá, cây lưa thưa, cao không quá đầu người. Chiếc xe gắn máy cứ nhảy chồm chồm, như con ngựa trở chứng, mấy lần suưt ngă xuống vực.

Cuối cùng, chúng tôi cũng đến được một nơi, hơi bằng phẳng, có mười mấy ngôi mộ đất, nằm rải rác trên một diện tích khoảng một cái sân lớn. Bạn tôi chỉ một mô đất có miếng gỗ nhỏ ghi chữ Tư bằng hắc ín bạc màu.

- Nó nằm đây !

Chúng tôi lấy nhang, đốt lên, đứng trước mồ bạn, khấn vái mấy câu. Trong giây phút tưởng niệm, tôi như h́nh dung rơ bạn tôi trong những ngày cùng ngồi chung lớp, chung trường.

Bạn tôi vui tươi, khỏe mạnh, yêu đời, lúc nào cũng nói chuyện tếu được, khiến cho dù ai có chuyện buồn cũng phải bật cười…

Rồi cảm tưởng như tất cả những người nằm trong các ngôi mộ rải rác chung quanh đều là bạn thân thiết, vong linh họ đang đứng bên cạnh, ṭ ṃ nh́n xem chúng tôi làm ǵ ?

Ư nghĩ đó khiến tôi thêm ngậm ngùi, thương cảm. Tôi khấn lầm thầm :

- “ Chúng tôi rất hănh diện có được những người bạn đă chọn một cái chết hào hùng để bảo vệ tự do, bảo vệ đồng bào . Sự hy sinh của các bạn càng thêm ư nghĩa sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm đóng Miền Nam. Dân chủ, tự do không c̣n nữa !”

Tôi cũng trấn an người bạn học quá cố của chúng tôi khi nói về cuộc sống ổn định của vợ và các con của bạn :

- “ Anh em đồng môn luôn t́m cách an ủi, giúp đỡ chị và các cháu”.

Khấn xong, chúng tôi đem nhang cắm lên tất cả các ngôi mộ.

- Chỉ thằng nầy là dân hành chánh, c̣n mấy cậu nằm chung quanh toàn quân nhân. Nhảy dù với nghĩa quân.

- Có lẽ phải xây một cái khung cho tất cả các ngôi mộ nầy, rồi đổ đất lên mới không bị mồ xiêu mả lạc.

- Lần trước, lên đây, tôi có gặp anh chàng sống một ḿnh trong mái tranh đằng kia, ḿnh có thể nhờ anh ta lo vụ nầy…Chắc không tốn bao nhiêu.




Mới buổi sáng mà nắng đă gay gắt. Tôi đứng nh́n quanh. Một bên là núi cao, một bên là sườn núi thoai thoải, chạy đến một rừng cây xanh có lẽ là điểm nước, thấp thoáng sau hàng cây là quốc lộ Một, mấy chiếc xe đang chạy trên một cây cầu nhỏ, bắc qua một con suối, về mùa hè nên nước cạn, chỉ thấy lấp loáng ánh nắng qua những gộp đá nhỏ. Bạn tôi chỉ tay về hướng bên kia đồi.

- Nhà anh ta dưới tàng cây lớn kia ḱa, nếu để ư, quá khỏi tàng cây, có cái g̣ cao, giống h́nh người đang ngồi.

Bạn thấy chưa ? Đó là cái g̣ mối, nhưng người ta đồn đăi là mộ của một cô gái rất linh thiêng. Bây giờ ḿnh thử đến đó xem sao.

Chúng tôi đi băng qua đồi. Đường rất khó đi nên phải đẩy bộ chiếc xe gắn máy, có khi phải khiêng qua những những tảng đá lớn chắn lối hay những rănh sâu.

Cuối cùng th́ chúng tôi cũng đến nơi. Đó là một căn nhà tranh vách ván, nằm dưới một cây mít có tàng lớn che gần hết mái nhà. Sau nhà là một khu vườn vuông vức mỗi cạnh độ vài trăm thước, trồng cây lưu niên làm hàng rào, trong vườn là những luống khoai lang, khoai ḿ và bắp, góc vườn có một giàn bầu hay bí ǵ đấy. Nhà vắng tanh. Chúng tôi lên tiếng.

- Có ai trong nhà không ?

Một người đàn ông từ sau bếp bước ra.

- Có tôi !

Anh ta khoảng trên bốn mươi, người hơi ốm nhưng rắn rỏi, da sạm nắng, tóc cắt ngắn, đôi mắt chơn chất sáng lên niềm vui của kẻ sống cô độc được có người đến thăm.

- Chào quí anh. Quí anh có chuyện ǵ mà lên chỗ hẻo lánh nầy ?

- Chúng tôi đi thăm mấy cái mộ đằng kia, nhân tiện ghé thăm anh, định nhờ anh chút chuyện.

Anh ta cười, đưa hàm răng vàng khè v́ khói thuốc.

- Lúc mấy anh đi lên, tôi đă thấy rồi. Vậy chứ mấy anh có thân nhân, bạn bè ǵ nằm ở đó ?

- Có ông bạn học…Lên thăm, và định xây cho nó cái mộ cho tươm tất, để mộ đất, lâu ngày, gió mưa trôi hết, sau nầy t́m không ra.

- Mời hai anh vô nhà ngồi uống nước.

Chúng tôi bước vào. Đó là một ngôi nhà tranh nhỏ tầm thường. Nhà ba gian, giữa là bàn thờ, có tấm màn che. Bên trái là chiếc giường nhỏ, có lẽ là chỗ ngủ của chủ nhà, bên gối tôi thấy có mấy quyển sách, v́ phép lịch sự tôi không nh́n kỹ sách ǵ nhưng như thế chứng tỏ chủ nhà là người có học và có thú vui đọc sách.

Bên phải là một căn buồng đóng cửa. Trước bàn thờ là bàn nước bằng gỗ mộc, cũ kỹ, để một b́nh tích trong trái dừa khô, giúp cho nước giữ nóng được lâu, mấy cái ly thủy tinh trên một dĩa lớn. Có bốn cái ghế dựa để tiếp khách. Anh kéo ghế mời chúng tôi rồi xuống bếp thổi lửa nấu nước, pha trà.





Chúng tôi ngồi nh́n quanh, hỏi vọng xuống bếp.

- Anh sống một ḿnh sao ?

Anh ta đi lên nhà trên.

- Tôi sống một ḿnh. Cũng hơn mười năm.

- Không buồn à ? Kiếm một bà về ở chung để có người chuyện tṛ, ốm đau c̣n nương tựa nhau.

- Tôi có vợ rồi, nhưng vợ mất, tôi ở vậy…thờ vợ.

Tôi pha tṛ.

- Anh có hiếu với vợ dữ ! Cô vợ anh chắc sẽ mỉm cười nơi chín suối khi có được người chồng chung t́nh như anh.

Anh ta chỉ cười, xuống bếp lấy ấm nước lên, mở nắp b́nh tích, bỏ trà, chế nước sôi vào.

- Sống một ḿnh cũng quen. Xuống phố thấy xe cộ, người nói, ồn ào, chỉ muốn về nhà cho yên tĩnh.

- Đất vùng nầy cằn cỗi, sao vườn anh tươi tốt vậy?

- Phải xuống suối móc śnh lên đắp, mấy đời như thế nên mới trồng trọt được. Mấy anh đi thăm mộ ai ở đằng đó ?

- Thăm người bạn, tử trận hồi bảy lăm. Bởi vậy mới định nhờ anh…

Anh ta ngồi lên giường, gác tréo chân, thong thả vấn điếu thuốc lá.

- Thỉnh thoảng tôi có ghé thăm chừng, thắp nhang, dọn cỏ mấy ngôi mộ đó. Mấy anh định xây cho mộ nào ?

- Có ông bạn học nằm đó. Cũng định xây luôn cái khung chung quanh tất cả các ngôi mộ rồi đắp thêm đất lên cho mưa lũ khỏi trôi mất. Anh có thể giúp được không ?

- Có phải mấy anh định xây mộ cho ông phó hành chánh nằm đó không ?

- Sao anh biết ?

- Tôi là lính pḥng thủ quận hành chánh. Nghĩa quân tụi tôi với ông phó thân lắm. Đúng ra th́ ông phó không có nhiệm vụ tác chiến, thiếu tá quận trưởng bảo ông đưa gia đ́nh về Sài g̣n, mục đích để khỏi phải đánh nhau, nhưng ông phó chỉ gửi vợ con đi c̣n ông ta th́ ở lại. Ông phó bảo đă tốt nghiệp sĩ quan Thủ Đức mà lại trốn chui trốn nhủi th́ nhục lắm. Mời mấy anh dùng trà.




Vẻ dè dặt không c̣n trong cách đối xử của anh ta.

- Các anh yên tâm. Nếu các anh muốn xây thêm cái “khuỷnh” cho tất cả các ngôi mộ th́ tôi cũng xin góp chút công. Tôi chỉ tính vật liệu thôi, không tính tiền công. Bây giờ tôi đề nghị thế nầy.

Các anh ở lại đây nghỉ trưa, chúng ta sẽ có th́ giờ bàn lại kỷ hơn chuyện mồ mả. Tôi xin mời các anh một bữa trưa. Chỉ kẹt là không có rựợu, chớ c̣n mồi th́ lúc nào cũng sẵn sàng. Bắt con gà rồi quơ bậy mớ rau thơm là có ngay một nồi cháo. Hai anh cứ ngồi chơi, đợi tôi. Hay là ra sau hè, có gió, mát hơn ở trong nhà.

- Tụi tôi đâu biết nhậu, có cháo gà mà húp cũng đủ khoái rồi.

Hai đứa tôi ra sau hè, tôi nằm đong đưa trên vơng, người bạn ngồi trên cái ghế dài, tựa vào vách nhà. Gió biển thổi lên mát rượi, mấy con chim sâu hót trong bụi rậm, tiếng gió ŕ rào trong cảnh vắng vẻ, tĩnh mịch… Đúng là cơi thần tiên nơi góc núi.

Hai đứa tôi chuyện tṛ linh tinh một lúc, độ hơn nửa giờ th́ anh ta bưng nồi cháo ra, đặt trên một cái bàn nhỏ, thêm mớ chén, đũa, vậy là chúng tôi vừa ś sụp vừa chuyện tṛ.

- Bây giờ anh kể vụ bảy lăm, ở đây, xảy ra những chuyện ǵ ? Tụi tôi chỉ nghe mang máng có đánh nhau dưới cầu kia, anh có tham dự không ?

- Có chứ ! Khi có vụ di tản từ Cao Nguyên xuống th́ ở quận, tụi tôi được lịnh ứng chiến. Ông phó hành chánh, tức bạn của hai anh, dẫn trung đội nghĩa quân tụi tôi lên chốt trên kia. Tụi tôi đóng ở đó được mấy ngày th́ có một đại đội dù đến tăng cường.

Ông phó phối hợp với bên dù cho gài ḿn dưới cầu đằng kia, chờ tụi hắn đến th́ giật sập cầu và chận đánh. Một toán nằm dọc bờ suối, phục ở đó, chờ địch. Tôi và một anh nhảy dù lo việc giật ḿn. Nhiệm vụ tôi hễ bấm xong ḿn th́ lên chỗ g̣ kia nằm, theo dơi và gọi máy báo cáo khi thấy địch xung phong lên núi.




Thế rồi, địch xuất hiện, chạy một dọc cả chục chiếc xe lớn chở đầy bộ đội. Tôi bấm ḿn giật sập cầu, mấy anh nhảy dù thụt M72, cháy mấy chiếc xe đi đầu, rồi xả súng như mưa.

Từ ngày tôi đi Nghĩa Quân, thỉnh thoảng có hành quân lùng sục du kích, nhưng bọn việt cộng chỉ bắn mấy phát rồi bỏ chạy, chứ chưa thực sự đụng độ bao giờ. Đến lúc đó tôi mới biết thế nào là đánh nhau.

Ôi thôi ! Súng nổ khắp nơi, rầm trời, rầm đất. Tôi ḅ lên chỗ g̣ mối nằm ḍm chừng để báo cáo t́nh h́nh. Đến chiều th́ xe tăng tụi nó đến. Đại bác của xe tăng thụt phe ta chạy tứ tán, phải núp sau mấy tảng đá, hi vọng tụi nó xung phong theo bờ suối th́ nhào ra.

Vậy mà chúng chỉ bắn cầm chừng, đến tối, chúng vào giở nhà dân bắt cầu, suốt đêm, sáng hôm sau chúng đi mất tiêu. Coi bộ chúng không thiết đánh nhau, chỉ lo chạy vô phía Nam mà thôi.

Sáng đó tụi tôi cũng thu dọn chiến trường, chôn mấy người chết, băng bó người bị thương rồi cũng di chuyển theo đường núi về hướng Nam. Đến tháng Năm th́ tan hàng, ai về nhà nấy.

Tôi về tŕnh diện bọn cộng sản, đi học tập, nghĩa là đi nghe chửi, lao động sản xuất rồi được về nhà. Tôi về đây phụng dưỡng ông bà già. Được năm năm hai ông bà qua đời, tôi vẫn ở đây lo hương khói, chăm nom mồ mả cha mẹ, vợ con cho đến bây giờ.




Ăn xong chúng tôi phụ nhau dọn dẹp chén đũa. Anh đem b́nh trà và ly ra.

- Trưa nào tôi cũng ra đây làm một giấc. Gió mát lắm !

Tôi nh́n lên đồi, thấy cái g̣ mối giống h́nh người ngồi xây lưng về phía chúng tôi.

- Tôi có nghe kể về chuyện cô gái chết nhưng linh thiêng lắm. Anh biết chuyện đó không ?

- Chuyện linh thiêng th́ tôi không tin, v́ đôi khi chỉ là sự trùng hợp t́nh cờ. Nhưng chuyện về cô gái đó th́ tôi biết rơ. V́ nó xảy ra cùng lúc với vụ đụng độ mà tôi vừa kể cho mấy anh nghe đó.

- Anh có thể kể vắn tắt cho tụi nầy nghe được không ?

- Chuyện chẳng có ǵ lạ lùng cả. Lúc đụng độ th́ cái g̣ mối chưa cao và to như vậy…

Tôi đoán chừng.

- Sau đó cái g̣ mới nổi lên giống h́nh cô gái ngồi nên người ta thêu dệt nên một chuyện linh thiêng, phải không ?

- Cũng gần như thế. Trong toán Nghĩa Quân, có một anh chàng là chồng của cô gái ở nhà nầy, nên ông phó giao cho hai vợ chồng cái chốt đằng kia, canh chừng địch. Coi như vừa làm việc nhà vừa làm việc nước. Hai người mới cưới nhau được có nửa năm.

Anh ta trầm ngâm.

- Cô ta có bầu được ba bốn tháng. Lúc đụng độ, cô ta không ở trên chốt mà ở nhà, ở đây. Cô với cha mẹ nấp dưới hầm nên vẫn b́nh yên. Sáng hôm sau, sau vụ đụng độ, cả đơn vị, dù và nghĩa quân theo đường núi vào Nam. Anh chàng Nghĩa Quân có hẹn với vợ là sẽ quay lại. Nếu t́nh h́nh khó khăn, nguy hiểm th́ anh ta sẽ về ban đêm, điểm hẹn là cái g̣ đó.

Thế nên, khi thành phố bị địch chiếm, làng xă bị kiểm soát, cô ta không hi vọng gặp chồng ban ngày nên buổi tối cô ta thường mang chiếc vơng, mùng mền ra ngoài chốt kia ngủ để chờ chồng. Thường th́ cô ngủ lại ở đó đến gần trưa mới vô. Cha mẹ thấy cô mang bầu, thương con, cứ để cho cô ngủ, khi nào thức dậy th́ vô nhà.

Bữa đó đến chiều, không thấy cô vào, bà mẹ mới ra đánh thức con. Không ngờ ra đến nơi th́ chỗ con gái nằm, mối đă đùn lên ngập xác cô, như một nấm mộ. Hai ông bà chưa biết tính sao th́ hôm sau, mối phủ cao lên nữa, đành để vậy.

Hôm trước đó, cô gái đă than là trong người khó ở, bị sốt, không chịu ăn uống. Cha mẹ cản ngăn nhưng cô vẫn lên chốt ngủ chờ chồng. Có lẽ cô bị trúng gió hay trở bịnh bất ngờ, không ai cứu giúp nên phải chết, vừa lúc mối đùn g̣ ngập luôn xác của cô.




- Nhưng nghe nói cô linh thiêng lắm, anh có biết tại sao không?

- Số là một năm sau đó, có chuyện xảy ra dưới quốc lộ, chỗ đường ṃn mà mấy anh dẫn xe vô lúc năy. Chuyện như thế nầy. Một buổi tối, trời mưa to, có chiếc xe khách chạy lên đèo. V́ mưa quá lớn không thấy đường sá ǵ cả, anh tài xế phải lái rất cẩn thận.

Lúc xe vừa định quẹo cua, đổ đèo th́ thấy một chị đàn bà, bụng mang bầu, đi băng qua đường. Anh tài xế hoảng kinh, vội thắng gấp rồi tḥ đầu ra cửa xe chửi thề chị đàn bà là đui, là ngu. Chị ta không nói năng ǵ cả, cứ lẳng lặng đi qua rồi khuất trong mưa.

Chửi xong, anh ta cho xe chạy. Nhưnh chưa kịp sang số th́ thấy một chiếc xe tải chết máy, nằm lù lù một đống, không đèn đóm, không dấu hiệu ǵ cả. Nếu không v́ chị đàn bà băng qua đường mà phải thắng gấp, anh ta đă cho xe húc vào đít chiếc xe tải chết máy nằm đó rồi, chắc chắn là xe phải rớt xuống đèo.

Thật hú vía! Anh tài xế xuống xe, cứ hướng chị đàn bà đă đi khuất mà vái lạy rối rít. Không hiểu nghe ai kể mà anh tài xế, ít lâu sau, ra kêu người nhờ xây cái miếu chỗ khúc quanh suưt xảy ra tai nạn.

Không may cho anh ta, mới đổ gạch xuống đó th́ gặp mấy tên công an xă đi ngang. Họ dừng lại hỏi lư do xây miếu, hỏi giấy phép. Anh tài xế kể lại chuyện xảy ra hôm trước, nhưng chẳng ai tin. Vụ xây miếu bị ngưng. Mấy tên công an kéo nhau lên chỗ g̣ mối, tên trưởng công an xă láo xược rút súng bắn vào cái mộ để thị uy :

- “ Chết là hết. Không có ma quỉ, thần thánh ǵ cả. Cái mộ nầy sẽ bị san bằng nay mai” V́ mấy tên đó đi nhậu về, say quá nên khi xuống đồi, xe bị lọt hố, tên trưởng công an xă bị găy tay. Thế là người ta đồn rầm lên là hắn ta bị “Cô” vật.

- Tôi có đọc một truyện ngắn tương tự. Có lẽ người ta dựa theo đó, cùng với ḷng thương cảm cô ta mà thần thánh hóa câu chuyện để người đời truyền tụng.




Anh ta như không để ư lời tôi, kể tiếp.

- Ít lâu sau, anh tài xế được nhắn ra, cho phép tiếp tục xây cái miếu, nhưng không ai dám giúp v́ sợ bị bắt. Vừa may gặp tôi, tôi thầu luôn. Xây xong miếu, tôi vào chùa, xin thầy trụ tŕ viết cho một bài vị bằng chữ nho. Phần trên để mấy chữ thật lớn Anh Hùng, Liệt Nữ. Dưới đó là tên cô gái và tên mấy anh lính chết trận.

Tôi đem đến thợ đá nhờ chạm cho một bia nhỏ để thờ trong miếu. Thành ra, ngày rằm, mồng một, xe cộ ngang qua đấy thường dâng lễ vật, khấn vái, xin “Cô” phù hộ đi đường b́nh an.

- Bộ anh nhớ hết tên mọi người chết trên đó sao ?

- Nghĩa Quân là đồng đội, cùng đơn vị bao nhiêu năm. Với các anh bên Nhảy Dù, sống với nhau hàng tuần lễ, chỉ cần nghe tiếng nói tôi cũng biết là ai, tên ǵ. Vả lại phải nhớ tên mấy người đă chết, để sau nầy thân nhân đi t́m mà chỉ cho họ.

Thấy trời đă về chiều, tôi bàn đến chuyện xây mả, anh ta đề nghị.

- Nên xây từ từ, không cho chính quyền biết, hết tiền tôi sẽ ghé nhà quí anh lấy thêm.

- Anh đừng lo, anh cứ tính công vào cho ṣng phẳng. Chẳng bao nhiêu mà ngại. Tôi để tiền lại, anh cứ ghé bạn tôi mà lấy.

Tôi nhờ anh ta đưa chúng tôi ra thăm g̣ mối là mộ của cô gái. Trông không khác bất cứ g̣ mối nào ở trong rừng, nhưng rất to, kích thước cũng cỡ một ngôi nhà nhỏ. Đứng gần th́ không h́nh dung được, nhưng nếu lùi ra xa, đi ṿng phía bên kia, sẽ thấy giống h́nh một người đàn bà với mái tóc dài, ngực lớn, ngồi xây mặt vô núi. Có một cái nấm nhỏ hơn, giống đứa bé ngồi tựa vào ḷng mẹ. Tôi hỏi.

- Trông giống Ḥn Vọng Phu, nhưng sao Ḥn Vọng Phu nầy lại xây mặt vô núi ?

Anh ta có vẻ đăm chiêu.

- Hai mẹ con chờ người trong núi ra.

Buổi chiều âm u, cảnh vật im ĺm, tôi cảm thấy rờn rợn, tưởng chừng cái nấm mộ vĩ đại giống h́nh người kia cũng có linh hồn, có cảm giác và đang lắng nghe chúng tôi chuyện tṛ. Tôi nói.

- Đáng lẽ phải đem nhang ra đây…

- Vô nhà cúng cũng được. Trong đó có thờ cô ta.

Khi vào nhà, chúng tôi xin được thắp nén nhang, lễ trước bàn thờ tổ tiên, thân nhân của chủ nhà. Anh ta vén tấm màn che bàn thờ lên và lấy nhang, quẹt diêm đốt, trao cho chúng tôi.




Tôi thấy trên bàn thờ có để h́nh hai người lớn tuổi, có lẽ là cha mẹ anh ta. Phía trước là h́nh một cô gái, diện mạo b́nh thường, hơi mập, mặt tṛn, nụ cười hiền lành, chất phác. Cạnh h́nh cô ta là h́nh một người thanh niên.

- Có phải h́nh thờ bên cạnh là chồng cô ta không ?

- Đúng rồi! Vợ chồng phải thờ bên nhau cho có đôi.

Tôi nh́n h́nh người đàn ông, thấy ngờ ngợ như gặp ở đâu ? Nghĩ măi một lúc, quay nh́n anh ta… hóa ra là h́nh của chính anh.

- Ủa, anh chưa chết mà sao lại thờ, hay là h́nh người khác ?

- H́nh của tôi đó ! Cô ta là vợ tôi. Khi cô ấy mất, tôi về đây phụng dưỡng cha mẹ vợ.

- Nhưng sao anh lại thờ chính ḿnh ?

Anh cười buồn, đôi mắt xa xăm.

- Khi trong trại tù khổ sai của bọn cộng sản, tên cán bộ nói rằng nước Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n nữa. Tối đó, tôi nằm khóc suốt một đêm. Tôi biết, thế là hết. Đất nước tôi, quê hương, bản quán của tôi đă bị bọn chúng chiếm mất rồi. Chúng tôi sẽ bị kiểm soát, theo dơi như những người tù.

Bạn bè, đồng đội, đứa nào cũng buồn, không muốn gặp mặt nhau ! Tôi như người lính duy nhất c̣n sống sót, lang thang giữa một vùng quen thuộc nhưng không c̣n nơi để trở về.

Cảm tưởng rơ rệt nhất là khi tôi đứng trước quận hành chánh nh́n vào. Quận đường vẫn nguyên vẹn, vọng gác trước cổng, nơi tôi thường ngồi gác vẫn c̣n đó, nhưng tôi không c̣n quyền yêu thương nơi đó nữa. Tôi đă bị xua đuổi khỏi quê hương tôi.

Tôi sống một ḿnh ở đây nhưng lại cảm thấy được gần gũi với bao người thân yêu chung quanh. Thỉnh thoảng tôi ra ngồi tâm sự với vợ con tôi ở g̣ mả ngoài kia. Khi th́ tôi qua bên kia đồi, cạnh các ngôi mộ, chuyện tṛ với đồng đội nằm dưới đó.





Tôi nghe được, hiểu được những ǵ các bạn nói với tôi. Tôi nghe cả tiếng cười đùa của họ, nghe cả tiếng lách cách của súng đạn va chạm nhau, ngửi được cái mùi lính, mùi quen thuộc của mồ hôi thấm vào áo trận. Tôi ngồi đó để cảm thấy được an toàn đồng đội như những lúc hành quân, những ngày đóng chốt cũng như khi đụng độ với giặc.

Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Ḥa thân yêu của tôi.
Tôi để h́nh tôi trên bàn thờ là coi như ḿnh đă chết theo với nước Việt Nam Cộng Ḥa của tôi.

Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹï, vợ con. Khi nào thực sự nhắm mắt th́ tôi đă có sẵn cái huyệt mộ, gần vợ con tôi, ngoài kia.

(Sài G̣n trong tôi/ PTC-NET)



hoathienly19 10-25-2020 08:52

" BÍ MẬT " CỦA MỘT VIỆT KIỀU MỸ GIÀ LẤY VỢ TRẺ
 


" BÍ MẬT " CỦA MỘT VIỆT KIỀU MỸ GIÀ LẤY VỢ TRẺ



Vợ ông Thuận sau cơn bạo bệnh đă mất cách nay hơn 10 năm. Các con trai và gái của ông bà đều lớn cả và có gia đ́nh nên ông ở chỉ có một ḿnh. Từ ngày vợ mất, ông đă ngoài 65 nhưng vẫn c̣n tráng kiện và khoẻ mạnh.

Cái tin ông về VN mấy lần, khá tốn kém để cưới vợ qua Mỹ làm chấn động cả một thị trấn nhỏ, nơi có tin lành dữ ǵ là ai cũng biết.


Dĩ nhiên đâu có ai có thiện cảm với một ông lăo 75 tuổi về VN cưới 1 cô gái trẻ đẹp mới ngoài 20 chỉ đáng tuổi con cháu chắt. Đúng là trâu già thích gặm cỏ non !

Ra phi trường đón cô gái trẻ ấy chỉ có một ḿnh ông. Tất cả con cháu, họ hàng không có một người nào. Thái độ đó ông thừa hiểu là họ phản đối !
Giấy tờ hợp lệ, hôn thú hẳn hoi, ông đưa cô về nhà.

Đêm đầu tiên cô gái cơm nước xong, tắm rửa sạch sẽ, ngồi coi tivi, cô chưa biết tiếng Anh nên ông mở mấy băng Paris By Night, Asia.. cho cô coi. Khuya, ông chỉ tay vào một căn pḥng và nói:

- Đó là pḥng riêng của Hằng, tất cả đồ đạc có đầy đủ, Hằng cứ tự nhiên.

Nói xong, ông đứng lên đi vào pḥng của ông.

Cô gái hơi ngạc nhiên nhưng chỉ nghĩ là bên Mỹ vợ chồng ngủ riêng mỗi người một pḥng, khi nào cần làm "chuyện ấy" th́ mới...ṃ sang ! Hix!
Nhưng cả tháng sau cô chờ hoài mà vẫn không nghe tiếng ông gơ cửa hay có thái độ nào khác !





Sau khi hoàn tất mọi thủ tục bổ sung để làm giấy tờ như thẻ SS (Social Security), thẻ ID, permanent resident card (thẻ xanh thường trú nhân)... Ông nói nhẹ nhàng nhưng nghiêm trang với cô:


- Từ mai tôi sẽ chở Hằng đi học ESL, sau một thời gian, sẽ đăng kư học tiếp ở college, Hằng phải cố mà học, tôi không sống măi mà bảo bọc cho cô được đâu.

Ở cái xứ sở này, đâu ai để ư ai, đâu ai biết, đó là vợ chồng hay cha con, chỉ thấy ngày ngày ông chở cô đi và đón cô về, ân cần thăm hỏi động viên học hành.

Cô chỉ biết vâng dạ

Những đêm xa nhà, xa quê hương một ḿnh nơi đất khách quê người, người ta mới hiểu thế nào là cô đơn cực kỳ, là cần hơi ấm người đồng hương, là thèm một tiếng nói dù là tiếng nói của một ông già. Nhiều lần cô lưỡng lự, muốn qua gơ cửa pḥng vào nói chuyện với ông nhưng rồi lại thôi.

Một năm thấm thoát trôi qua. Cô c̣n trẻ lại khá thông minh nên tiến bộ trông thấy, cô apply vào trường college và vượt qua các test để vào ngành y tá.

Ngày cô đi thi quốc tịch cũng là ngày ông mừng ra mặt khi cô báo tin đă pass (đậu).

Rồi ông đốc thúc cô nhanh chóng bảo lănh cha mẹ qua Mỹ ! Cô c̣n đi học nên tất cả mọi chi phí ông đều đài thọ.





Ba năm sau cô và ông ra đón cha mẹ cô và đứa em nhỏ dưới 21 tuổi.
Từ xa, bố vợ của ông tách khỏi gia đ́nh, chạy lại ôm chầm lấy ông, mắt đă nhoè lệ và kêu lên sung sướng :

- Ông Thầy !


Th́ ra ông Thuận nguyên là sĩ quan tiểu đoàn trưởng, thuộc trung đoàn 50, sư đoàn 25 bộ binh VNCH. C̣n "ông bố vợ", bố của Hằng nguyên là một trung sĩ, thuộc cấp của ông.

Hai thầy tṛ ôm nhau mừng mừng tủi tủi.

Chỉ đến khi ông và Hằng ra toà ly dị các con ông mới vỡ lẽ. Họ biết là họ đă sai lầm.

Ngày xưa sau 1975,
lúc ông phải đi tù cải tạo, người lính thuộc cấp ấy đă phải đạp xích lô nuôi gia đ́nh bữa no bữa đói mà vẫn chia sẻ giúp đỡ gia đ́nh ông dù chỉ là những đồng tiền khiêm tốn. Những lần vợ ông đi thăm nuôi gần như là toàn bộ đồ dùng người thuộc cấp mua cho ông.

Ông bùi ngùi nói với tôi :


- Chú Ḥa biết không, những ngày trong trại cải tạo, là những ngày đói triền miên, đói vô tận, đói mờ mắt, đói run chân th́ 1 cân đường, 1 kg chà bông, 1 bịch đậu phọng, vài viên thuốc qúy... hơn vàng nhưng những thứ đấy vẫn không qúy bằng cái t́nh nghiă mà người lính dành cho ḿnh. Chính cái t́nh nghiă ấy cho tôi niềm tin và hy vọng.

Khi qua Mỹ, tôi được tin gia đ́nh chú ấy kiệt quệ, đau bệnh liên miên, tiếp tế vài ba trăm cũng chỉ nuôi được mấy tuần, nên tôi đành phải bàn ... làm rể "giả" của chú ấy. (Ông hóm hỉnh khi nói câu này)





*****


Tôi hiểu câu chuyện, th́ ra ông về VN "giả" cưới cô Hằng là để đền ơn người thuộc cấp đă cưu mang giúp đỡ ông và gia đ́nh sau 1975.

Nhưng tôi vẫn c̣n thắc mắc:

- Thế sao cô Hằng không biết chú là cấp chỉ huy của ba cô ấy?

Ông mỉm cười:

- Đám cưới giả mà, phải giữ bí mật chứ, chỉ có 2 người biết là tôi và người lính ấy.

Tôi nhắp ngụm bia, bỗng nảy ra ư tưởng, tôi nói:

-Chuyện của chú cháu đưa lên... facebook được chứ?

- Tôi chỉ làm một việc rất b́nh thường. Sống có t́nh có nghiă là vui lắm rồi, cần ǵ ̣m ĩ...

Hằng và các con ông đang ngồi ăn uống vui vẻ, Hằng đứng dậy đi về phiá tôi và nói:

- Anh Ḥa, anh cứ đưa lên facebook cho em, coi như là lời cảm tạ người Bố thứ 2 của em vậy!

Tôi thấy mắt Hằng long lanh !





Trên Mạng không thấy tên tác giả .

hoathienly19 10-30-2020 06:02

CHUYỆN TÙ CẢI TẠO : VAY VÀ TRẢ
 


CHUYỆN TÙ CẢI TẠO :
VAY VÀ TRẢ


Nhân phát biểu của ông phó giáo sư tiến sĩ Vũ Quang Hiển (không có ngược đăi quân cán chính miền Nam sau 1975 [1]) tôi muốn giới thiệu một bài mang tính hồi tưởng của BS Vơ Tam Anh viết về thời gian trong các trại tù cải tạo.

[1] http://www.bbc.co.uk/…/20…/04/150418...en_vietnamwar…


Đây chỉ là 1 trong số hàng ngàn câu chuyện.


Câu chuyện, nói theo ngôn ngữ của Karl Popper, là một minh chứng cho thấy ông Vũ Quang Hiển đă phạm phải một sai lầm lớn. Ông cũng đă xúc phạm hàng triệu người Việt Nam.

Phát biểu của ông Vũ Quang Hiển làm tôi nhớ đến sử gia người Anh tên là David Irving.

Ông Irving nổi tiếng với danh xưng “Holocaust denier” v́ ông phủ nhận rằng Holocaust là chuyện không có thật, rằng mấy ḷ gas là do người Do Thái phịa ra.

Ông Irving nổi tiếng đến nỗi bị
Chính phủ Úc cấm không cho vào Úc, và sau này th́ bị toà án Áo phạt tù 3 năm về tội xuyên tạc sự thật lịch sử.

Kể ra th́ ông Vũ Quang Hiển c̣n may mắn chán v́ ông không chịu sự chi phối của luật pháp nước ngoài.





Không biết có khi nào ông Vũ Quang Hiển tự hỏi tại sao các lănh đạo cao cấp của VN ra nước ngoài là bị biểu t́nh dữ dội ?

Suốt 40 năm qua, biểu t́nh vẫn xảy ra mỗi khi các vị ấy đến thăm các nước phương Tây.

Một trong những lí do là những người mà chính quyền hiện hành từng bỏ tù họ và hành hạ họ qua nhiều năm trong các trại “cải tạo”.

Cho dù họ đă chết, nhưng con cháu họ th́ không quên. Chính v́ thế mà họ biểu t́nh.






Tôi không thích việc làm như thế, nhưng tôi hoàn toàn hiểu và thông cảm cho sự tức giận của họ.

Người phương Tây có thành ngữ “What goes around comes around”.

Câu này có thể hiểu là “Cuộc đời có vay th́ có trả “.


Những ǵ mà chính quyền ngược đăi những tù nhân cải tạo th́ bây giờ chính quyền phải nhận lănh hậu quả.

Tưởng là ông Vũ Quang Hiển thừa biết câu đó chứ.

==========


LƯƠNG Y NHƯ….TỪ MẪU


BS Vơ Tam Anh

Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975,
nhân dân Miền Nam Việt Nam lâm vào một tâm trạng hoang mang tột độ, mịt mù trước tương lai, lo âu cho cuộc sống hằng ngày.

Tại Bệnh viện Vĩnh Long, mặc dầu tôi đă không c̣n trách nhiệm ǵ nữa mà anh chị em nhân viên cứ bám lấy tôi để ḍ hỏi, làm như tôi có phép mầu nhiệm ǵ để giải tỏa được những thắc mắc đang quay cuồng trong trí óc mọi người.

Những người thay thế tôi cố sửa đổi bộ mặt của bệnh viện bằng cách cho sơn vẻ khắp nơi những khẩu hiệu cách mạng mới, mà đắc ư nhất là câu “Lương Y như Từ Mẫu”,không biết lượm được ở đâu, mà cứ nhan nhản khắp nơi, từ ngoài cổng, cầu thang, hành lang cho đến pḥng thay áo, nhà tắm…như cố nhét vào đầu óc mọi người để tranh thủ cái độc quyền đạo đức nhân từ mà chỉ riêng người thầy thuốc cách mạng mới xứng đáng với hai chữ lương y.





Một hôm, tôi bước vào pḥng trực y tá để thăm hỏi, th́ thấy anh chị em đang quây quần tán gẫu, lẽ tất nhiên cũng không ngoài đề tài số một là gạo cơm lương bổng sẽ ra sao.

Bên cạnh là bàn thờ tổ quốc, một thứ trang trí mới trong tất cả các pḥng, bất luận là chuyên môn hay hành chánh, bên trên vẫn là cái câu nhân từ bất hủ đó. Một nữ hộ sinh chỉ vào khẩu hiệu, ngao ngán bảo với tôi :

” Ông Thầy biết không, chúng em bị một phen mừng hụt v́ nó đấy “,
rồi lấm lét nh́n ra của, nói tiếp:

“Chiều nay khi mấy chú cán bộ vào kẻ khẩu hiệu, khi ngang tới chữ “Lương y như…”
chúng em mừng quá reo lên v́ cứ tưởng là lương y như tháng trước, không ngờ nó lại là như…từ mẫu !”.

Thế rồi v́ không hiểu duyên nợ nghề nghiệp gắn liền hay đạo đức cách mạng chu đáo lo cho chúng tôi mà các bậc từ mẫu đó, tuy khoác áo lương y nhưng lại cư xử theo tư cách một… cai ngục, đă đeo đẳng măi chúng tôi trên suốt đoạn đường dài “cải tạo”.





Sau những năm dài da diết trong rừng sâu Sơn La, trên biên giới Hoa Việt, cuối cùng, v́ có chiến tranh với Trung quốc, chúng tôi được áp tải về một trại giam gần Hà Nội, một trại giam “kiểu mẫu”, một thứ “cây kiểng” để chế độ tŕnh diễn chính sách khoan hồng nhân đạo với thế giới bên ngoài.

Trong cái tủ kính bày hàng đó, lẽ tất nhiên săn sóc sức khỏe cho tù là “ưu tư hàng đầu” của Ban Giám thị và vị lương y phải được đóng vai kép chính.

Trại Nam Hà, cách Chùa Hương không xa,
được thời cuộc nâng lên hàng danh lam thắng cảnh để cho quan khách ngoại quốc lui tới viếng thăm, từ Hội Ân Xá Quốc Tế, báo chí Tây phương, các nghiệp đoàn cộng sản Pháp cho tới cả “đồng chí” Chandra Chủ tịch Hội đồng Ḥa b́nh Thế giới v.v…


Một lớp học tập cải tạo tại Tây Ninh năm 1976.





Từ trại nh́n ra, cảnh đẹp như tranh, xa xa những núi đá vôi nho nhỏ, đủ h́nh đủ dạng, nổi lên trên một mặt nước phẳng ĺ thơ mộng trông như Vịnh Hạ Long.

Cái mặt nước phẳng ĺ hiền ḥa đó, không ai ngờ là một thứ hàng rào thiên nhiên vô cùng độc hại, là những đầm śnh lầy cát lở đă nuốt sống biết bao là tù nhân trốn trại.

Bệnh xá nằm dưới chân đồi, trước sân có ḥn non bộ với Lă Vọng ngồi câu, bên dưới là bể cá vàng lừ đừ lội nh́n chúng tôi bằng cặp mắt thờ ơ chán ngán, trên mái hiên treo đầy lồng chim đủ màu đủ loại, suốt ngày hót líu lo như để mỉa mai tâm trạng héo hắt tơi bời của chúng tôi.

Tất cả cái thú xa xỉ trưởng giả đó đă được đánh đổi bằng xương thịt của chúng tôi qua sự cắt xén tiền thực phẩm vốn đă vô cùng đói rách.


Cá thia vàng, chim hoàng yến, chim họa mi tung tăng bay nhảy, đă được mấy ngàn cặp mắt tù sâu hoắc và phờ phạt v́ thiếu ăn, thèm thuồng nh́n qua giá trị của mấy chục gờ ram prôtêin mà vô cùng tiếc rẻ, v́ nó đang nằm trong tầm tay mà lại ngoài tầm… bao tử.

Cây kiểng trước sân được chăm sóc tỉ mỉ mà mỗi lần gọt tỉa là một dịp cho chúng tôi lượm lá rụng nấu thành một bữa rau để dành giựt nhau, tuy vừa dai vừa đắng nhưng màu đỏ của nước lá dền cũng cho chúng tôi ảo tưởng bổ dưỡng của chất sinh tố B12.

Cái quang cảnh thần tiên của bệnh xá đó đă được lên h́nh trên báo Liên Xô và được tô điểm đến độ mỗi lần thuyết tŕnh cho phái đoàn ngoại quốc, viên giám đốc trại cũng không bao giờ quên luyện giọng một cách thành thực :

“Tôi chỉ mơ ước được sống như những trại viên (ư nói từ chúng tôi)”. Tiếc thay ! ! !





Đến đây tôi mới hiểu tại sao anh em tù Nam Hà gọi cán bộ bằng “Chèo” (phường chèo), trắng trợn đến độ ban giám thị phải gọi lên chỉnh:

“Cán bộ th́ có nam có nữ, cớ sao các anh lại gọi bằng “chèo đực, chèo cái”, nghe chẳng “văn hóa” tư nào”.

Trại có một mật độ chuyên viên y khoa cao nhất thế giới,[color=red trong số hai ngàn người (tù) th́ có đến hai mươi bác sĩ (cũng tù). [/color]

Tất cả đều phải lao động khổ sai như nhau, đập đá, đốn củi, ngâm ḿnh dưới nước để kéo cày thay trâu…, trong khi trên bờ đê, cán bộ cầm cái roi dài quất qua quất lại khiến cho tù ở dưới ruộng không hiểu là ḿnh đang c̣n ở kiếp người hay đă đầu thay qua kiếp khác làm trâu ḅ.





Phần điều trị được nhường lại cho những người ngoài ngành y tế được lựa chọn theo tiêu chuẩn hạnh kiểm và mức độ hợp tác.

Tuy nhiên, bất đắc dĩ bệnh xá phải giữ lại một vài bác sĩ tù để vừa giúp đỡ trong việc chuyên môn, để đọc các tên thuốc bằng ngoại ngữ, vừa để làm kiểng cho phái đoàn ngoại quốc xem, vừa để dạy cho các bác sĩ (không phải y khoa) cách mạng ống nghe, cách bắt mạch v.v…

Người được chọn ở lại bệnh xá là một đồng nghiệp đàn anh, từng tốt nghiệp đại học Paris khi tôi chưa vào trường y khoa, từng giữ nhiều chức vụ điều khiển trong ngành y tế miền Nam, nay đă lớn tuổi được anh em rất nể nang nên tôn làm “đại ca”.

Đại ca c̣n có thêm biệt hiệu nữa là “Vua cháo heo” v́ thỉnh thoảng được anh em nuôi heo cho cán bộ, thương t́nh làm ngơ để cho múc một lon cháo heo (dĩ nhiên là béo bổ hơn cơm tù ) rồi vụt chạy cho cán bộ khỏi thấy.

Thế là tối hôm đó được một đêm huy hoàng.


Sau khi chiếc khóa sắt nặng nề rột rạt khóa kín cửa chuồng lại, chúng tôi bao quanh đại ca, bên cạnh lon cháo heo bốc khói thơm phức, vừa xem đại ca lim dim đôi mắt thưởng thức từng hạt bo bo cháy khét mà tưởng chừng như ăn trứng caviar, vừa để đại ca kể lại cho đàn em nghe những ngày vàng son c̣n du học trên đất Pháp, những đêm liên hoan trên đường phố Montmartre Paris…

Ảnh sinh hoạt trong nhà bếp ở một trại cải tạo tại Việt Nam sau năm 1975.






Chỉ huy bệnh xá là một bác sĩ ngành công an, luôn luôn nh́n chúng tôi bằng cặp mắt nghi ngờ đầy mặc cảm, có lẽ đă đọc được trong phiếu lư lịch của chúng tôi một tội danh lạ đời :

“ Can tội : bác sĩ ”.


Một hôm tịch thu được hộp dụng cụ tiểu phẫu trong đó có cây kềm Michel giống cái kéo, dùng để gỡ các móc da, bác sĩ loay hoay măi không biết làm sao, cuối cùng chê :

“Kéo với kiết, thế này th́ làm sao cắt được, dốt thế ! ”.


Mắt bác sĩ đă quen nh́n những lọ Pénicilline Trung quốc làm bằng một thứ chai đục ngầu, bọt lỗ đỗ, nút lọ được khằn kín bằng sáp như thuốc “cao đơn hoàn tán”, nên khi gặp một lọ Pénicilline bào chế ở miền Nam, rất kinh ngạc v́ kỹ thuật sai biệt, và khi thấy trên lọ mấy chữ :

“ Laboratoires Ténamyd Thủ Đức ”, bèn mừng rỡ khoe với chúng tôi:


“ Thuốc của Đức đấy, xă hội chủ nghĩa anh em ta đấy”.






Dưới trướng của vị luơng y này là một ban chuyên môn (không phải y khoa) gồm đủ thành phần.


Một anh có hoa tay đục đẽo, chạm trỗ, biến các lon sữa Guigoz thành những hộp thuốc lá, cái lược, cái ṿng, tinh vi như những nữ trang thứ thiệt để lương y đem về tặng thân nhân hoặc… đổi chác.

Một anh ngành quân cụ lo bảo tŕ chiếc xe đạp “hữu nghị” mà người cỡi cũng hănh diện như lái chiếc xe Mercedes vậy.





Một họa sĩ có biệt tài biến hóa những gương mặt trong gia đ́nh lương y từ một tấm ảnh nhăn nheo vàng khè thành những chân dung sạch sẽ khôi ngô, và lương y cũng không dấu được sự hài ḷng khi thấy khoác lên ông cụ thân sinh chiếc khăn nhiễu, cái áo gấm, trông rất “quan “ , c̣n phu nhân và ái nữ cũng được mặc chiếc áo dài mà ngoài đời họ chưa bao giờ sờ tới.

Riêng bản thân lương y, khi đề nghị mặc bộ âu phục cho oai th́ lưỡng lự hồi lâu rồi buồn rầu trả lời :

“Chớ ! không nên, nhỡ trên biết được th́ khốn”, nên đành chấp nhận bộ đồng phục công an vậy.





Về phần điều trị,
có lẽ Đảng đă sáng suốt thấy rơ sự lúng túng của lương y, nên chỉ thị cho quốc doanh cung cấp dược phẩm dưới h́nh thức “viên” hết sức đơn giản, hễ đau ở bộ phận nào th́ đă có những viên tương ứng:


Viên gan, viên dạ dày, viên phổi, viên tim, viên xương, viên khớp v.v…

Ban đêm nếu có tiếng kêu cứu từ các pḥng vọng ra,
thê thảm xé nát sự im lặng nặng nề của trại tù về đêm, rồi cứ lặp đi lặp lại măi như dội qua vách núi, cho đến khi lương y khệnh khạng đến, cho ống nghe qua một khe nhỏ để khám bệnh nhân ở trong pḥng rồi hoặc phát cho vài “viên”, hoặc bắt bệnh nhân dán mông đít vào song cửa sắt chích cho một mũi thuốc để chờ tới sáng.

Cũng trong hoàn cảnh đó, một Thượng Nghị Sĩ nổi tiếng ở Sài g̣n, bị trúng độc v́ ăn sắn sống, trộm được lúc ban chiều khi đi lao động, đă phải chờ măi cho tới sáng hôm sau, khi được đưa ra khỏi pḥng th́ đă quá trễ.





Một buổi chiều nọ, khi đi lao động về, anh em ngạc nhiên chứng kiến một hiện tượng lạ thường :

Trại được sơn phết lại trắng xóa, trên vách tường lại vẽ thêm những bông hoa màu mè sặc sỡ, có lẽ v́ cây cảnh thật đă bị tù bứt lá bẻ hoa không đủ đem lại vẻ vui tươi cho nhà tù.

Giữa sân lại có cảnh nhóm chợ trời, cán bộ bày bán thịt tươi, rau sống cho anh em tù nào c̣n dấu đút được chút tiền c̣m tung ra mua ăn bồi dưỡng.

Những người giàu tưởng tượng cho truyền ngay một câu sấm, không biết có phải của Trạng Tŕnh không:

“Bao giờ tường đá nở hoa,

Nhà tù nhóm chợ th́ ta…ra về”

Về đâu chẳng thấy nhưng truớc mắt là
phải ráo riết chuẩn bị doanh trại để đón tiếp một phái đoàn ngoại quốc quan trọng, một công tác làm đảo lộn hẳn nếp sống hằng ngày, để được đền bù bằng một chút an ủi mơ hồ là c̣n được người đời biết tới.

Ngay tối hôm đó,
một số nhạc cụ kể cả cây dương cầm nặng nề được h́ hục chở về từ Hà Nội để cho ban nhạc tha hồ tập dượt măi tới khuya .

Tiếng nhạc vang lên từ một góc núi làm khuây khỏa trong chốc lát những u uẩn của tù nhân.

Thỉnh thoảng một vài bản “nhạc vàng” được chơi lén, tiếng réo rắc của “Diễm Xưa”, “Nắng chiều” gợi lên một nỗi nhớ nhà vô biên, mà lỡ cán bộ có hỏi tới th́ anh em đă sẵn câu trả lời :

“Nhạc Cuba đấy” ,
thế là yên.





Căn pḥng chật chội hôi hám trong đó hằng mấy trăm mạng người chen lấn giành giựt từng ly, từng phân trên cái tiêu chuẩn hai bàn tay cho mỗi người, nay được thu dọn thành ba mươi chỗ nằm rộng răi tươm tất, với chiếu hoa mới toanh, chăn len thơm phức, sắp xếp thẳng tắp như trong một quân trường.

Từ mờ sáng,
ngoài thành phần ở lại để tŕnh diễn, c̣n tất cả phải lũ lượt kéo nhau thành từng đàn qua các đường ṃn khúc khuỷu để vào trốn sâu trong núi.

Các anh em bệnh nặng th́ được cơng,
gánh hoặc khấp khểnh lết đi thật xa để khuất khỏi tầm mắt trong sáng của người ngoại quốc cái h́nh ảnh vẩn đục thê thảm đó.





Bệnh xá này nhường lại cho những con bệnh mới, không có bệnh nhưng có một thể xác chưa tàn tạ nhờ có thăm nuôi, lúng túng học thuộc ḷng những căn bệnh thời đại do “tàn dư Mỹ Ngụy để lại”:

- Sơ gan v́ rượu chè

- Lên máu v́ nhậu nhẹt, nghẽn mạch máu v́ x́ ke, ma túy…

Gọn gàng sạch sẽ trong những bộ đồ ngủ mới toanh, trên mỗi đầu giường có chưng thêm một hộp sữa cũng “kiểng” như bệnh nhân, nghĩa là sẽ được thu hồi ngay sau khi phái đoàn ra về.





Ban thể thao,
bóng chuyền, bóng bàn, trong đồng phục gọn ghẽ vui mắt, ra sức “tranh thủ” để được bồi dưỡng thêm mấy củ khoai.

Từ sáng sớm ban nhạc đă inh ỏi trổi lên những bản nhạc hùng khối cộng sản, gây không khí vui nhộn làm cho quan khách có cảm giác là đi chơi chợ phiên hơn là đi thăm nhà tù.




Không hiểu là một phần thưởng hay là một cực h́nh tủi nhục cho những ai được chọn để ngồi ăn một bữa cơm “xoàng” mà trong suốt cuộc hành tŕnh cải tạo họ chưa bao giờ được nếm.

Thực đơn, được dán ở cửa, gồm có :

- Cơm trắng (một hiếm hoi trên đất Bắc) và thịt lợn, rau muống (một điều lạ trong nhà tù).

Bữa cỗ được diễn tiến theo một lịch tŕnh khắt khe :

- Ngồi vào bàn khi phái đoàn rời Hà Nội (8 giờ sáng), cầm đũa khi họ đến cổng trại (10 giờ sáng)
để cho bao tử cồn cào tiết chất chua, nước mắt nước mũi chảy dài v́ ngỡ ngàng trước mấy món ăn thơm phức béo bổ, cứ thế mà chịu đựng cái cực h́nh sinh lư đó suốt mấy tiếng đồng hồ, hai tay th́ cứ tuyệt vọng vùng vẫy trong một thứ c̣ng vô h́nh cho đến khi bóng dáng của phái đoàn cứu tinh xuất hiện ở ngưỡng cửa mới được lệnh cho thức ăn vào miệng (1 hoặc 2 giờ trưa).





Phần tŕnh diễn của bệnh xá được mở màn khi phái đoàn đặt chân vào trại.


Bác sĩ trưởng, trong bộ áo bờ lu lụng thụng, chiếc nón vải che khuất chân mày, trịnh trọng đặt ống nghe vào bệnh nhân ngồi trước mặt, rồi cứ giữ tư thế đó như một pho tượng sáp cho tới khi phái đoàn đi qua.

Lẽ cố nhiên “đại ca” của chúng tôi cũng có mặt tại bệnh xá với một chỉ thị nghiêm khắc :

" Không được nói tiếng ngoại ngữ và cố tránh mặt phái đoàn chừng nào hay chừng đó. "

Một nhà báo Pháp hỏi đại ca:

“Anh biết tiếng Pháp không ?”.


V́ đă được dặn trước, đại ca phải chờ cho thông dịch viên Bộ Nội vụ dịch xong để chứng tỏ rằng ḿnh không hiểu được câu hỏi, rồi mới trả lời :

- “ Không ”.

Nhà báo hỏi tiếp :

" Anh tốt nghiệp ở đâu ?”.


Câu hỏi bất ngờ này không được ban giám thị cho học tập trước, nhưng cũng vẫn chờ được dịch xong như thường lệ, đại ca mới trả lời :

“ Y khoa Đại học Paris ”.

Nhà báo bàng hoàng, ngạc nhiên như khám phá được một điều ǵ bí ẩn, một cái ǵ bất thường,
ṭ ṃ hỏi tiếp th́ được biết vợ anh là người Pháp, hiện sinh sống ở Paris, nên mừng rỡ chụp cho một tấm h́nh rồi ân cần thêm :

“Tuần sau vợ con anh sẽ nhận được”, ḷng hân hoan phấn khởi v́ vừa làm được một nghĩa cử trọng đại.






Chưa kịp mừng th́ tai họa đến ngay. Sau khi phái đoàn ra về, th́ ông bạn già của chúng ta, nạn nhân của ḷng vị tha nhân đạo kiểu Tây phương,
bị bác sĩ trưởng bệnh xá và ban giám thị gọi lên mắng nhiếc thậm tệ, bắt kiểm điểm lên kiểm điểm xuống, để rồi, bắt đầu từ hôm sau, hằng ngày phải ra lao động, đập đá, kéo cày, ngâm ḿnh dưới ruộng như hàng ngàn, hàng vạn anh em tù khác.





Ngày tôi về, đại ca c̣n ở lại, tiễn đưa tôi bằng cặp mắt đă hết nước mắt và hẹn tôi ở… kiếp sau !


Dư âm nặng nề của cuộc viếng thăm và v́ tấn tuồng đóng vụn, làm cho cơn lôi đ́nh của lương y đă trút hết lên đầu chúng tôi, nay không c̣n khoác áo Từ Mẫu nữa mà lại đội lốt… Ác Mẫu.

Phương Vũ Vơ Tam Anh

https://danlamthan.wordpress.com

hoathienly19 11-01-2020 08:26

CHUYỆN THẬT KỂ VỀ “ TẤM THẺ BÀI ” CỦA NGƯỜI CHA
 


CHUYỆN THẬT KỂ VỀ “ TẤM THẺ BÀI ” CỦA NGƯỜI CHA



Con gái 9 tuổi lạc qua Mỹ ngày 30 tháng 4 năm 1975, trở thành bác sĩ về Việt Nam chửa bệnh từ thiện, ra Nha Trang t́m lại cha mẹ các em, t́nh cờ xe hết xăng ngay chỗ mẹ ruột và hai đứa em đang cải táng mộ cha là một quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa cấp bậc Trung Sĩ tử thương vào ngày 30/04/1975, sau đó cô đă bảo lănh cả mẹ và các em qua định cư tại Hoa Kỳ.

Câu chuyện được bắt đầu vào sáng ngày 23-3-1975


Sau khi chồng và con trai bị chết v́ đạn pháo kích của Việt Cộng đồng thời bị thất lạc đứa con gái trong ngày di tản tại băi biển Chu Lai tại Quảng Tín, chị Buôn tất bật chạy khắp nơi để hỏi thăm về đứa con gái của ḿnh…chị đă được một người chạy nạn cho biết:

- “ Con bé khoảng 9 hay 10 tuổi mặc cái áo xanh, quần đen, cổ có đeo cái thẻ bài của lính là con chị sao ?

Nó được một người trên ca-nô nhào xuống nước bơi vào vớt nó đưa lên ca-nô ra tàu lớn rồi.

Thật là may mắn cho nó!”…

Lệ, đứa con gái thất lạc của chị Buôn được đưa lên tàu Hải quân với chiếc thẻ bài đeo ṭng teng nơi ngực.

Người ta thấy có khắc tên:

Lê văn Buôn Số quân: …. Họ hỏi Lệ.

Lệ nói đó là tên ba nó, ba Buôn của nó, bị lọt lại với má và ba đứa em tại băi biển Chu Lai.

Mới đầu Lệ sụt sùi khóc nhưng có người đàn bà ngồi gần bảo nó khóc không ích ǵ.

Nó cắn răng nghe lời bà này, làm theo những ǵ người ta chỉ bảo. Tiếng nổ làm cho nó ù tai nhưng cái sợ làm nó quên cả.

Kể từ lúc quả lựu đạn nổ, nó gần như mê đi cho đến khi có người vớt nó đưa lên ca-nô rồi lên tàu.




Người vớt nó lên ca-nô và đưa nó lên tàu, nhận nó là con nuôi là một Thiếu Uư Hải quân.


Sau thời gian huấn luyện dài đằng đẳng, tim anh c̣n đầy ắp t́nh người dành cho đồng hương và cả nhân loại.

Ước mơ của anh là những chuyến hải hành xa, đi đến chân trời góc biển, đi đến những đô thị lớn hoa lệ, nguy nga, ngợp ánh đèn về đêm và nườm nượp xe cộ, người đi bộ trên hè phố ban ngày.

Anh tên Lê trọng Nghĩa,
28 tuổi, quê quán ở miệt Thủ Dầu Một, ra trường với hạng cao trong số hơn 60 sinh viên tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và hiện là một sĩ quan ưu tú của Giang đoàn 240 đóng ở miền Trung.

Chiếc tàu Nghĩa và đứa con nuôi là Lệ về đến bến Bạch đằng Sàig̣n vào tuần đầu tháng 4-1975, đang lúc Sàig̣n lên cơn sốt y như miền Trung mấy tuần trước.

Nghĩa đưa Lệ đến gửi tại nhà vợ một người bạn trong trại Sĩ quan bến Bạch đằng, lại gửi tiền và nhờ Xuân Hà, tên vợ người bạn, đi mua sắm quần áo và những thứ cần thiết hàng ngày cho Lệ.

Xuân Hà nh́n Nghĩa rồi nh́n Lệ và hỏi nhỏ Nghĩa:

“Con bé xin được ở đâu mà xinh quá vậy?

Tốn vài tạ gạo nữa là đă ra dáng tiểu thư rồi.Anh lựa hay lắm.”

Nghĩa nghiêm nét mặt bảo Xuân Hà:

“Chị đừng nghĩ vậy.

Ba má nó và ba đứa em c̣n kẹt lại Chu Lai.

Chỉ có ḿnh nó được tôi cứu lên tàu. Tôi nhận nó làm con nuôi.”

Xuân Hà tính đùa thêm một câu nhưng thấy mặt Nghĩa lạnh như tiền nên không dám cợt nhả nữa.





Ngày 28-4-1975,
Nghĩa lại mang Lệ lên một chiếc tàu Hải Quân HQ lớn để chạy sang Guam.

Nghĩa con một, cha mẹ Nghĩa đă lớn tuổi muốn sống và chết ở Thủ dầu Một nên không đi mặc dù trong thời gian ở Sàig̣n, Nghĩa đă cải trang về thăm và mời ông bà đi.

Sau 5 tháng ở trong trại tạm cư ở Guam, Nghĩa và Lệ được một nhà thờ bảo trợ đi định cư tiểu bang South Carolina.

Từ đây, Nghĩa xin Basic Grant của tiểu bang để vào Đại học học Kỹ sư cơ khí.

Ngoài giờ học, Nghĩa đi làm part time cho tiệm Sears ở downtown để lấy tiền chi phí ăn ở cho hai cha con.

Nghĩa xin cho Lệ vào học ở trường tiểu học địa phương, có xe bus nhà trường đưa đón mỗi ngày và ăn sáng, ăn trưa miễn phí v́ hai cha con Nghĩa chưa có lợi tức.

Nghĩa chỉ thêm bài vở cho Lệ mỗi buổi tối sau khi cơm xong.

Lệ thông minh nên học rất nhanh.

Để giúp ba Nghĩa, nó biết đặt nồi cơm điện, luộc rau, luộc trứng, làm những món giản dị rồi chờ ba Nghĩa về ăn cơm.

Mặc dầu vào ngang thiếu căn bản 4 lớp đầu (học tŕnh Hoa Kỳ), nhưng Lệ đă học xong lớp 5 Việt Nam, Lệ học lại với ba Nghĩa và một cô giáo Mỹ dạy kèm (tutor) tất cả những ǵ cần thiết chưa được học ở các lớp dưới, nhất là Anh ngữ, v́ vậy Lệ tốt nghiệp Trung học lúc mới 17 tuổi với điểm trung b́nh 4.0, một thành tích vượt mức ngay với học sinh bản xứ.

Nhiều lúc Lệ nhớ ba má, nhớ các em day dứt nhưng nghe ba Nghĩa khuyên, Lệ phải cố quên.

Lệ cũng nghĩ và tự nhủ ḷng, có khóc, có nhớ ba má và các em cũng không làm được ǵ, chỉ cản trở việc học.





Đă từng ở trong cảnh nghèo của cha mẹ ở Việt Nam, Lệ biết được đi học thế này là một diễm phúc v́ vậy Lệ cố gắng và chăm chỉ hết mức.

Ba Nghĩa cũng khuyên Lệ, sau này có thể có bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, khi ấy Nghĩa sẽ t́m cách hỏi thăm t́m ra tung tích ba má và các em Lệ. Lệ nghe thế lại tạm yên ḷng và hy vọng.

Mùa Thu năm đó, Lệ vào trường Đại học Y khoa South Carolina.
Sau 3 năm, Lệ lấy Cử nhân Sinh Vật học với lời khen của Hội đồng Giám Khảo. Lệ chuyển qua học ngành Nhăn Khoa (Opthalmology).

Năm 1990, Lệ đậu bằng Bác sĩ Nhăn Khoa hạng tối Ưu với lời ngợi khen của Ban Giám Khảo.

Lệ được mời dạy môn Nhăn Khoa cho sinh viên cùng trường.

Lệ hỏi ư kiến ba Nghĩa, sau đó Lệ xin khất cho đến khi trở về từ Việt Nam.

Tốt nghiệp xong, Lệ bàn với ba Nghĩa, lúc này đă có vợ và một đứa con trai 2 tuổi, ba Nghĩa đồng ư, Lệ đi mua vé máy bay về Việt Nam t́m cha mẹ và các em.





Sau hơn 10 năm bế quan toả cảng cả nước sắp chết đói, lúc này (từ 1985) chế độ bắt buộc phải mở cửa cho kinh tế thị trường nên cũng dễ dàng cho Lệ đi lại.

Lệ và một người bạn thân về đến Chu Lai vào một buổi chiều mùa Hạ năm 1990 sau khi đă lặn lội đi bằng đủ thứ xe từ Sàig̣n ra miền Trung.
Sau 15 năm, quang cảnh cũ đă thay đổi nhiều.

Có những căn nhà mới mọc lên nhưng cũng có nhiều căn trại cũ biến mất.

Chỉ có băi biển, trông vẫn như trước mặc dù có nhiều hàng quán mọc lên bán thức ăn, thức uống cho du khách.

Trại Gia binh ngày nào không c̣n. Lệ muốn được gặp lại những người hàng xóm của ba má Lệ ngày xưa như vợ chồng bác Sáu, vợ chồng chú Đàm, vợ chồng cô Bé để hỏi thăm về cha mẹ và các em nhưng đi quanh quanh làng xóm, Lệ không kiếm ra một người quen cũ.

Lệ đeo cái thẻ bài vào cổ như ngày 23-3-1975 ra băi biển Chu Lai, nhà nào Lệ cũng vào hỏi thăm và cho con cái họ quà bánh Lệ đem từ Hoa Kỳ về, giơ chiếc thẻ bài cho họ coi và hỏi thăm xem có ai biết ba má và các em Lệ không ?





Nhưng tuyệt nhiên không ai biết. Vốn đă có định kiến, Lệ xin phép chính quyền sở tại, không quên quà cáp cho họ, để mở pḥng mạch khám mắt miễn phí cho mọi người.

Một nữ bác sĩ Hoa Kỳ, cô Ruthie O’Brien, bác sĩ gia đ́nh, vốn là bạn thân và cùng ra trường một ngày với Lệ, cùng đi với Lệ về chơi thăm miền Trung Việt Nam, nhân dịp cũng bỏ đồ nghề ra khám bệnh và cho thuốc cùng những lời khuyên hữu ích để pḥng ngừa bệnh tật.

Các gia đ́nh đến khám mắt và khám tổng quát, nhất là những ông già bà cả đều được hỏi về Trung sĩ Lê văn Buôn, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1, Sư đoàn 2 Bộ binh vào tháng 3 năm 1975 nhưng không một ai biết.





Mỗi buổi chiều khi khám bệnh xong, Lệ và Ruthie thường ra băi biển Chu Lai ngồi ngắm sóng và ngắm hoàng hôn trên biển, nghe những tiếng ŕ rào của sóng biển chạy vào bờ rồi lại trườn ra xa.

Thấy bạn buồn v́ không t́m ra gia đ́nh, Ruthie lựa lời khuyên nhủ và hỏi Lệ có c̣n muốn đến nơi nào khác để kiếm không ?

Lệ nghĩ chỉ có hai nơi khác ba má Lệ có thể ở là Nha Trang, quê của ba và Trà Vinh, quê của má. Lệ nói cho Ruthie nghe những nơi Lệ hy vọng nhiều nhất, sau đó Ruthie khuyên Lệ nên đi Nha Trang.

Nha Trang không hứa hẹn nhiều cho việc t́m kiếm v́ Lệ đă đến đây gần một tuần, đi khắp nơi hỏi nhưng không ai biết cựu Trung sĩ Lê văn Buôn và vợ con.

Lệ thất vọng hoàn toàn, thầm nghĩ chỉ c̣n một nơi nữa là Trà Vinh.

Nếu tại Trà Vinh cũng không có tung tích th́ coi như gia đ́nh Lệ đă bị tiêu tán trong hoặc sau ngày 23-3-1975. Nghĩ đến đó, Lệ cảm thấy buồn muốn khóc.

Ba má và các em đi hết chỉ để lại ḿnh con thôi sao, thế th́ con có sống cũng mang mối u hoài đau khổ ấy suốt đời !

Thà con ở lại nhà chia sẻ những đau khổ với ba má và các em rồi chết chung một huyệt cũng là xong một kiếp người.

Lệ buồn khôn tả và khóc mỗi đêm về nhưng không dám cho Ruthie biết.





Một buổi sáng, Lệ cùng Ruthie mướn một chiếc xe hơi với tài xế để đi thăm Ḥn Chồng, nơi thắng cảnh đẹp có tiếng của Nha Trang.

Thật ra Lệ không c̣n tâm trí đâu ngoạn cảnh v́ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nhưng để ch́u Ruthie, Lệ cho Ruthie đi nơi này nơi kia chụp h́nh lưu niệm và dọc đường có thể t́m vào các quán ăn ngon, các khách sạn sang trọng mướn pḥng ngủ qua đêm.

Lẽ ra trong chuyến đi này, Lệ mang theo vị hôn phu là bác sĩ Vĩnh quang Dũng, chuyên khoa bệnh tiêu hoá, tốt nghiệp trước Lệ 3 năm và hai người quen nhau khi cùng làm việc trong một bệnh viện nhưng Dũng phải đi Á căn Đ́nh dự một Đại Hội Y Khoa toàn cầu về bệnh tiêu hóa, đại diện cho Bộ Y Tế Hoa Kỳ.

C̣n vị hôn phu của Ruthie có cha già đang nằm bệnh viện chữa trị bệnh tiểu đường nên anh cũng không thể theo Ruthie đi du lịch Việt Nam được.

Sau khi đă dạo chơi băi biển hơn hai tiếng đồng hồ, Lệ đề nghị tài xế chở ṿng qua con đường phía sau, nơi đây lưa thưa có dăm cái nhà trên băi cỏ hoang.

Phong cảnh quá tiêu sơ và u buồn, không có bóng một đứa trẻ.

Lệ và Ruthie bàn với nhau đi xuống cuối con đường rồi trở lại, trở về thành phố Nha Trang.





Mới đi thêm một khoảng ngắn, đột nhiên chiếc xe bốc khói ở máy.

Tài xế vội cho xe ngừng lại và kiểm soát máy thấy máy cạn khô không c̣n một giọt nước.

Anh ta hoảng hồn tắt máy và ngơ ngáo đi t́m xung quanh để kiếm nước châm vào máy.

Đó đây, ngoài con lộ đắp bằng đất đỏ th́ toàn là g̣ đống và bụi cây mọc lưa thưa, tít tắp xa mới thấy vài mái tranh hiện trên nền trời xanh lơ.

Lệ và Ruthie phải ngồi chờ dưới gốc cây cho bớt nắng trong khi bác tài lội bộ đi t́m nước.

Chợt Lệ trông thấy một đám người lố nhố trên một cái g̣, cách xa Lệ khoảng 400 mét.

Lệ chợt nghĩ hay là họ đào huyệt chôn người chết như hồi c̣n bé Lệ đă thấy ở Chu Lai nhưng sao không nghe tiếng khóc cũng không thấy quan tài.

Trí ṭ ṃ thúc đẩy Lệ vào đó coi xem sao. Lệ cũng có ư nghĩ giúp đỡ công việc họ đang làm, nếu họ quá nghèo, cần đến một, vài chục đô-la của Lệ.
Lệ nói cho Ruthie nghe ư nghĩ của ḿnh, bảo Ruthie ngồi đó chờ ḿnh nhưng Ruthie không chịu, đứng lên cùng đi với Lệ.

Hai cô gái cứ tưởng gần và ruộng khô, nào ngờ coi vậy nhưng khoảng cách khá xa và có những chỗ nước ngập mắt cá, hai cô phải tháo giầy cầm trên tay để đi.





Khoảng sáu, bảy người vừa đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ cắm cúi nh́n vào một cái lỗ huyệt đang đào do 4 thanh niên khoẻ mạnh, người cầm xẻng xúc đất đổ vào mê tre, kẻ bê đất đổ lên bờ, để dần dần hiện ra tấm nắp thiên bằng gỗ đen ś một cái quan tài.

Từ xa lội tới, hai cô gái đă bị những cặp mắt ṭ ṃ của đám người trên g̣ nh́n thấy và theo dơi.

Khi hai cô tới gần, tất cả đều ngừng tay nh́n chằm chằm như nh́n một hiện tượng lạ.

Họ quá lạ lùng bởi từ xưa đến nay chưa có người ngoại quốc nào ăn mặc đẹp đẻ thế kia – đám người cho rằng cả hai cô là gái Mỹ, Pháp, Anh, Úc chi đó, lại lội ruộng vào cái g̣ này để coi cải mả.

Phải, họ đang cải mả.

Họ đào cốt người thân chết đă lâu năm, bỏ sang một cái tiểu sành, kiếm chỗ thuận tiện, gần gũi hơn đặt xuống.

Lệ mở lời khi nh́n một người đàn bà lam lũ, già yếu, mặt mày nhăn nheo:

“Chào các bác, các chú, các anh, các chị.

Cháu là người Việt sống tại Hoa Kỳ về thăm quê hương.

Các bác, các chú đang cải táng cho thân nhân, phải không ạ?”

Nghe cô con gái nói tiếng Việt, cả đám người thật ngạc nhiên.

Sao cô gái trông như Mỹ này, chỉ khác mớ tóc đen, lại là người Việt, nói tiếng Việt thạo quá.

Họ bỏ xẻng cuốc đứng vây xung quanh hai cô gái.




Người đàn bà lớn tuổi trả lời :

- “Phải, người ở dưới huyệt là chồng tôi, chết từ năm 1975.”

Lệ nghe giọng nói người đàn bà có điều ngờ ngợ nhưng chưa dám tin là ḿnh có thể đúng.

Nhân tiện, cứ hỏi thăm xem có ai biết được ba ḿnh không?

Lệ ch́a tấm thẻ bài đeo trong ngực áo ra cho họ coi, nói:

“Tấm thẻ bài này của ba tôi. Tôi không biết gia đ́nh ông c̣n sống không và nay ở đâu.

Ông tên là Trung sĩ Lê văn Buôn.”

Người đàn bà trân trối nh́n Lệ xong ngập ngừng nói :

“Thế này thực không phải.

Xin lỗi…Có phải tấm thẻ bài này của lính Việt Nam Cộng hoà và cô là …Lệ phải không?”

Điều Lệ nghi ngờ đă đúng.

Giọng nói người đàn bà và nh́n kỹ từ đầu đến chân, Lệ thấy đúng là má Lệ, không c̣n sai vào đâu được.

Lệ ôm chầm lấy bà khóc rưng rức:

“Má ơi! Con đây, Lệ của má đây.

Má c̣n nhận ra con không?”

Bà Buôn, phải, v́ người đàn bà đó chính là vợ goá của Trung sĩ Lê văn Buôn, càng ôm chặt Lệ hơn.

Bà rên rỉ :

“Lệ ơi, má đâu có ngờ Trời Phật c̣n cho gia đ́nh ḿnh ngày hôm nay.

Người nằm dưới huyệt kia chính là ba con đó.

Quả lựu đạn ngày 23-3 đă giết ba và thằng Chưởng.

C̣n lại hai đứa đứng kia, thằng Tung, con Bi giờ đă lớn từng đó.”

Lệ quay ra ôm hôn đứa em gái và thằng em trai.

Chúng cũng xúc động nhưng không xúc động bằng má Lệ và Lệ v́ khi xẩy ra biến cố tan nát gia đ́nh, chúng c̣n quá nhỏ.





Bà Buôn hỏi Lệ :

“Con đeo tấm thẻ bài này 15 năm nay để đi t́m ba má và các em phải không ?”

“Dạ, đúng thế má.

Con đi t́m ba má và các em v́ con đâu biết ba đă hy sinh ngày hôm đó.”

Ruthie đứng ngó mấy mẹ con ôm nhau cũng xúc động nhưng trong ánh mắt cô đọc thấy những tia sáng hân hoan vô bờ của bạn và của mẹ của bạn.

Chuyến đi hoàn toàn thành công quá sức mong mỏi, cô lẩm bẩm.

Bốn thanh niên lại tiếp tục đào.

Họ cậy tấm nắp thiên.

Bộ xương người đen ś lơng bơng nước.

Ruthie nh́n thấy sợ quá phải đứng tránh ra xa.

Cô đă quen với xác chết trong các bệnh viện nhưng không phải là bộ xương đă rữa mục này.

Lần đầu tiên Lệ nh́n thấy bộ xương cải táng nhưng Lệ không sợ mà Lệ muốn đứng thật gần để nh́n cho rơ h́nh hài của người cha đă sinh ra ḿnh.

Khi má Lệ hỏi Lệ v́ sao biết mà vào đây.

Lệ thuật lại từ đầu tới cuối, v́ sao xe phải ngưng lại, bác tài xế phải đi kiếm nước đổ vào máy xe để đi tiếp v.v…

Bà Buôn thắp lên mấy cây nhang và hai ngọn nến trong khi mấy người đàn ông đổ rượu trắng ra cái chậu sành và rửa từng khúc xương cho sạch, lấy giấy bản lau khô xong xếp vào một cái tiểu sành mầu đất nung đỏ quạch.





Trong số người lo chuyện cải táng, có chú Năm thợ hồ có nhiều kinh nghiệm.

Chú vừa làm vừa chỉ dẫn cho mấy anh thanh niên làm. Chú nói:

“Tôi học nghề cải táng từ năm mới 16 tuổi mà năm nay đă 55, coi như 39 năm trong nghề mà tôi chưa thấy một vụ nào lại linh thiêng như Trung sĩ Buôn đây.

Nghe cháu Lệ vừa nói th́ cháu đă để tâm t́m ba má cháu nhiều năm nhưng không ra tung tích; đến bữa nay hồn thiêng Trung sĩ dun dủi làm cho chiếc xe hơi đang chạy ngon lành bỗng hết nước ở ngay khúc đường này, xe bốc khói xuưt cháy máy và từ đó cháu Lệ mới có cơ hội lặn lội vào cái g̣ này v́ tính ṭ ṃ và cũng v́ tính thương người, muốn giúp đỡ người nghèo.

V́ thế mà Trời Phật không bỏ cháu.”

Bác tài xế đă lặn lội đi xin được một b́nh nước đổ vào xe.

Thay v́ hai thanh niên phải khiêng chiếc tiểu sành, giờ này chiếc tiểu sành được bỏ lên xe, mọi người về nghĩa trang gần nơi cư ngụ của gia đ́nh bà Buôn.

Nghe Lệ kể sơ lược từ lúc được ba Nghĩa nuôi vớt lên tàu và được học hành ở Hoa Kỳ, hiện đă là một bác sĩ Nhăn khoa Hoa Kỳ, tiền bạc dư dă, tương lai sáng lạn, bà Buôn quá sung sướng lại khóc.

Bà chạnh ḷng nghĩ đến người chồng bạc phước đă chẳng được sống thêm để nh́n thấy sự thành công của đứa con gái ông yêu quư nhất đời.

Huyệt mộ cho cái tiểu sành đựng nắm xương của người cha bạc số của bác sĩ Vivian Le đă đào xong, nhỏ và nông nên đào rất nhanh.

Lần này nó không nằm trên g̣ đất chung quanh là sa mạc sỏi đá, cây cỏ hoang vu mà ở trong một nghĩa trang đẹp đẽ bên ngoài thành phố Nha Trang.





Khoảng 4 giờ chiều, mọi việc hoàn tất, bà Buôn, Lệ và hai đứa em của Lệ thắp hương, sụp quỳ, vái lậy, khấn khứa.

Lệ cố hết sức giữ cho khỏi quá xúc động nhưng khung ảnh trắng đen của cha Lệ trước mặt lúc nào cũng như đang nh́n Lệ âu yếm làm Lệ tràn nước mắt và cái ngày độc địa 23-3-1975, tại băi biển Chu Lai, lại hiện rơ mồn một như Lệ đang đứng sát bên cha Lệ, bám vào tay ông cho khỏi sóng đánh ra xa.

Nỗi buồn năm xưa dù chưa quên được nhưng hiện tại vẫn là đáng sống. Mẹ con bà Buôn đành phải khép lại trang sử đẫm máu của gia đ́nh và của xóm giềng, thân thuộc để xây dựng ngày mai tươi sáng hơn.

Lệ đă đưa tiền cho má và em đi chợ mua các thức ăn về làm một bữa cơm đăi đằng cḥm xóm và những người thân thuộc, trả công hậu hỉnh cho những người cải táng hôm đó.

Ai cũng tấm tắc khen sao lại có cái thần giao cách cảm đó để mà đến đúng chỗ, đúng lúc, gặp lại mẹ và em và nh́n được hài cốt của cha. Chuyện thực mà khó tin, xẩy ra như trong một giấc mơ.




Nhờ có nghề nghiệp cao và lợi tức vững vàng lại công dân Mỹ của Lệ, hơn hai năm sau bà Buôn và Tung, Bi đă đoàn tụ với Lệ ở Hoa Kỳ.

Bà Buôn lập một bàn thờ, một bên để di ảnh cuối cùng của thằng Chưởng khi nó 3 tuổi, một bên treo tấm thẻ bài, ở giữa bàn thờ là bát hương, có bài vị và di ảnh đen trắng của Trung sĩ Lê văn Buôn, người Chiến sĩ kiêu dũng VNCH đă hy sinh v́ Tổ quốc, người chồng, người cha thân yêu vẫn luôn luôn như đang mỉm cười với vợ và các con !

Đây là câu chuyện thật mà người viết đă lấy từ bài viết “Tấm Thẻ Bài”

ST

hoathienly19 11-03-2020 20:11

MỘT THỜI BINH LỬA Hạ Sĩ Nguyễn Văn Râng Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân VNCH
 

MỘT THỜI BINH LỬA

Hạ Sĩ Nguyễn Văn Râng

Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân VNCH



Vào một buổi tối, khoảng hơn 10 ngày sau ngày 30-4-75, lúc đó vào khoảng 7 giờ, v́ e ngại những bất trắc có thể xảy ra nên chúng tôi đă đóng cửa nhà từ lúc c̣n chạng vạng, bỗng có tiếng gơ cửa, vợ chồng tôi giật ḿnh ngó nhau.

Tôi quơ vội cây Colt 45 tôi vẫn c̣n giữ pḥng thân, mở khóa an toàn tôi ra dấu cho vợ tôi ra mở cửa, c̣n tôi định bụng nếu bọn du kích hoặc đám cách mạng 30 đến th́ e chuyện chẳng lành, nên đứng núp sau cái kệ ngăn giữa pḥng khách và pḥng ngủ, tay lăm lăm cây súng sẵn sàng phản ứng nếu thấy t́nh h́nh bất ổn sẽ phải hành động để thoát thân trước, rồi tới đâu th́ tới.

Vợ tôi cẩn thận hỏi trước :

– Xin lỗi ai đó ?

Giọng của một người xứ Quảng vọng vào :

– Chị, em là Cư đây.

Nghe tiếng nói có phần hơi quen, tôi im lặng tiến về phía cửa và ra dấu cho vợ tôi hỏi lại lần nữa.

Lần này tôi đă xác định rơ đúng là Cư người “tà lọt” của tôi lúc ở Tiểu Đoàn 52 BĐQ. Tôi kéo cái chốt cửa, Cư xuất hiện trong bộ đồ màu xám. Tôi giắt cây súng vào lưng, kéo nó vào nhà và đóng cửa lại.

Vợ tôi với nét mặt vẫn c̣n nghi ngại,
v́ sau ngày 30-4 không thiếu ǵ những kẻ trở cờ hèn hạ theo voi ăn bă mía, theo đóm ăn tàn, như trường hợp thằng Hạ Sĩ Như ở hậu cứ TĐ 36 và thằng Tư, anh em bạn rể với Thượng Sĩ Lê Viêm đă thấy đeo băng đỏ xuất hiện bên phường Tân Tiến và khu ḷ than, v́ ranh giới giữa hai phường là con đường QL1.

Mấy hôm trước bị bắt đi “lao động xă hội chủ nghĩa” vét cống dọc đường, tôi đă cố tránh không để chúng nh́n thấy, không phải v́ sợ chúng nó, mà sợ v́ ḿnh sẽ không chịu nổi cảnh dậu đổ b́m leo.

Tôi bắt đầu hỏi :

– Sao mày không về quê mà c̣n ở lại đây làm ǵ ?

– Em bị chúng bắt làm tù binh, bọn chúng đưa em về đây kéo dây điện thoại cho bọn chúng. Em xin phép đi thăm bà con để nhắn tin về gia đ́nh, em vừa lên hậu cứ t́m cậu em nhưng không c̣n ai ở trong khu gia binh. Em tạt vào đây để thăm gia đ́nh đại úy, gặp lại ông thầy là em mừng rồi.

Sau đó, nó kể lại cho tôi nghe sự việc nó bị bắt và sự kiện liên quan đến cái chết của Tr/u Vi Văn Đạt, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2/52,Tr/u Trần Vạn đại, Đại Đội Trưởng Đại Đội 4/52 và Hạ Sĩ Nguyễn Văn Râng.

Tưởng cũng nên ghi lại một phần tiểu sử của những anh hùng chưa được một lần biết đến.


Trung Úy Vi Văn Đạt,
Đại Đội Trưởng Đại Đội 2/52 xuất thân Khóa 25 Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam (Đà Lạt).

Chúng tôi cùng ở một địa phương và biết nhau khi c̣n đi học, nhưng không chơi thân với nhau.

Khi Đạt về TĐ 52 BĐQ, chúng tôi bắt đầu chơi thân, tôi thường gọi anh là Vi Tiểu Bảo, Đạt thay thế Tr/u Phú nắm đại đội trưởng khoảng cuối năm 73.





Trung Úy Trần Vạn,
Đại Đội Trưởng Đại Đội 4/52, xuất thân từ khóa đặc biệt ra trường năm 70, trước khi đi học khóa sĩ quan, anh là Trưởng Ban Quân Xa Tiểu Đoàn 36 BĐQ. Vạn từ Đại Đội 2 sang Đại Đội 4, làm đại đội phó cho tôi vào cuối năm 73, khi tiểu đoàn chuyển từ B́nh Long xuống Chơn Thành.

Tính t́nh anh điềm đạm ḥa nhă, anh có thể thích hợp trong vai tṛ của một sĩ quan hậu cứ hơn là một sĩ quan chỉ huy đơn vị tác chiến, khi tôi rời 52 đi học khóa bộ binh trung cấp vào giữa năm 74 th́ anh vừa thăng cấp trung úy và được đề cử giữ chức đại đội trưởng thay tôi.






Hạ Sĩ Nguyễn văn Râng thuộc ĐĐ 4/52,
Râng măn khóa tân binh tại Dục Mỹ và được bổ sung cho ĐĐ tôi tại Suối Đá, trước ngày nhảy lên tử thủ B́nh Long năm 72.

Sau "Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 ",
Râng được đặc cách binh nhất, rồi sau đó thăng hạ sĩ. Râng quê ở Gia Kiệm, nên tôi thường gọi đùa là “Bắc Kỳ Râng”




Theo lời Cư kể.


Khi bọn cộng phỉ tấn công Chơn Thành, chúng dùng chiến xa tấn công vào pḥng tuyến ĐĐ 4/52 đang pḥng thủ tại khu gia binh cũ trước mặt BCH/ Chi Khu.

Nhưng trước sự chống cự mănh liệt của đại đội dưới sự chỉ huy dũng cảm không ngờ của Tr/U Vạn, 4 xe tăng T-54 của bọn giặc cướp xâm lược từ phương bắc đă bị bắn cháy,
bọn cộng phỉ thất kinh và đă phải t́m đường khác bọc ṿng xuống hướng Nam, chuyển mũi tấn công vào BCH/CK và BCH/LĐ3/BĐQ.

Khi được lệnh triệt thoái, Đại Đội 4 giữ nhiệm vụ đoạn hậu đă rút về hướng Đông, đến Nha Bích rồi, từ đó trực chỉ hướng Nam bảo vệ phía sau cho BCH/TĐ và BCH/LĐ.

Dọc đường bị lũ giặc cướp xâm lược chận đánh tại nhiều nơi, Trung Úy Vạn đă bị thương nặng, Cư đă cơng Vạn được gần trăm thước, nhưng vẫn bị bọn địch bám sát.


Khi ngang qua một bụi cây th́ phát hiện Trung Úy Đạt cũng bị thương đang nằm ở đó. Thấy Cư cũng đă đuối sức Trung Úy Vạn lệnh cho Cư bỏ anh lại cạnh Trung Úy Đạt và yêu cầu để lại cho anh mấy trái lựu đạn.


Thấy ông thầy đă quyết định như vậy, hơn nữa anh cũng không c̣n đủ sức, nên Cư đành để ông nằm lại, sau khi để lại mấy trái lựu đạn anh cũng không quên để thêm bịch gạo sấy và dặn ḍ:

– Hai Trung úy cứ nằm yên giả chết, đừng động đậy, hy vọng chúng không phát hiện. Thôi ông thầy ở lại em đi.

Nói xong, anh gạt nước mắt rồi gắng sức vùng chạy. Chưa đầy hai phút sau, anh nghe có nhiều tiếng lựu đạn nổ phía sau, cùng nhiều tiếng hét hăi hùng vọng lại.





Anh chạy được hơn trăm thước nữa th́ anh bị bọn giặc cướp đông đảo bao vây, đành phải buông súng đầu hàng.

Sau khi bị lănh mấy báng sung vào người, bọn chúng bịt mắt anh lại rồi dắt đi, thỉnh thoảng anh lai nghe tiếng léo nhéo của đám cộng phỉ miền Bắc và số tù binh th́ dường như lại đông hơn. Chúng dùng dây trói hai người làm một để cho khó trốn chạy rồi dẫn đi.

Trên đường đi Cư nghe thấy mấy tên giặc cướp cộng phỉ nói với nhau:

– Đm, cái quân Biệt Động ngụy Sài G̣n này ngoan cố vô cùng, hai thằng trung úy bị thương gần chết vậy mà chúng c̣n ngoan cố dùng lựu đạn chống cự khiến mấy đồng chí của ta bị hy sinh. Chúng lại c̣n tự cho nổ tan xác, đ.m đúng là bọn ngoan cố phản cách mạng.


Nghe chúng nói vậy Cư biết là cả hai ông Trung Úy đă hy sinh, chẳng c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Khi đến đồn điền cao su Minh Thạnh th́ chúng cho dừng lại nghỉ, v́ đă vào vùng an toàn của bọn chúng, nên chúng cho người gỡ miếng vải bịt mắt ra.

Sau vài phút điều tiết cho mắt quen với ánh sáng, Cư nhận thấy có khoảng hơn ba chục anh em gồm cả BĐQ và ĐPQ; trong số này có hơn chục anh em thuộc TĐ 52 và có cả thằng Râng cùng đại đội, anh ra dấu đă nh́n thấy nó.

Cho đến khi trời sụp tối bọn cộng phỉ dồn các anh em lên một chiếc xe tải. Đến khoảng nửa đêm, chúng đổ bọn anh xuống một khu rừng đă bị phá nát v́ bom đạn, một vài căn nhà tranh vừa mới được dựng lên, chúng lùa bọn anh vào hết một căn, rồi gác ở bên ngoài.

Sáng hôm sau, chúng cho bọn anh biết đây là Kàtum, bọn anh đựoc lệnh dọn dẹp cây cối ngă đổ, đốn cây, cắt tranh, dựng lán trại, ngoài ra c̣n có những buổi phải học chính trị,sinh hoạt kiểm điểm hàng đêm, thấm thoát đă hơn một tháng, đốn cây san đất đă phồng tay, học tập chính trị đă chai mắt cá chân.

Hôm 30/4/75,
sau khi Dương Văn Minh tuyên bố bàn giao th́ chúng tập họp bọn anh lại, một tên sĩ quan cộng phỉ mặt vênh váo, giọng sắt máu, lố bịch, tởm lợm và vô văn hóa lên tiếng:

– Tôi báo cho các anh biết ngụy quyền miền Nam của các anh đă hoàn toàn sụp đổ. Thằng Thiệu, thằng Kỳ đă trốn đi nước ngoài, thằng Tổng Thống Minh đă đầu hàng, các anh khôn hồn th́ đừng có ngoan cố tiếp tục chống phá cách mạng, hăy ngoan ngoăn học tập lao động cải tạo, rồi cách mạng sẽ khoan hồng cứu xét cho về đoàn tụ với gia đ́nh, bằng không sẽ bị cách mạng trừng trị thẳng tay, các anh nghe rơ chưa ?

Tên thổ phỉ gằn giọng vào những tiếng cuối cùng, hàm ư đe dọa rồi nhếch miệng cười đểu cáng, kệch cỡm, mang vẻ đắc thắng.





Cả nhóm anh em tù ngồi im lặng buồn bă, tai Cư lùng bùng.

Thế là hết, hết thật rồi, không c̣n trông mong ǵ lính ḿnh đến giải cứu, rồi đây không biết số phận ḿnh sẽ bị bọn chúng định đoạt ra sao?

Nhưng bỗng có một tiếng la “Chưa !” thật lớn ở phía sau hàng. Tên sĩ quan cộng phỉ hét lớn một cách tức tối.

– Anh nào đó đứng lên !

Mấy tên vệ binh đứng chung quanh hùng hổ súng chĩa vào phía những tù binh như chúng sẵn sàng xuống tay tàn sát. Có một người đứng bật dậy đó là thằng Bắc Kỳ Râng đang chững chạc hét lên như dồn mọi căm hận lên đầu bọn cộng phỉ:

– Địt mẹ chúng mày, tao có gọi hồ chí minh của chúng mày bằng thằng đâu mà chúng mày gọi Tổng Thống của tao bằng thằng, gọi chúng tao bằng ngụy, ngụy cái con cặc bố !





Không để Râng nói thêm, ba bốn thằng vệ binh xông vào dùng báng súng đập túi bụi vào đầu vào ngực nó cho đến khi nó đau đớn khụy xuống. Tên sĩ quan cộng phỉ điên cuồng hét lên :


– Lôi cổ thằng ngụy phản động ra ngoài kia xử bắn, c̣n mấy thằng này chúng mày chống mắt lên nh́n cách mạng trừng trị bọn phản động mà lấy đó làm gương !

Ngay lập tức, Râng bị bọn vệ binh kéo lê trên mặt đất bắt đứng lên bên cạnh cái hố bom cách chỗ anh em tù khoảng hơn hai mươi thước. Râng đă bị đánh đau nên không c̣n đủ sức đứng lên nổi nữa, nó lại đổ khụy xuống, nhưng đầu vẫn ngẩng lên hướng anh mắt căm hờn về phía bọn giặc cướp cộng phỉ xâm lược, miệng nở một nụ cười hiên ngang ngạo nghễ.

Tên sĩ quan cộng phỉ càng điên tiết hơn. nó hô to “bắn”, ba bốn con dă thú khát máu thi nhau nă đạn vào người Râng và vừa bắn, chúng vừa đua nhau cười sằng sặc một cách man rợ.





Sau đó, chúng ra lệnh cho anh em tù mang xác Râng đi chôn mà không một miếng vải nhựa quấn thân.
:112:

Nói đến đây, Cư dừng lại khóc, vợ chồng tôi cũng khóc theo, rồi nó sụt sùi kể tiếp:

– Em là đứa được đi chôn nó. Đạn bắn nát đầu và ngực nó không biết bao nhiêu viên mà kể, nhưng mắt nó vẫn mở trừng trừng, em cố vuốt cho nó mấy lần mà nó không chịu nhắm !




Nghe nó nói đến đây, ḷng tôi bỗng chùng xuống, tôi thầm nhủ “ Râng ơi !

Trước kia tao là ông thày của mày, nhưng bây giờ th́ mày đáng là thày tao. Tao thua mày xa, mấy ngày nay mấy thằng du kích và đám cách mạng 30 chửi tao, nhục mạ tao, mà tao cũng không dám hé môi, không có một phản ứng ǵ. Cởi bộ quần áo lính ra tao trở thành thằng hèn, tao không c̣n là tao của hơn mười ngày trước đây nữa, Râng ơi!”

Tôi hỏi Cư:

– Thế nó không sợ mày trốn hay sao mà nó cho mày đi tự do như thế này ?

– Trốn đi đâu bây giờ đại úy, em không miếng giấy lận lưng, không một đồng dính túi, quê em th́ ở tuốt Điện Bàn, Quảng Nam, người ḿnh cũng nhiều mà việt cộng cũng lắm, lỡ trốn đi mà nó bắt lại được nó xử tử liền.

Thây kệ bao giờ nó thả th́ em sẽ liệu t́m đường về quê, em c̣n má và hai đứa em ở ngoài đó, chắc bả và tụi nó mong tin em hung lắm. Em ghé đây gặp được đại úy thấy ông thày c̣n sống là em mừng rồi. Ông thày liệu trốn đi đâu được th́ trốn đi, bọn chúng không tha cho ông thày đâu, thôi em xin phép ông thày và chị em đi.

Tôi ôm vai nó lắc mạnh:

– Ừ thôi mày đi, thày tṛ ḿnh có lẽ chẳng có ngày c̣n gặp lại nhau nữa đâu, cẩn thận và ráng giữ ǵn sức khỏe.

Tôi nói vợ tôi lấy cho nó một chai nước mắm, một cái muỗng và năm ngàn đồng.

– Cầm lấy những cái này cho tao vui, may mà bà già vừa cho ít tiền để sống cầm hơi. Tao cũng cám ơn mày đă lo lắng cho tao trong thời gian qua.

Vợ chồng tôi tiễn nó ra cửa, cả hai thày tṛ nước mắt đầm đ́a.





Sáng hôm sau, tôi đi bộ sang nhà của Vi Văn Đạt, định nói cho mẹ nó hay là Đạt đă hy sinh, nhưng không hiểu sao khi tới nơi tôi lại đổi ư và chỉ hỏi bà:

– Bác có được tin ǵ của Đạt không?

Bằng giọng của người dân tộc Nùng bà nói:

– Thím có được tin ǵ đâu. Chỉ có tháng trước có ông Trung Sĩ Toàn đến cho thim biết là em Đạt nó bị mất tích ǵ đó thôi, giờ th́ thím buồn quá đâu biết hỏi ai nữa, chỉ biết van vái ông Trời cho em nó bằng an trở về.
Nói xong, bà lại sụt sùi khóc.

Tôi lặng lẽ chào bà rồi về v́ e nấn ná lại tôi sẽ không chịu nổi, sẽ phải nói ra, không biết việc làm của tôi có đúng hay không, nhưng lúc đó tôi nghĩ rằng hăy để bà sống trong hy vọng, dù chỉ là hy vọng mong manh, c̣n hơn là tuyệt vọng.





Tôi cũng đi xuống dưới Biên Ḥa t́m nhà Trần Vạn, trong khu gia binh Trần Công Ngọ, nhưng mọi người đă bị bọn giặc cướp từ phương bắc đuổi ra để chúng cướp nhà, không biết vợ con anh trôi dạt nơi nào.






Hôm nay, nơi đất khách quê người, với thân phận tên lính già sau những năm tháng tù đày lao động khổ sai trong nhà tù cộng phỉ và lưu lạc, ngồi viết lại cái chết dũng cảm của các anh, như một nén hương ḷng tưởng niệm đến đồng đội, một khúc chiêu hồn tử sĩ để truy điệu các anh, những người đă hơn một lần cùng tôi chia sẻ vui buồn đời lính, đă cùng tôi một thời lao thân vào lửa đạn, [/b]mang trong tim hoài băo cao đẹp Bảo Vệ Tự Do Cho Đồng Bào và Sự Toàn Vẹn Cho Quê Hương.[/b]





Mũ Nâu Đoàn Trọng Hiếu

Viết theo lời kể của Binh Nhất Nguyễn Văn Cư Đại Đội 4, Tiểu Đoàn 52 BĐQ

hoathienly19 11-06-2020 08:04

LẦN ĐẦU THẤY QUẠT ĐIỆN LẦN ĐẦU THẤY QUẠT ĐIỆN
 

LẦN ĐẦU THẤY QUẠT ĐIỆN :animated-applause-s





hoathienly19 11-13-2020 19:13

"NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN " !
 

"NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN !


Từ Fb một cựu tù cải tạo - Ng Nguyen

Phải đọc để thấy sự độc ác của cộng sản đối với Cha / Anh trong Quân Lực chúng ta khi găy súng
:112:


Trên chuyến tàu Sông Hương chở tù cải tạo từ Nam ra Bắc năm 1976, vừa cặp bến là tù bị dân MB dàn chào ném đá, gậy gộc phang thẳng tay, chủi rủa thậm tệ.


Chỉ vài năm sau trong những lần chuyển trại, và trên đường xuôi Nam, dân MB ném lên xe tù đồ ăn, thức uống, thuốc lá . V́ sao vậy ?

Xin kính mời quư vị và quư bạn đọc đoạn hồi kư "Người Ở Lại Hoàng Liên Sơn".

Tưởng nhớ và tri ân Chiến Sỹ Lê Xuân Đèo.


==========


Trên bước đường lưu đày của những người tù chính trị Miền Nam đầy máu và mồ hôi trên chính quê hương của ḿnh, đă có bao nhiêu người “sinh Nam tử Bắc” và trong số nầy có anh Lê Xuân Đèo là cánh chim ĺa đàn rất sớm.





Giữa tháng 10 năm 1976. Một nhóm tù chính trị Miền Nam khoảng 100 người, từ nhà tù Sơn La lâu đời, nằm trên vùng núi cao đèo heo hút gió của tỉnh Sơn La, phía bắc giáp Yên Bái - Lào Cai, phía tây giáp Lai Châu, phía đông giáp Phú Thọ - Ḥa B́nh, phía Nam giáp Lào, chúng tôi được di chuyển về Hoàng Liên Sơn (Nghĩa Lộ) và tôi gặp anh bạn tù Lê Xuân Đèo tại Trại 6, Liên trại 2, một vùng núi non hiểm trở có cái tên thật mộng mơ :

“ Khe Thắm ” thuộc huyện Văn Chấn.

Khe Thắm là một thung lũng nhỏ hẹp, nằm giữa hai dăy núi trùng điệp. Trại 6 gồm có bốn lán, dựa lưng vào dăy núi bên nầy, bên kia thung lũng là một bản Thái Trắng gồm mươi căn nhà sàn, dưới gầm nhà sàn là chuồng nhốt trâu ḅ. Chỉ có một con đường độc đạo vào Trại 6.

Về sau, khi chúng tôi chuyển sang trại khác, trại nầy được sát nhập vào nông trường Bản Hẻo. Dạo chúng tôi vừa chuyển đến, dân làng đă cấy xong vụ lúa Đông - Xuân.

Trong thung lũng Khe Thắm, mạ non lên xanh phơi phới.





Ngay khi vừa mới đến trại, chúng tôi được phát ngay mỗi người hai bộ đồ rằn ri của binh chủng Biệt Động Quân, thế nầy là hết hy vọng trốn trại! Riêng tôi vớ phải cái quần rộng thùng th́nh.

Công tác đầu tiên là đào thủy lợi để dẫn nước từ một con suối gần đó vào ruộng lúa. Tôi và Lê Xuân Đèo ở chung lán 3, c̣n Trương Đăng Sĩ ( người chỉ huy 2 Đại Đội SĐND đă đánh vào tới chân tường Cổ Thành Quảng Trị năm 1972 ) ở lán 4.

Mùa đông năm 1976
là một mùa đông với cái lạnh khắc nghiệt, lạnh thê thảm chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam.

Có nhiều đêm, hàn thử biểu rơi xuống chỉ c̣n một độ bách phân, mặt nước ao hồ đóng váng, cá chết hằng loạt v́ lạnh.

Tuy củi rừng nhiều vô số kể, nhưng bọn cán bộ cấm tù cải tạo đốt ḷ sưởi v́ sợ cháy lán trại ?

Nửa đêm về sáng, chúng tôi phải thức dậy ngồi đâu lưng hoặc nằm sát vào nhau cho ấm.
:112:

Bản Thái bên kia thung lũng, dân làng phải đốt rơm hoặc củi để sưởi ấm gia súc.

Làm thân trâu ḅ c̣n sướng hơn tù cải tạo là cái chắc ! Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi cũng lôi hết ra mặc, nhưng không sao đủ ấm v́ cái lạnh cắt ruột từ trong xương lạnh ra.
:112:

Đi tắm vào mùa đông đối với tù cải tạo là một h́nh thức tra tấn.

Mỗi tuần, tôi chỉ ra bờ suối tắm giặt một lần vào xế trưa chúa nhật, sau khi ngồi trước sân phơi nắng hàng giờ cho ấm.

Ngồi bên cạnh tôi là Nguyễn Minh Thanh vừa phơi nắng vừa ngâm thơ “Tao Đàn” đói thấy mẹ mà hắn c̣n làm thơ được thế mới tài.

Nếu như chiều chúa nhật nào rơi vào ngày mưa là xin hẹn lại tuần sau...mới đi tắm. Như vậy là đạt tiêu chuẩn nếp sống “văn minh, văn hóa mới” lắm rồi !





Hầu như lề lối sinh hoạt của tất cả trại tù cải tạo thuộc đoàn 776 do bộ đội csbv quản lư đều giống như nhau.


Sau một ngày ăn đói, thực phẩm chính là khoai, sắn, bo bo, bắp hột mà mỗi khẩu phần của người tù đếm được khoảng 700 hột và lao động khổ sai 10 tiếng một ngày kể cả lúc trời mưa băo. Và mỗi tuần chỉ được nghỉ nửa ngày chúa nhật để tắm giặt.





Tối đến là giờ sinh hoạt chính trị, “ngồi đồng” hằng giờ ngay trên chỗ ngủ để nghe đọc báo “Nhân Dân” hoặc “Quân Đội Nhân Dân”, những loại tin tức dùng để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và chế độ ưu việt xă hội chủ nghĩa.

Sau khi nghe đọc báo là phần bắt thăm nhận công tác lên rừng đốn đủ loại gỗ :


- Gỗ làm cột nhà

- Gỗ làm đ̣n tay

- Gỗ làm kèo nhà...và một toán chặt nứa dùng để lợp mái nhà.

Gỗ và nứa từ trên rừng kéo về tập trung trên một băi đất trống bên cạnh con suối dưới chân núi, cán bộ quản giáo của đội đến kiểm nhận vào mỗi buổi chiều. Sáng hôm sau, toán thợ mộc vác về xưởng mộc cưa, đục, đẽo... để dựng nhà.





Lê Xuân Đèo thường đổi công tác với những anh em khác để cùng đi rừng với tôi, v́ cải thiện linh tinh để mưu sinh là nghề của chàng.

Hắn rất chịu những phi vụ táo bạo của tôi. Hắn là dân Nha Trang, lúc b́nh thường th́ giọng nói dễ nghe, nhưng lúc khẩn trương, nghe lời hắn là một tai họa khó lường...

Bên kia thung lũng, đối diện với trại 6 là dăy nhà sàn của dân tộc thiểu số Thái Trắng.





Tụi cán bộ quản giáo hoặc quản chế thường hù dọa là đồng chí “Bí thư xă” có vũ trang súng trường AK47.

Phía sau dăy nhà là ruộng mía và hằng ngày nó trở thành mục tiêu đầy sức hấp dẫn và cám dỗ nhưng cũng rất nguy hiểm.

Những lần chúng tôi qua dăy núi bên kia đốn nứa, chỉ tiêu một ngày là 100 cây với tiêu chuẩn :


- Phải là nứa già, thẳng đốt, chiều dài từ 3 thước trở lên, sau khi vạt bỏ ngọn. Thường th́ buổi sáng đốn xong, bó lại từng bó 20 cây, giấu đâu đó ở trên rừng.

Giờ lao động buổi chiều, chỉ lo việc chuyển về trại.. Những cây nứa được mấy anh bạn tù cao niên, chặt khúc và đập giập ra để lợp mái nhà.

Một ngày trên đường vác mấy bó nứa chuyển về trại.. Chúng tôi ngồi nghỉ mệt bên ḍng suối vắng. Đèo nh́n qua đám ruộng mía, sau dăy nhà sàn bên kia ḍng suối, hắn thèm đến nhỏ dăi, trông thật tội nghiệp. Hắn nói :

- “ Ê, mầy ! Không biết lúc nầy, bỗng dưng tao thèm ngọt quá trời ! Từ ngày di chuyển ra miền Bắc đến giờ, gần cả năm trời tao chưa hề thấy cục đường tán nó tṛn, nó méo ra làm sao ! Tao chịu hết nổi rồi nghe mậy,”






Đèo tiếp :

“ Thôi, mầy ngồi ở đây chờ tao !” Tôi hỏi:

- “ Vậy chớ, mầy định đi đâu ?” Hắn vừa trả lời, vừa nuốt nước bọt ừng ực :

- “Qua bên kia ruộng mía, chặt vài cây, chia nhau ăn đở thèm ! Mầy c̣n phải hỏi lôi thôi !” Nghe hắn nói, tôi cười ngất, nói :

- “ Thôi đi cha nội ơi! Coi bộ tướng của mầy ḱa ! Ốm nhom, ốm nhách như con c̣ng gió, rủi ro bị họ bắt gặp, mầy làm sao chạy cho thoát ? Nếu họ có súng hoặc nỏ là mầy chết chắc !”

Đèo quả quyết nói:

- “Tao đă nghiên cứu kỹ lưỡng t́nh h́nh rồi ! Trong nhà không có đàn ông mà chỉ có một người đàn bà. Tao c̣n biết chắc, giờ nầy bà ta trên đường đến trường, đón con đi học về nhà. ” Tôi nghi ngờ, hỏi :

- “ Sao mầy biết chắc chắn như vậy chớ ?”

- “ Mầy nhớ không ? Xế trưa hôm qua, lúc tụi ḿnh trở qua đây, vác mấy bó nứa về trại.. Tao thấy bà ta dẫn con đi học vừa về tới nhà !”

- “ Phi vụ nầy mầy lo hay để tao ?” tôi hỏi. Đèo nói, giọng quả quyết:

- “ Mầy nhát bỏ mẹ! Phi vụ nầy mầy để tao lo ! Mầy ngồi đó chờ tao !” Tôi cười, nói :

- “Thôi được rồi, cha nội ! Vụ chôm chỉa nầy mầy để tao lo ! Cứ ngồi đó canh chừng. Hễ nghe động tỉnh ǵ th́ la báo động cho tao biết để tao chuồn !”






Nói xong, tôi đứng lên, đi một mạch ra bờ suối, xăn ống quần lên khỏi gối, tay cầm con dao dùng để chặt nứa, lội băng qua ḍng suối. Tôi hành quân theo đúng bài bản, lính bộ binh mà.

Trước hết, tôi bám lấy bờ suối, ngẩng đầu lên quan sát trận địa, thấy bên trong ruộng mía hoàn toàn yên tỉnh, tôi trườn sâu vào trong, giữa hai giồng mía.

Tôi chọn một thật thẳng, tṛn mập, vỏ màu vàng hực thật hấp dẫn, lia một nhát, cây mía đổ xuống. Tôi đứng lom khom, vừa vạt ngọn mía xong. Bỗng tôi nghe hắn la bài hăi bên kia ḍng suối :


- “Chờ tớ ! Chờ tớ ! Chờ tớ...”

Tưởng hắn đ̣i lội qua suối, tôi bèn đứng thẳng người lên, lấy cây mía vẹt lá rồi nh́n qua bên kia bờ suối. Tôi thấy hắn nhảy dựng lên như khỉ mắc phong, tay chỉ chỏ về phía tôi thật khẩn trương. Hắn tiếp tục gào lên:

- “Chờ tớ ! Chờ tớ...”

Tôi thiệt bực ḿnh, cầm cây mía đưa lên khỏi đầu, nói lớn :

- “ Xong rồi ! Qua làm ǵ chớ ! Thôi, ngồi đó chờ tao !”


Nhưng, hắn vẫn tiếp tục gào to hơn nữa. Và lần nầy, tôi nghe cái giọng Nha Trang của nó thật rơ ràng:

- “ Chó tới ! Chó tới....”

Thôi bỏ mẹ rồi ! Bây giờ tôi mới hiểu ra là
“ Chó tới !” chớ không phải “ Chờ tớ !” th́ đă muộn..

Một con chó vện to lớn dùng để đi săn, xồng xộc lao tới và chỉ c̣n cách tôi vài mươi thước.

Tôi thật sự hồn vía lên mây, quăng dao, quăng luôn cây mía, bỏ của chạy lấy thân, phóng như bay về phía bờ suối...Nhưng, con chó vện nhanh hơn tôi một bước, nó nhảy chồm lên, phập trúng cái đáy quần, gh́ lại làm tôi té nằm xấp xuống đất . Hai cái răng nanh bén nhọn của nó đă xuyên thủng đáy quần.

Con vện gầm gừ, mơm của nó gh́ chặt lại, giằng xé như muốn lôi tuột cái quần của tôi ra thế mới khiếp ! Cũng may, nhờ trời thương mấy thằng tù cải tạo ốm đói. Chúng tôi phải chôm chỉa để mưu sinh. Nếu hai cái răng nanh của con vện nhích lên vài phân định mệnh nữa th́ bây giờ tôi đă trở thành quan “thái giám” là cái chắc !!!! Tôi thét lên, cầu cứu:

- “Tao bị con chó vện táp trúng rồi Đèo ơi! Cứu tao với...”


Đến giờ phút nầy mà hắn c̣n hỏi đùa được:

- “Trúng chỗ nào vậy cha?”


Tôi bực quá thét:

- “Nó táp lủng đáy quần rồi, tao bị nó gh́ lại, không chạy được!”


- “Chỉ táp trúng đáy quần thôi hả ?” hắn mách nước.


- “ Tụt quần ra, vọt cho lẹ, thằng mắc dịch !”


Thôi th́ cùng tất biến, biến tất thông! Tôi ḷn tay xuống hàng nút quần, cởi thật nhanh hàng nút. Nhờ cái quần rộng thung th́nh, con vện tụt cái quần thật dễ dàng, một chân nó chận cái ống quần, đầu giằng mấy cái thật mạnh để cái quần vuột ra khỏi cái răng nanh.

Tôi chỉ chờ có thế, vừa rút chân ra khỏi cái quần rằn ri là tôi phóng như bay về phía hàng cây bên bờ suối, chỉ cách đó mươi thước.

Tôi trèo lên cây nhanh như con sóc, chưa bao giờ tôi leo trèo nhanh như vậy.. Thế là thoát nạn !

Con vện phóng ḿnh lên cây mấy lần, nhưng lần nào nó cũng bị té đau. V́ thế nó tức tối, ngồi bệt xuống đất, nghểnh mơm nh́n lên một cách hậm hực; thỉnh thoảng, nó le cái lưỡi dài thượt liếm mép.

Tôi phải lấy vạt áo che lại phần khẩu súng nước phía dưới , sợ nó nh́n thấy “thịt tươi” thèm nhỏ dăi tội nghiệp !!

Đứng trên cây nh́n xuống mới thấy rơ h́nh thù con vện, màu lông hơi vàng và có vằn như da cọp, trên lưng có xoáy như giống chó hoang dă ở Phú Quốc. Hèn chi nó dữ dằn quá là phải!





Thú thật, trong suốt 13 năm quân ngũ, vui buồn đời lính bộ binh, đôi giày saut của tôi đă từng chà nát lên các mật khu lừng danh của Việt Cộng ở Miền Tây từ Thất Sơn, Mỹ An, Sầm Giang, Năm Căn, Cái Nước...nhưng chưa có lần nào tôi phải bỏ chạy “té khói” như lần nầy. Kể ra th́ cũng nhục thật đó !

Tôi đứng trên cây, trợn mắt nh́n nó, rủa thầm trong bụng :

“ May cho mầy, nghe đồ chó vện ! Nếu mầy gặp tao ba năm về trước là tao vặn họng mầy, làm thịt chó bảy món nhậu chơi !”


Thế mới biết, chỉ sau một thời gian ngắn, cái gọi là “lao động cải tạo”, con chó vện đối với tôi bây giờ nó đă trở thành “con cọp”. Nhưng mà thôi, tránh cọp chẳng xấu mặt nào !

Nh́n thấy con chó vện đang nhe nanh vuốt, hầm hừ dưới gốc cây, Đèo đứng bên kia bờ suối, nói lớn :

- “ Mầy cứ đứng ở trên cây chờ tao qua! Đừng có tuột xuống !”


Vừa nói, hắn vừa xăn quần lên khỏi gối. Thấy hai ống quyển khẳng khiu của hắn, tôi nản ḷng hết sức. Hắn có vẽ muốn lội qua suối cứu bồ thật, tôi lật đật can:

- “Thôi đi cha nội ! Cứ ở yên bên đó đi ! Tao nhảy xuống suối, lội qua bển được rồi mà !”


Hắn đáp có vẻ rất tự tin:

- “ Mầy yên trí đi ! Tao có cách trị con vện nầy cho mầy coi !”


Tôi miễn cưỡng nói :

- “ Thôi được, mầy có tài ǵ thi thố cho tao coi !”


Con vện thấy hắn đang lội b́ bơm, băng ngang qua ḍng suối. Nó rời gốc cây, đứng chực trên bờ suối, sẵn sàng vồ hắn. Đèo đứng dưới suối, hai tay chống nạnh, vẻ mặt tỉnh bơ.

C̣n con vện nh́n hắn lườm lườm, chân sau quào dưới đất cát rào rào trong tư thế chuẩn bị vồ mồi. Tôi thấy c̣n phát ớn xương sống. Nhưng, Đèo chẳng nao núng chút nào cả thế mới là lạ.

Bất ngờ, hắn huưt sáo miệng bản nhạc “bác cùng chúng cháu hành quân” một cách ung dung.

Con chó vện vừa nghe âm điệu phần mở đầu của bài hát :

Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận... nó lầm tưởng hắn là phe ta nên bỏ hẳn thái độ thù nghịch, ngoe nguẩy cái đuôi, chờ welcome “đồng chí Đèo” !!!!






Mẹ kiếp! Sống ở miền Bắc XHCN nầy, đến con chó c̣n bị tuyên truyền mê hoặc đừng nói chi là con người.
Đèo leo lên bờ, hắn vỗ đầu con vện, vuốt đầu nó mấy cái. Đồng chí vện chồm lên, vật ngă hắn xuống rồi liếm cùng mặt.

Thế rồi, người tù cải tạo và “ đồng chí vện ” ù kết thành đôi bạn sống chết có nhau từ dạo đó ! Hắn ôm chặt con vện cho tôi leo xuống. Tôi vội vă lủi vô ruộng mía, lấy quần mặc vào rồi đi kiếm con dao và cây mía. Hai đứa tôi lội trở qua bên kia bờ suối, con chó vện cũng lội suối qua theo. Ngồi dưới bóng cây chia nhau từng lóng mía.

Tôi chỉ ăn 2 lóng, phần c̣n lại của hắn v́ Đèo thèm ngọt. C̣n tôi, tôi thèm thứ khác hấp dẫn hơn nhiều :

“ Thịt! Thịt ! Thịt !”...

Tôi nh́n con vện, tưởng tượng đến dĩa “rựa mận” đang bốc khói, làm tôi thèm đến nhểu nước miếng.

Bất chợt, con vện ngước lên nh́n tôi. Bốn mắt lườm nh́n nhau....tóe khói; h́nh như, cái giác quan thứ sáu của nó, nh́n thấy ư đồ bất chánh của tôi và báo cho nó biết rằng:

“ Coi chừng thằng cha tù ốm đói nầy, hắn sẽ thịt ḿnh đấy !”


V́ vậy, con chó vện chỉ quấn quít bên cạnh anh Đèo và lúc nào cũng đề cao cảnh giác với tôi. Cứ mỗi lần tôi xáp lại gần, định làm quen là nó đứng dậy đi chỗ khác chơi và nh́n tôi với tư thế sẵn sàng chiến đấu.





Cách đây ba hoặc bốn tháng ǵ đó. Tên thiếu tá Khoát – trại trưởng – có tuyên bố một câu làm cả trại hồ hởi, phấn khởi :

“Trại ta có kế hoạch nuôi lợn, cung cấp thịt tươi, cải tổ bữa ăn để các anh có đủ sức thâm canh, tăng năng suất, chuẩn bị trồng sắn đại trà.”

Thế là cả trại thi đua vào rừng đốn gỗ dựng trại chăn nuôi. Và chỉ trong ṿng hai tuần lễ, ba cái chuồng nuôi lợn được cất xong bên cạnh bờ suối, đối diện với nhà bếp của ban chỉ huy trại.

Nhưng, tên Quang chỉ mang về một cặp heo mọi, bụng ỏng, đít teo, mỗi con cân nặng khoảng 5 kí là cùng. Thế là, một anh bạn tù cao niên ở lán 2 được giao cho nhiệm vụ “chăn lợn”..





Mỗi ngày, anh có nhiệm vụ mang một cái sô vào nhà bếp cán bộ trại, gặp tên trung sĩ Kây để nhận cơm thừa, canh cặn mang về chuồng nuôi lợn. Không biết nuôi heo bằng cách nào mà cặp heo mọi càng ngày càng gầy nhom.

Ngược lại, trông anh càng ngày tṛn trịa ra !! Đêm hôm kia, chuồng nuôi lợn xảy ra chuyện rùng rợn, khó tin nhưng có thật là hai con heo mọi bị bầy chuột rừng moi ruột cho đến chết. Nhờ vậy, trưa hôm sau, cả trại được ăn cơm trắng với thịt heo kho với nước muối.

Gần 2 tháng nay, chúng tôi mới được ăn một chén cơm trắng và một miếng thịt heo to bằng hai lóng tay út, cho đến bây giờ miệng tôi vẫn c̣n tḥm thèm thịt tươi. Và tôi đang nghĩ kế hoạch thịt con vện...

Chúng tôi lần lượt chuyển hết mớ nứa về trại, con vện đưa hai đứa tôi đến tận cổng trại. Và từ đó, nó trở nên người bạn trung thành với anh Đèo.

Sáng nào nó cũng nằm chờ trong buị cây gần cổng, rồi lẽo đẽo theo chúng tôi vào tận rừng sâu đốn gỗ. Có mấy lần tôi định thịt nó, nhưng Đèo cương quyết ngăn cản. Hắn nói:

- “ Mầy muốn thịt con vện nầy th́ phải bước qua xác chết của tao !”






Nửa năm sau đó, những dăy nhà khang trang bằng gỗ được dựng lên chung quanh ban chỉ huy trại 6 đều do công sức của những người tù cải tạo. Nhưng, gỗ và nứa càng ngày càng khan hiếm, chúng tôi càng phải đi xa hơn, có khi phải đi băng qua thung lũng phía sau trại, lội vào khu rừng già dưới chân núi bên kia, gần nông trường Bản Hẻo để kiếm gỗ.

Thế rồi một hôm. Lần đầu tiên chúng tôi đi theo con đường ṃn băng qua thung lũng vào lúc hừng đông sáng để kiếm gỗ làm đ̣n tay.

Khi những tia nắng ban mai mỏng manh, màu vàng nhạt, như cố xuyên thủng làn sương mai trắng đục bao phủ cả khu rừng, nắng tạo thành những chùm ánh sáng lung linh, huyền ảo. Hai đứa tôi lặng lẽ tiến khá sâu trong khu rừng rậm rạp, cây cối hoang vu, c̣n con vện biến đi đàng nào không biết.

Tiếng suối chảy róc rách khi len lỏi qua những gềnh đá rong rêu, ḥa cùng muôn ngàn tiếng hót líu lo của bầy chim rừng, trổi lên bản hợp tấu đầy sức quyến rũ của núi rừng Tây Bắc, thoang thoảng đâu đây mùi hương nhẹ nhàng tỏa ra từ những đóa phong lan, nép kín sau những thân cây cổ thụ, pha lẫn mùi hăng hắc của lá rừng ẩm mốc.

Tiếng gió lướt trên những tán cây rừng xào xạc, mang theo cái lạnh tái tê từ dăy núi đá chập chùng của rặng Hoàng Liên Sơn thổi về. Gió lay những giọt sương mai đọng trên lá cây rừng, sương rơi nhẹ nhàng trên mái tóc, trên vai áo làm tôi thấm lạnh.





Đang mơ màng trong cái không gian liêu trai và cái tĩnh lặng mong lung ấy....Bỗng một tiếng thét chói tai của Đèo đang đi phía trước, làm bầy chim rừng cũng phải giựt ḿnh, bay tán loạn:

“Con mẹ nó! Coi chừng vắt nái! Chạy khỏi khu rừng nầy ngay!”



Vắt nái là một loại vắt màu xanh lá cây, nhỏ hơn đầu đũa một chút và chiều dài chỉ hơn một phân rưởi, khiếp nhất là khi nó có chửa nên đặt cho nó cái tên là “vắt nái”.

Khi đánh được hơi người là nó giương lên như cây “anten”, rồi bún ḿnh lên như cái ḷ xo, bám vào đầu vào cổ người, thú vật hút máu một cách êm thắm, chén no rồi tự động rớt ra, máu từ vết cắn đó chảy ra không ngừng, chỉ có nhai cỏ mực đấp vào vết cắn là tạm cầm máu được.

Có nhiều anh bạn bị nhiểm trùng, vết cắn bị ngứa ngái, lở lói tṛn bằng đồng tiền, nhức nhối tàn bạo.. Hai đứa tôi vội vàng lội băng qua con suối cạn, t́m khoảng đất trống trải để kiểm soát lại đầu cổ, lôi ra cũng được bốn, năm con vắt xanh..





Bỗng có tiếng khèn réo rắt, trầm bổng, văng vẳng từ đâu đưa tới, âm thanh ai oán, năo nùng như khóc như than. Tiếng khèn trôi bồng bềnh trong làn sương mai trắng đục. Tôi ṭ ṃ rũ Đèo đi ngược lên thượng nguồn con suối để t́m người thổi khèn.

Đó là cụ già thuộc bộ tộc Thái đen với mái tóc trắng phau, cḥm râu bạc thả lỏng phất phơ trong gió. Ông vận bộ quần áo cộc màu chàm đang ngồi dưới một gốc đại thụ, chừng đă mọc rễ cả trăm năm, cành lá sum sê, vỏ cây sần sùi phủ rêu xanh, những rễ phụ và dây leo bện nhau bám chằng chịt vào thân cây.

Cách đó mươi thước là hai thanh niên để lưng trần đang cuốc một hố đất.. Thấy có người đến, ông lăo ngưng thổi khèn, ngước mắt nh́n chúng tôi, hỏi:

- “ Mấy ông đi đốn gỗ cho trại cải tạo đấy à ?” ông cảnh báo.

“ Khu rừng nầy có rất nhiều rắn độc, mấy ông phải cẩn thận ! Cách đây mấy hôm, một người trong bản bị một con cạp nia mổ chết rồi đấy !”Tôi nói:

- “ Cám ơn cụ đă chỉ bảo! Chúng tôi sẽ hết sức đề pḥng !” Đèo ph́ cười khi nghe cụ gọi ḿnh bằng ông, hắn nói:

- “ Tôi là Lê Xuân Đèo, gọi tôi là Đèo được rồi! Thế c̣n cụ ?”

- “ Tôi tên Phạm công Trừng, ” ông lăo buồn rầu, than thở.

“ Nhà tôi bị ốm nặng sắp chết đến nơi rồi, các anh ạ !” ông chỉ hai thanh niên, tiếp. “Chúng nó đang đào huyệt, chuẩn bị chôn mẹ chúng đấy!”

- “Thưa cụ, bà cụ bị mắc chứng bệnh ǵ vậy ?” Đèo hỏi.Ông cụ thở dài, nói :

- “Nhà tôi bị bệnh kiết lỵ đă hơn hai tuần nay ! Uống đủ loại cây cỏ, nhưng không thuyên giảm, đang nằm thoi thóp trên giường chờ chết đấy, các anh ạ !”


Đèo nghe ông cụ nói xong. Hắn suy nghĩ trong giây lát rồi nắm tay tôi, kéo ra bờ suối, hỏi:

- “ Tao muốn cứu bà cụ! Mầy nghĩ sao ?” Tôi trợn mắt nh́n hắn, hỏi:

- “Mấy lấy cái ǵ cứu bà cụ chớ ?”

- “Nói cho mầy biết, tao c̣n cất giấu được 10 viên “Reostop”, chôn dưới sạp nứa chỗ tao ngủ ”

Đèo lấy ư kiến tôi lần chót. “Mầy thấy tao có nên giúp họ không?”

- “Việc nầy có liên quan đến sinh mạng của mầy ! Tự quyết định đi, đừng hỏi tao lôi thôi !” Tôi nói.

- “ Tao quyết định cứu họ !” Đèo trả lời một cách dứt khoát.

“Thấy người sắp chết mà không cứu là đắc tội với Trời Phật rồi ! Hơn nữa, tao muốn làm sáng tỏ cái bản chất và truyền thống tốt đẹp của người lính Việt Nam Cộng Ḥa cho đồng bào miền Bắc thấy rơ điều nầy!”






Nghĩ sao làm vậy, Đèo trở lại chỗ ông cụ, nói:

- “Ngày mai cũng vào giờ nầy, cụ đón chúng tôi tại đây để nhận 10 viên thuốc “con nhộng” chuyên trị kiết lỵ, đem về cho bà cụ uống!”

Ông cụ nghe đến thuốc “con nhộng”, mắt cụ ngời sáng tia hy vọng và cảm động đến rớt nước mắt. Cụ bảo hai người con trai vào rừng đốn gỗ đ̣n tay cho chúng tôi, rồi mời chúng tôi về bản làng gần đó uống nước trà xanh.

Căn nhà sàn của gia đ́nh cụ gồm ba gian, nằm trong bản Thái, cách cây bờ suối đó khoảng 200 thước. Căn nhà sàn khá cao để tránh thú dữ nhất là đàn chó sói thường hay kéo vào bản, bắt gia súc.

Đặc điểm những căn nhà sàn của dân tộc thiểu số như Thái, Mường, Mông...cùng có một lối kiến trúc như nhau là không dùng đinh, tất cả đều được liên kết với nhau bằng những con ṣ gỗ và lạt buộc, sàn nhà được nối kết với nhau bằng những cây nứa già được đập giập ra để lót sàn. Leo lên mấy bậc thang gỗ ọp ẹp, thấy ngay bà cụ đang nằm trên cái chơng tre đặt ở một gốc nhà, trùm chăn đến cổ.

Bà cụ gầy lắm, tôi chỉ thấy cái mềm bông màu đỏ phập phồng theo nhịp thở thoi thóp, mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông. Sau khi uống xong chung trà xanh, th́ hai người con cũng về tới nơi.

Thấy mặt trời lên thấp thoáng ngọn cây, chúng tôi xin từ giả ra về.. Cụ đi trước dẫn đường, dùng dao vạt vào thân cây rừng để đánh dấu, cho chúng tôi biết đường trở lại.





Tới b́a rừng, họ chuyển 6 cây gỗ làm kèo lên vai hai đứa tôi và chúng tôi từ giă nhau ở đấy. Con vện đi sục sạo ở đâu đó trong khu rừng cũng vừa chạy trờ tới, mơm ngoạm một con chuột lông màu xam xám khá to, làm quà tặng anh bạn Đèo.

Trước khi trở về trại, Đèo ra bờ suối làm thịt chuột một cách thành thạo, rồi dùng lá chuối rừng gói lại cẩn thận, bỏ vào trong túi quần mang về trại. Buổi trưa, Đèo lén ra khu nhà bếp nướng một cách vội vă, khi nào có chiến lợi phẩm, hắn cũng chia phần cho tôi một nửa.

Đêm hôm đó, đợi mọi người ngủ say sau một ngày lao động cật lực. Đèo đào một lớp đất mỏng dưới ngay chỗ nằm lấy, ra một chai thuốc “Reostop” c̣n đủ 10 viên rồi giấu dưới gối.

Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại vùng nầy, tiếp tục đốn gỗ làm kèo nhà. Lần theo vết dao đánh dấu trên thân cây, hai đứa tôi trở lại chỗ cũ rất dễ dàng.

Đến chỗ hẹn, chúng tôi thấy cụ đang ngồi dưới bóng cây đại thụ, chờ chúng tôi tự bao giờ. Đèo thân mật đặt cái lọ thuốc “Reostop” vào tay ông cu, rồi chỉ cách dùng. Ông cụ vừa mừng, vừa cảm động đến độ nói không nên lời. Trước khi chia tay nhau, ông cụ dặn ḍ:

- “ Tụi bộ đội của đoàn 776, thằng nào cũng ác ôn hết! Các anh phải cảnh giác chúng nó đấy
!”

Khoảng một tuần sau đó. Chúng tôi trở lại vùng nầy kiếm gỗ, nh́n thấy cái huyệt đă được lấp đất lại bằng phẳng, cỏ dại đă bắt đầu bén rễ và chúng tôi biết chắc là bà cụ đă được cứu thoát khỏi bệnh kiết lỵ.


C̣n tiếp ,

hoathienly19 11-14-2020 09:32



"NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN !


https://www.vietbf.com/forum/showthr...222074&page=31


Người tù cải tạo Lê Xuân Đèo đă hoàn thành công tác
“dân vận” một cách xuất sắc bằng chính mạng sống của chính ḿnh. V́ ba tháng sau đó, anh từ giă cuộc đời v́ bịnh kiết lỵ v́ không thuốc chữa cho chính bản thân ḿnh ! .

Bịnh kiết lỵ, tiêu chảy và sốt rét rừng là ba căn bệnh rất phổ biến trong các trại tù cải tạo ở Miền Bắc XHCN.

Một người bạn cùng đơn vị là cựu thiếu tá Trần Sĩ cũng gởi nắm xương tàn tại một trại tù khác vào năm 1978 v́ bệnh kiết lỵ và rồi c̣n biết bao nhiêu người khác nữa ?

Trước khi chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, chúng tôi dự trữ khá nhiều thuốc chuyên trị về các chứng bệnh nguy hiểm nầy và nhất là trụ sinh để pḥng thân.

Nhưng, sau khi chuyển đến trại 6 Khe Thắm, một người tù cải tạo tên Phạm Thành K. đă đâm sau lưng chiến hữu, anh ta bàn kế hoạch “chuyển trại giả” với tên thiếu tá Khoát để lấy điểm.

Vào một buổi sáng tinh sương. Trong lúc mọi người chuẩn bị xuất trại lên rừng đốn gỗ, bỗng có tiếng kẻng dồn dập khác thường, đích thân cán bộ quản giáo đến từng lán, đôn đốc mọi người khẩn trương đến tập trung trước sân cờ ban chỉ huy trại để nghe thiếu tá Khoát - trưởng trại - ban hành lệnh hành quân (chuyển trại) và mọi người được thông báo, chỉ c̣n có một tiếng đồng để chuẩn bị hành lư cần thiết mang theo người.

V́ quá vội vă, nên Đèo không kịp đào lấy 10 viên thuốc “reostop” chôn dưới sạp nứa, ngay chỗ anh nằm.






Tại sân đá bóng của xă, trong khi ngồi chờ đợi xe vận tải đến chở đi một trại tù cải tạo khác, bọn cán bộ quản giáo và quản chế yêu cầu tất cả tù cải tạo “bày hành lư bán chợ trời” - tiếng lóng - một h́nh thức kiểm soát hành trang của tù cải tạo để hôi của.

Sau đó, chúng phân tán chúng tôi đứng riêng rẽ từng nhóm nhỏ vài ba người, tù cải tạo c̣n phải trải qua một màn “thoát y vũ” bất đắc dĩ để chúng lục soát quần áo tù. Thế là, sau khi tịch thu toàn bộ số dược phẩm của anh em mang từ trong Nam ra, chỉ c̣n sót lại 10 viên “Reostop” của Lê xuân Đèo.

Sau đó, bọn tù cải tạo chúng tôi mặt mày tiu nghỉu trở về lán trại, tiếp tục lên rừng đốn gỗ. Tên thiếu tá Khoát và tên tù phản bội P. T. K. mặt mày hớn hở v́ chuyến nầy thắng lớn...

Bọn cán bộ trại đem số thuốc tây nầy ra Hà Nội và tỉnh Hoàng Liên Sơn bán lại cho các con buôn, rồi thay vào đấy một loại thuốc dơm trị bá chứng tên “Xuyên Tâm Liên” để trị bịnh cho bọn tù.

Đến năm 1982,
nhà nước cộng sản khám phá loại thuốc nầy có độc tố phá vở các tế bào năo, tim và thận và ngưng sản xuất th́ đă muộn. Không biết có bao nhiêu tù cải tạo sống dở, chết dở v́ uống phải loại thuốc nầy ?





Vào mùa thu năm 1977. Bạn Lê Xuân Đèo không may vướng phải căn bệnh kiết lỵ hiểm nghèo.


Sang đến tuần lễ thứ hai, người anh cứ khô héo dần như cây khô thiếu nước, gầy đến nổi chỉ c̣n da bọc xương, rồi nằm liệt giường, tiểu và đại tiện một chỗ..

Mỗi ngày tên y công tên Lương phát cho vài viên “Xuyên Tâm Liên” và một bát cháo loăng như nước cơm chắt, tiêu chuẩn trừng phạt những người tù cải tạo bị ghép vào tội “chây lười lao động”.

Qua đến đầu tuần lễ thứ ba, người anh tóp xọp như bộ xương cách trí, được bọc lại bằng một lớp da nhăn nheo màu xám xịt, đôi chân gầy guộc như hai thanh nứa, sờ vào lạnh ngắt như đồng.

Anh chỉ c̣n thở thoi thóp, máu h́nh như bắt đầu đông lại trong các động mạch, đôi mắt thất thần, mở trao tráo trong hai cái hốc mắt lơm sâu.

Đến buổi chiều, anh lên cơn mê sảng gọi tên vợ, tên con, rồi khóc rưng rức bằng những hạt lệ khô .:112:

Tối hôm đó, tôi ngồi bên cạnh anh cho tới giờ kẻng đổ, tôi bỏ mùng xuống cho anh, trước khi trở lại chỗ nằm.





Kỳ lạ quá ! Nửa đêm về sáng, tiếng cú rúc liên hồi trong một lùm cây nào đó, ngay phía sau lán 3 như tiếng gọi của thần chết lởn vởn đâu đây, làm tôi rùng ḿnh.


Gió từ dăy Hoàng Liên Sơn thổi về ào ào làm rung chuyển cây rừng, làm tốc mái tranh nứa, gió thổi bật cánh mấy cái phên cửa...

Trong cái không gian lạnh lẽo ấy, vang lên những tiếng ngáy kḥ kḥ khi trầm, khi bổng, có tiếng ngáy cao vút như giọng nam “tenor”, những tiếng nghiến răng trèo trẹo, tiếng trở ḿnh của bạn nào đó trên cái sạp tre ọp ẹp vang lên kẽo kẹt, tiếng mớ ngủ lẫn tiếng thở dài năo nuột.





Đôi khi, có anh đang nằm mơ thấy ḿnh đang đánh nhau với Việt cộng, tiếng hét của anh đánh thức cả lán dậy :

“Diều hâu ! Diều hâu ! Đại Bàng nghe rơ không trả lời !

Việt cộng tràn ngập căn cứ hỏa lực rồi ! Rót pháo xă láng !
Nổ chụp trên đầu chúng tôi ! Lẹ lên đi mấy cha...” và tất cả âm thanh đó quyện vào nhau hợp thành một “ bi trường khúc ” đầy ấn tượng sâu sắc trong ḷng người tù cải tạo.:112: :112: :112:





Bỗng tôi nghe tiếng con vện tru từng chập bên bờ suối, tiếng tru buồn thê thảm, kéo dài lê thê trong đêm trường tĩnh mịch..
:112::112::112:

Tôi mệt mơi, ngủ thiếp đi từ lúc nào cũng không hay, cho tới khi tiếng kẻng báo thức vang lên, đánh thức mọi người dậy để chuẩn bị một ngày lao động khổ sai..

Tôi nghe cả lán hoảng hốt, thét lên :

“ Đèo chết rồi ! Đèo chết rồi !...”..


Tôi ngồi bật dậy như cái ḷ xo, nh́n sang chỗ Đèo nằm, hai cái chân như hai thanh nứa già cỗi, khô khốc, buông tḥng xuống đất, bị gió thổi luồn dưới sạp nứa đánh đong đưa, c̣n thân người của anh nằm vất vưởng trong mùng.

Tôi vội vàng chạy đến, vén cái mùng lên.

Tôi thấy đôi mắt đôi mắt của anh mở trợn trừng, hai giọt lệ khổ đau chắt chiu từ một kiếp người bị đày đọa trong tận cùng đáy địa ngục, ứa ra từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, c̣n đọng lại chưa khô; h́nh như, anh mới từ giă cuộc đời cách đây không lâu.

Tôi lấy tay vuốt mắt người bạn tù...
:112::112::112::112:





Một cái cḥi lá đơn sơ được vội vă dựng lên, chỉ có mỗi mái nứa gần khu rừng sắn, bên cạnh con suối cạn, phía sau ban chỉ huy trại.

Bốn cái cộc gỗ đóng xuống đất chính giữa căn cḥi, hai khúc gỗ gác song song với nhau bên trên, vừa đủ kê một tấm ván mỏng.

Thi hài của Đèo trong bộ quân phục Biệt Động Quân đă bạc màu, rách tơi tả, loang lỗ những vết máu khô v́ tai nạn lao động.
:112::112::112::112:

Tôi phủ kín h́nh hài của anh bằng cái mềm màu đỏ. Toán mộc lo đóng quan tài, tôi trong bộ phận đào huyệt c̣n có Trương Đăng Sĩ và Nguyễn Minh Thanh...

Chỗ anh nằm an nghỉ dưới bóng cây cổ thụ dưới chân đồi bên cạnh ḍng suối, cách trại khoảng 2 cây số....

Đến xế chiều, mọi việc đă hoàn tất. Sau khi tẩn liệm cho bạn Đèo xong, chúng tôi trở về trại, không ai được ở lại qua đêm để canh giữ xác của anh.:112::112::112:: 112::112:





Đêm đó, có lẽ là đêm dài nhất trong 8 năm tù cải tạo của tôi. Vừa chợp mắt là tôi thấy đôi mắt của anh c̣n mở trợn trừng...

Quá nửa đêm về sáng.
Bỗng nghe có tiếng chó sủa, tiếng gầm gừ cấu xé lẫn nhau thật dữ dội, tiếng tru tréo từ phía b́a rừng văng vẳng đưa về; h́nh như, chúng đang tranh ăn th́ phải.

Điều nầy đă khiến tôi phập pḥng lo sợ, không biết chuyện ǵ bất hạnh sẽ xảy ra cho anh Đèo.

Tôi thầm cầu nguyện với ơn trên, đừng để bầy chó rừng tha xác của anh đi ! Trời vừa tờ mờ sáng. Sau tiếng kẻng báo thức vào lúc 6:45, tôi đă thức dậy, cuốn mùng mền, rồi vội vă đi về phía cổng trại.

Tên lính canh cho phép tôi xuất trại, ra b́a rừng thăm xác bạn.

Tôi lật đật bước vào cái cḥi lá, cái quan tài của Đèo được ghép vội vă bằng sáu tấm ván mỏng manh bị đẩy xô lệch trên hai cái thanh ngang, suưt chút nữa th́ đổ xuống đất, cái nấp áo quan sẽ bung ra ngay.


Sau khi đẩy cái áo quan lại cho ngay ngắn, tôi bước ra bên ngoài quan sát hiện trường. Cả một vùng cỏ dại chung quanh cái cḥi bị ngă rạp xuống, loang lổ vết máu và lông thú. Tôi đoán không sai, tại ngay chỗ nầy, đêm qua đă xảy ra trận ác đấu thật quyết liệt giữa bầy chó rừng, tranh xác anh Đèo để tha vào rừng.





Có lẽ đánh được hơi người quen thuộc, con chó vện đang nằm bất động gần đó, nó ngước đầu lên nh́n tôi, cố gắng chống hai cái chân trước xuống đất, gượng lết về phía tôi, nhưng được vài bước rồi ngă quỵ xuống, mồm rên ư ...ử v́ đau đớn.

Tôi vội vàng chạy đến ôm chấm lấy nó vào ḷng. Con vệt liếm vào mặt tôi một cách tŕu mến, rồi mệt lả, nghẻo đầu lên vai tôi. Đặt nó nằm xuống đất để quan sát :

Con mắt bên phải bị lột một mảnh da, c̣n bê bết máu, cái chân trước bị táp gẫy xương và cái đùi sau bị ngoạm mất một măng thịt to, vết thương c̣n rỉ máu âm ỉ. Tôi vô cùng xúc động nh́n nó một cách cảm phục và thương mến.





Thật vậy, không một ai có thể ngờ rằng, con chó vện đă liều mạng sống của nó, tả xung, hữu đột, quyết đấu một mất một c̣n với cả một bầy chó rừng hoang dại để bảo vệ cái xác thân của Lê Xuân Đèo, người bạn của nó, đang nằm trơ trọi giữa bầy dă thú.

Đối với tôi, con chó vện là hiện thân của một dũng sĩ, tuy mang h́nh hài của loài thú bốn chân, nhưng có một trái tim rất “người” dám v́ nghĩa quên ḿnh, chiến đấu đơn độc, không lùi bước trước kẻ thù.

Tinh thần quyết đấu của con chó vện, như một lời nhắn nhủ đầy khí phách với đồng loại của nó :

“Tụi bây muốn làm thịt Lê Xuân Đèo, phải bước qua xác chết của tao!”.


Tôi bế con vện ra bờ suối, khuất sau đám sắn non, rửa vết thương c̣n đẫm máu của nó mà ứa nước mắt. Con vện liếm bàn tay tôi một cách thân ái. Tôi th́ thầm bên tai nó :

“ Nằm đây chờ tao; lát nữa, tao trở lại t́m cách đưa mầy về nhà chủ của mầy !”


Tôi đứng dậy lui gót, nh́n trong ánh mắt lưu luyến của nó và khi nó đưa cái chân trước quào quào một cách yếu ớt trong không khí như những cái vẫy tay chào vĩnh biệt, khiến tôi có cảm tưởng; h́nh như, nó muốn trối trăn điều ǵ đó với tôi chăng ?


Chú chó Hachiko - Nhật Bản biểu tượng về ḷng trung thành với chủ của nó
(Nguồn: Internet)





Tôi từ giă nó, trở vào trại để cùng với anh em lo việc mai táng Lê Xuân Đèo.

Toán chung sự có bốn người :

Minh Thanh, tôi và hai bạn tù nữa.

Đúng 8 giờ sáng, chúng tôi đẩy cái xe cải tiến cũ kỹ đi ngang qua ban chỉ huy trại, gặp tên trung úy Quang lùn tịt, ngoắc chúng tôi dừng lại, nói :


“ Này, nhớ đấy nhé ! Giữ cái áo quan lại, dành cho những người kế tiếp ! Các anh phải biết bảo vệ tài sản xă hội chủ nghĩa đấy !! Sẽ không có cái áo quan thứ hai đâu ” !!!!





Sau khi đặt quan tài của Lê Xuân Đèo lên xe cải tiến. Hai anh cầm càng, tôi và Minh Thanh phụ đẩy. Chiếc xe từ từ lăn bánh trên con đường đất gồ ghề c̣n đẵm hơi sương. Hai cái bánh xe khô nhớt, một cái nghiêng bên nầy, một cái ngă bên kia, phát ra những tiếng kót két rên rỉ một cách mệt nhọc, đau khổ.

Hai anh bạn phía trước gồng ḿnh, ấn cái càng xe xuống, c̣n tôi và Minh Thanh vừa đẩy, vừa nâng phần sau xe lên, v́ sợ hai cái bánh xe bung vành, văng ra khỏi ra cái xe cải tiến bất cứ lúc nào.

Chúng tôi phải đẩy cái xe tang lăn qua ba cái dốc cao mới đến bờ suối. Sau vài phút nghỉ giải lao, chúng tôi cùng nhau kê vai, khiêng quan tài lên lưng chừng đồi, chỗ an giấc ngàn thu của anh, rồi chia nhau vô rừng kiếm dây rừng bện lại như hai sợi dây thừng.

Đặt quan tài lên trên hai sợi dây đó, rồi mỗi người nắm một đầu dây, thả từ từ xuống đáy huyệt. Xong rồi, chúng tôi lấp đất lại, vun thành một nấm mộ đơn sơ. Bốn anh em đứng trước mộ, cúi đầu mặc niệm mà trong thổn thức, bồi hồi. Tôi hái một ít hoa rừng đặt lên nấm mồ của bạn.









Bạn Nguyễn Minh Thanh cảm khái làm một bài thơ với tựa đề “NẤM MỒ HOANG” để tưởng nhớ bạn Lê Xuân Đèo, người bỏ cuộc giữa đường.

Một nấm mồ hoang cảnh lạnh lùng

Lơ thơ cỏ úa lá chiều rung

Quạnh hiu vằng vặt vây quanh mộ

Rên rỉ bầy ve tiếng năo nùng

Gởi xác ốm nhom tận chốn nầy

Bao la rừng núi, suối trời mây

Người đi vĩnh viễn đă yên phận

Ngàn dặm người thương đâu có hay !

Sương khói hoàng hôn dọc mỗi đời

Công danh phú quí lá vàng rơi

Than ôi ! Thành bại đều chung cuộc

Tuần tự rồi ai cũng thế thôi !





C̣n tiếp ,

hoathienly19 11-14-2020 20:38



Trên đường trở về trại,
khi đi đến gần ban chỉ huy, tôi tách rời anh em, lẻn vào khu rừng sắn, ra bờ suối kiếm con vện.

Tôi vô cùng sững sờ nh́n thấy con vện bị ai đó
treo ngược đầu xuống đất, bốn chân bị căng ra, buộc chặt vào hai cái cộc gỗ, cổ bị cắt tiết, máu đỏ nhỏ từng giọt xuống cái cái chậu bằng thau đặt dưới đất.

Tôi quỳ xuống nâng đầu của nó lên, cả thân ḿnh con vện khẻ run lên lần cuối cùng, rồi duỗi thẳng ra bất động. Cái chết đau đớn của nó làm tôi rớt nước mắt.


Tên trung sĩ Kây đứng sau lưng tôi từ lúc nào cũng không hay. Hắn lên tiếng làm tôi giật ḿnh:

- “ Trong giờ lao động, anh ra đứng đây làm ǵ thế ?”

Tôi nhanh trí, đáp:

- “ Vừa mới mai táng anh Lê Xuân Đèo xong, ra suối rửa tay chân .”

Hắn nó i:

- “Tôi nhờ anh giúp hộ một tay .”

- “ Được, việc ǵ thế ?” tôi hỏi .Hắn nói như ra lệnh :

- “ Anh tháo dây, mang con cầy vào nhà bếp cho tôi !”

Nói xong, hắn mang cái thau tiết đi trước. Tôi tháo sợi dây rừng, ôm con vện vào ḷng như ôm thi thể một chiến hữu vừa nằm xuống sau một trận đấu...tôi thất thểu ôm xác con vện vào khu nhà bếp mà ḷng quặn đau.

Hôm sau, được phân công làm vệ sinh khu nhà bếp, tôi nhặt những mảnh xương vụn của con vện, đặt lên vào những tấm lá chuối, gói lại cẩn thận. Nhân lúc đi rừng đốn gỗ, tôi ghé thăm mộ bạn Đèo, rồi dùng dao đào một cái hố nhỏ, chôn bộ hài cốt của con chó vện, nằm bên cạnh bạn Lê Xuân Đèo cho có bạn.





Bắt đầu từ cuối tháng chạp kéo dài đến tháng giêng năm sau. Núi rừng Hoàng Liên Sơn, bầu trời ảm đạm và rét mướt, mưa bụi giăng giăng khắp nơi gần như bất tận..

Mỗi buổi chiều, người tù trùm chăn kín mít, ngồi co ro trong lán, nh́n những cơn mưa bụi bay bay trong hoàng hôn, ai nấy đều chạnh ḷng nhớ quê hương, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ con, nhớ vợ da diết.
:112:


Gọi là mưa bụi v́ lượng nước mưa quá yếu không thể rơi thẳng xuống mặt đất, bị gió thổi bay đi, tỏa ra thành những cơn mưa bụi.

Bước sang tháng giêng. Hạt nước mưa kết tinh lớn hơn một chút có thể rơi thẳng xuống mặt đất, nhưng bị gió tạt nghiêng nghiêng, tạo thành những cơn mưa phùn báo hiệu đất trời sắp giao mùa. Sợi mưa phùn mong manh như sợi tóc rối, đan nhau thành những màn nước trắng đục, giăng kín núi rừng, đồng ruộng, thung lũng, sông hồ ...

Trời đất nhạt nḥa trong những cơn mua phùn dai dẳng, kéo dài lê thê trên vùng đất khó. Trong bầu khí hậu ẩm thấp ấy, cây cỏ đang âm thầm nẩy lộc, đâm chồi, chờ trỗi dậy tưng bừng khi mùa xuân đến.

Chỉ tội cho bọn tù cải tạo phải lao động khổ sai trong rừng sâu, tay chân tê cóng v́ đói và lạnh đến rét run.





Thượng tuần tháng 2 năm 1978.



Trại chuẩn bị ăn mừng Tết Nguyên Đán Mậu Ngọ vài ngày sau đó. Tôi được phân công vào đội cắt lá dong dùng để gói bánh chưng. Lá dong thường mọc hoang ở những vùng đất ẩm ướt. Tôi đi vào rừng, lang thang trong thung lũng một ḿnh để t́m lá dong. Tôi nhớ quá anh bạn Đèo và con chó vện thân thương.

Mới hừng đông sáng mà tôi đă nghe tiếng chiêng, tiếng trống vang lên rộn ră từ bản làng của dân tộc Thái Đen. Động tính hiếu kỳ, tôi lần theo con đường ṃn dọc theo con suối chảy róc rách để đi vào bản Thái.





Ô hay ! Trước mắt tôi là cả một rừng hoa màu trắng tinh khiết như hoa bưởi mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Từ những thân cây khẳng khiu, uốn khúc dù bám vào vách núi đá cheo leo vẫn trổ những chùm hoa trắng muốt, hoa nở rộ khắp núi rừng, dọc theo suối, hoa có năm cánh, nhụy màu hồng, gân màu tim tím.

Mỗi cơn gió nhẹ nhàng lướt thoảng qua khu rừng là những cánh hoa rung lên như hàng vạn cánh bướm đang vỗ cánh chấp chới trong không khí.


Tôi đi lần theo con đường ṃn t́m gia đ́nh cụ Trừng không mấy khó khăn. Tôi đoán, hôm nay là ngày hội làng th́ phải. Trước sân nhà của cụ các bếp đỏ lửa, rực than hồng, họ có mươi người, chia ra làm hai phái :

Phái nữ đang lo nấu thức ăn, c̣n phía nam đang chơi nhạc cụ dân tộc như thổi khèn, khua chiêng, trống...rất vui nhộn.





Thấy tôi đường đột bước vào sân, tất cả đều dừng tay, nh́n tôi trân trối. Chỉ cần nh́n thấy bộ đồ rằn ri của tôi đang mặc, họ đă biết tôi là ai rồi. Một thiếu phụ vội vă chạy đến cầu thang, lên tiếng gọi:

- “ Bố ơ i! Có thằng lính ngụy nó xông vào nhà ḿnh nầy! Con tống cổ nó đi nhá !” Có tiếng quát vọng xuống:

- “Khách quư nhà ḿnh đấy! Đừng hỗn láo, con ạ!”

Đứng trên cầu thang, nh́n thấy tôi, cụ Trừng có vẻ mừng lắm. Cụ quay vào trong căn nhà sàn, gọi bà cụ ơi ới:

- “Bà nầy, theo tôi xuống đây nhanh lên!”

Cụ vội vă chạy xuống cầu thang trước, cụ bà nối gót theo sau. Cụ ôm chầm lấy tôi, trước con mắt ngơ ngác của mọi người. Cụ Trừng nói với vợ:

- “Bà c̣n sống đến ngày hôm nay là nhờ người tù cải tạo nầy đấy!”

Tôi vội vàng đính chính ngay:

- “Không phải tôi cứu bà cụ đâu! Anh Lê Xuân Đèo đấy cụ à!”

Cụ Trừng vỗ trán một cái thật mạnh, nói:

- “À, tôi nhớ ra rồi ! Anh Lê Xuân Đèo đâu ?” Tôi buông thỏng một câu:

- “ Đèo chết rồi !” Cụ Trừng bàng hoàng trong giây lát, rồi hỏi gằn :

- “Bọn quản giáo đánh chết anh Đèo , phải thế không ?”

- “ Không phải vậy, anh Đèo chết v́ bệnh kiết lỵ !”

Bà cụ nói:

- “ Tôi thoát khỏi bệnh kiết lỵ là nhờ 10 viên thuốc “con nhộng” của anh ấy biếu ! Sao anh Đèo không dùng thuốc ấy để chửa bệnh cho ḿnh nhỉ ?”

Tôi buộc ḷng phải thú thật, nói :

- “ Đó là 10 viên thuốc cuối cùng mà anh Đèo đă biếu cho cụ !”

Bà cụ nghe tôi nói, vô cùng xúc động, giọng run run:

- “ Anh Đèo đă hy sinh cái mạng của ḿnh để cho tôi được sống ! Thế mới rơ trắng đen, đồng bào dân tộc chúng tôi ở ngoài nầy đều bị lũ chúng nó bưng bít, tuyên truyền lừa bịp cả !


Chúng nó c̣n bảo “lính ngụy” các anh tàn ác lắm! Mổ bụng, moi gan người ăn sống, uống cả máu tươi! Bọn chúng nó ngậm máu phun người, giỏi thật đấy ! ”




Đám thanh niên nghe bà cụ nói, xem chừng đă hiểu biết mọi chuyện, họ bỏ hẳn thái độ thù nghịch khi vừa mới gặp tôi. Một anh bạn trẻ đến nắm tay tôi mời mọc rất chân t́nh:

- “Anh ở lại dùng cỗ với chúng em nhá ! Hôm nay, mới bắt đầu mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” của dân tộc Thái chúng em !”

Tôi hỏi:

- “Mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” là lễ hội ǵ vậy?”

Cụ Trừng giải thích:

- “Đó là ngày “Hội Hoa Ban” trên vùng cao Hoàng Liên Sơn để đón mùa xuân đến. Hoa ban chỉ nở rộ vào tiết lập xuân, phủ trắng cả núi rừng trên các bản Thái.

Đặc điểm của loài hoa nầy là màu trắng, tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khiết của t́nh yêu và hạnh phúc lứa đôi! Một chút nữa đây, sau khi ăn uống no say, bọn họ sẽ chạy vào hái những hoa ban thật đẹp tặng cho nhau làm quà.

Mấy cô gái sẽ thay đổi xiêm y, đầu chít khăn “piêu”, có đôi hàng cúc h́nh bướm trên chiếc áo cóm, thêu tua ở vai, cái quần “sin” (giống như xà-rông) vải xanh thắt ngang lưng để múa x̣e,” cụ Trừng cố mời.

“Anh ở nán lại đây chơi với chúng tôi.”





Mặt trời đă lên khá cao. Rất tiếc là tôi phải từ giă họ để c̣n kịp đi cắt lá dong. Bỗng có ai khều nhẹ vào vai, tôi quay đầu lại nh́n, đó là một cô bé Thái c̣n rất trẻ, độ chừng đôi tám, mắt có mí lót, mũi hơi cao, nước da bánh mật, trong giống người Ấn hơn là người Kinh.

Cô ta trao cho bó hoa ban nới nở, vừa mới hái vội ở trong rừng về tặng tôi, làm món quà trong ngày “Hội Hoa Ban”. Bây giờ tôi mới biết loại hoa màu trắng nơn nà đó chính là hoa ban. Cô bé thỏ thẻ, nói đùa:

- “Bao giờ anh về Sài G̣n, cho em đi theo với nhá!”

Tôi vô cùng ngạc nhiên khi một cô bé Thái miền sơn cước, c̣n biết chối bỏ cái tên Thành phố Hồ Chí Minh do tập đoàn lănh đạo cộng sản áp đặt sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, mà vẫn gọi cái tên cũ “Sài G̣n”, thủ đô thân yêu của người Miền Nam .

Sau khi cắt xong một mớ lá dong, trên đường đi về trại, tôi ghé viếng thăm mộ bạn Lê Xuân Đèo. Tôi đặt bó hoa ban trên nấm mồ, rồi th́ thầm báo cáo với hắn:

“ Vinh quang nầy thuộc về mầy! Chớ không phải của tao !”


Nghĩ cho cùng, cái chết tức tưởi của bạn Lê Xuân Đèo không đến nỗi vô ích. Tôi phải gọi đó là một sự hy sinh.

Những người lính QLVNCH thuộc mọi Quân, Binh chủng đă anh dũng hy sinh ngoài mặt trận trong thời chiến. Và những người lính âm thầm nằm xuống trong lao tù cộng sản, đều có giá trị cao quư như nhau !

Thật vậy, anh nằm xuống để thắp lên một ánh đuốc lẻ loi, soi thủng màn đêm tăm tối đầy hận thù bên kia “bức màn sắt”, do bọn CSBV dựng lên tại miền Bắc XHCN, bằng những thủ đoạn tuyên truyền cực kỳ dối trá và bẩn thỉu. Cái chết của Lê Xuân Đèo đă làm sáng tỏ chân giá trị đích thực của người lính thuộc QLVNCH.

Họ cầm súng để nối nghiệp tiền nhân, tận tụy ngày đêm đi ǵn giữ quê hương, đem xương trắng máu đào để bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ của Tổ Quốc.





Sau Tết Mậu Ngọ 1978.
Tất cả anh em chúng tôi khăn gói lên đường, di chuyển đến một trại tù cải tạo khác, lần nầy th́ di chuyển thật. Và chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ khai quang, dựng nhà, trồng hoa màu ở những vùng rừng núi hiểm trở khác để đồng bào miền xuôi về đó, xây dựng nông trường.

Lúc vượt qua đỉnh đèo Lủng Lô, Trương Đăng Sĩ, Nguyễn Minh Thanh và tôi dừng lại giây phút ngắn ngủi, chúng tôi cùng hướng về rặng núi Phu Luông c̣n phảng phất sương mù, vẫy tay chào vĩnh biệt người bạn tù thân mến, anh Lê Xuân Đèo :

NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN !
:112:

Nguyễn Vĩnh Long Hồ

hoanglan22 11-17-2020 15:36

Các thay đổi đang diễn ra nhanh chóng trên thế giới
 
1 Attachment(s)


Cửa hàng sửa chữa ô tô sẽ biến mất.
Một động cơ xăng có 20.000 bộ phận riêng lẻ.
Xe điện được bán với bảo hành suốt đời và chỉ được sửa chữa bởi các đại lư.
Chỉ mất 10 phút để tháo và thay thế một động cơ điện.
Động cơ điện bị hỏng không được sửa chữa trong đại lư nhưng được gửi đến một cửa hàng sửa chữa khu vực để sửa chữa chúng bằng robot.
Đèn báo lỗi động cơ điện của bạn sẽ sáng, v́ vậy bạn lái xe đến mức trông giống như một chiếc xe tự động Jiffy, và chiếc xe của bạn được kéo qua trong khi bạn có một tách cà phê và ra xe của bạn với một động cơ điện mớ !
Trạm xăng sẽ biến mất
Đồng hồ chỗ đậu xe sẽ được thay thế bằng mét phân phối điện.
Các công ty sẽ lắp đặt các trạm nạp điện; trên thực tế, họ đă bắt đầu.
Bạn có thể t́m thấy chúng tại các địa điểm Dunkin Donuts được chọn.
Hầu hết các nhà sản xuất ô tô lớn thông minh đă có đồ án để bắt đầu xây dựng các nhà máy mới chỉ cho xe điện.
Ngành công nghiệp than sẽ biến mất.
Các công ty xăng dầu sẽ biến mất.
Khoan dầu sẽ dừng lại. V́ vậy, nói lời tạm biệt với OPEC !
Ngôi nhà sẽ sản xuất và lưu trữ nhiều năng lượng điện hơn trong ngày và sau đó họ sử dụng và sẽ bán nó trở lại lưới điện.
Lưới lưu trữ nó và phân phối nó cho các ngành công nghiệp là người sử dụng điện cao.
Có ai nh́n thấy mái nhà Tesla không?
Một em bé của ngày hôm nay sẽ chỉ nh́n thấy chiếc xe cá nhân trong bảo tàng.
TƯƠNG LAI đang tiếp cận nhanh hơn hầu hết chúng ta có thể điều khiển.
Năm 1998, Kodak có 170.000 nhân viên và bán được 85% giấy ảnh toàn thế giới .
Chỉ trong ṿng vài năm, mô h́nh kinh doanh của họ biến mất và họ bị phá sản.
Ai có thể nghĩ về điều đó xảy ra?
Điều ǵ đă xảy ra với Kodak sẽ xảy ra trong rất nhiều ngành công nghiệp trong 5-10 năm tới, và hầu hết mọi người không thấy nó đang xảy ra.
Bạn có nghĩ rằng vào năm 1998 rằng 3 năm sau đó, bạn sẽ không bao giờ chụp ảnh trên phim một lần nữa?
Với điện thoại thông minh ngày nay, thậm chí mấy ai c̣n dùng máy ảnh vào những ngày nay?
Tuy nhiên, máy ảnh kỹ thuật số được phát minh vào năm 1975.
Những máy ảnh đầu tiên chỉ có 10.000 pixel, nhưng theo luật Moore.
V́ vậy, như với tất cả các công nghệ theo cấp số nhân, đó là một sự thất bại trong một thời gian, trước khi nó trở nên vượt trội và trở thành xu hướng chính chỉ trong một vài năm ngắn ngủi.
Phần mềm đă bị gián đoạn và sẽ tiếp tục phá vỡ hầu hết các ngành công nghiệp truyền thống trong 5-10 năm tới.
UBER chỉ là một công cụ phần mềm, họ không sở hữu bất kỳ chiếc xe nào và bây giờ là công ty taxi lớn nhất thế giới !
Hăy hỏi bất kỳ tài xế taxi nào nếu họ thấy điều đó đang đến.
Airbnb hiện là công ty khách sạn lớn nhất thế giới, mặc dù họ không sở hữu bất kỳ tài sản nào.
Hỏi khách sạn Hilton nếu họ thấy điều đó đang đến.
Trí tuệ nhân tạo
Máy tính trở nên tốt hơn theo cấp số nhân trong việc hiểu thế giới.
Năm nay, một máy tính đánh bại người chơi Go tốt nhất thế giới, sớm hơn dự kiến 10 năm
Ở Mỹ, các luật sư trẻ đă không có việc làm.
Bởi v́ của IBM Watson, bạn có thể nhận được cố vấn pháp lư cho đến nay cho ngay bây giờ, những thứ cơ bản trong ṿng vài giây, với độ chính xác 90% so với độ chính xác 70% khi thực hiện bởi con người.
V́ vậy, nếu bạn học luật, hăy dừng ngay lập tức.
Sẽ có ít hơn 90% luật sư trong tương lai, những ǵ là một ư nghĩ ! Chỉ những chuyên gia đặc biệt mới được ở lại.
Watson đă giúp y tá chẩn đoán ung thư, chính xác hơn 4 lần so với y tá của con người.
Facebook hiện có phần mềm nhận diện mẫu có thể nhận diện khuôn mặt tốt hơn con người.
Vào năm 2030, máy tính sẽ trở nên thông minh hơn con người.
Xe tự hành: Năm 2018 những chiếc xe tự lái đầu tiên đă có mặt ở đây.
Trong 2 năm tới, toàn bộ ngành sẽ bắt đầu bị gián đoạn.Bạn sẽ không muốn sở hữu một chiếc xe nữa v́ bạn sẽ gọi một chiếc xe với điện thoại của bạn, nó sẽ hiển thị tại vị trí của bạn và đưa bạn đến đích của bạn.
Bạn sẽ không cần phải đậu nó, bạn sẽ chỉ trả tiền cho khoảng cách lái xe và bạn có thể làm việc hiệu quả trong khi lái xe.
Những đứa trẻ rất nhỏ của ngày hôm nay sẽ không bao giờ có bằng lái xe và sẽ không bao giờ sở hữu một chiếc xe hơi.
Điều này sẽ thay đổi thành phố của chúng tôi, bởi v́ chúng tôi sẽ cần ít hơn 90-95% xe hơi.
Chúng tôi có thể chuyển đổi băi đậu xe cũ thành công viên.
Nó bây giờ sẽ xảy ra một lần nữa nhưng nhanh hơn nhiều với trí thông minh nhân tạo, sức khỏe, xe hơi tự trị và điện, giáo dục, in ấn 3D, nông nghiệp và công ăn việc làm.
Hăy quên đi cuốn sách, “Future Shock”, chào mừng đến với Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
1,2 triệu người chết mỗi năm trong tai nạn xe hơi trên toàn thế giới bao gồm cả lái xe mất tập trung hoặc say rượu.
Bây giờ chúng ta có một tai nạn mỗi 60.000 dặm; với lái xe tự trị mà sẽ giảm xuống c̣n 1 tai nạn trong 6 triệu dặm.
Điều đó sẽ tiết kiệm được hàng triệu sinh mạng cộng với trên toàn thế giới mỗi năm.
Hầu hết các công ty xe hơi truyền thống chắc chắn sẽ bị phá sản.
Các công ty xe hơi truyền thống sẽ thử cách tiếp cận tiến hóa và xây dựng một chiếc xe tốt hơn, trong khi các công ty công nghệ - Tesla, Apple, Google sẽ làm theo cách tiếp cận mang tính cách mạng và xây dựng một máy tính trên bánh xe.
Nh́n vào những ǵ Volvo đang làm ngay bây giờ; không có thêm động cơ đốt trong trong xe của họ bắt đầu từ năm nay với các mẫu 2019, sử dụng tất cả điện với mục đích loại bỏ các mô h́nh lai .Nhiều kỹ sư từ Volkswagen và Audi; là hoàn toàn sợ hăi Tesla .
Nh́n vào tất cả các công ty cung cấp tất cả các loại xe điện. Đó là điều chưa từng nghe thấy, chỉ vài năm trước.
Các công ty bảo hiểm sẽ gặp rắc rối lớn bởi v́, không có tai nạn, chi phí sẽ trở nên rẻ hơn.
Mô h́nh kinh doanh bảo hiểm xe hơi của họ sẽ biến mất.
Bất động sản sẽ thay đổi. Bởi v́ nếu bạn có thể làm việc trong khi bạn đi lại, mọi người sẽ di chuyển xa hơn để sống trong một khu phố đẹp hơn hoặc giá cả phải chăng hơn.
Xe điện sẽ trở thành ḍng chính vào khoảng năm 2030.
Thành phố sẽ ít ồn ào hơn v́ tất cả những chiếc xe mới sẽ chạy bằng điện.
Các thành phố cũng sẽ có không khí sạch hơn nhiều. Chúng ta có thể bắt đầu ở Los Angeles không?
Điện sẽ trở nên cực kỳ rẻ và sạch sẽ.
Sản xuất năng lượng mặt trời đă tăng theo cấp số nhân trong 30 năm, nhưng bây giờ bạn có thể thấy tác động đang phát triển.Và nó đang tăng lên.
Các công ty năng lượng hóa thạch đang cố gắng hạn chế truy cập vào lưới điện để ngăn chặn sự cạnh tranh từ việc lắp đặt năng lượng mặt trời tại nhà, nhưng điều đó đơn giản là không thể tiếp tục – công nghệ sẽ chăm sóc chiến lược đó.
Sức khỏe
Giá Tricorder X sẽ được công bố trong năm nay. Có những công ty sẽ xây dựng một thiết bị y tế gọi là “Tricorder” từ Star Trek hoạt động với điện thoại của bạn,việc này sẽ quét vơng mạc, lấy mẫu máu và cả hơi thở của bạn. Sau đó nó phân tích 54 dấu hiệu sinh học để xác định gần như bất kỳ bệnh nào.Hiện có hàng chục ứng dụng điện thoại với mục đích y tế.
.....Và c̣n nhiều, nhiều nữa....

PC chuyen

hoanglan22 11-18-2020 04:49

Người Việt lớn tuổi qua Mỹ tại sao bị ghét ?
 
1 Attachment(s)


Trong khoảng 10 năm gần đây, một số đông du học sinh từ Việt Nam qua Mỹ hay nhiều người du lịch sang Mỹ đă t́m cách kết hôn với người có quốc tịch Mỹ để được ở lại Mỹ hợp pháp. T́m không ra người Việt có quốc tịch Mỹ, th́ họ kiếm đại một anh Mỹ gốc Mễ, gốc Tàu, hay Mỹ đen, Mỹ trắng ǵ cũng được, miễn sao họ chịu làm giấy tờ thẻ xanh cho họ ở lại. Và 3 đến 5 năm sau đó, họ vào quốc tịch Mỹ và chỉ 1 năm sau là bảo lănh cả cha mẹ từ Việt Nam qua Mỹ.

Cha mẹ vợ này có thể là 1 đảng viên cộng sản gốc lớn đang tại chức hay đang bị thất sủng muốn t́m đường qua Mỹ, hay là một đại gia có nhiều tiền muốn chuyển tiền cho con ở Mỹ giữ giùm, mua nhà đầu tư hay chỉ là một bà nhà quê muốn qua Mỹ để hưởng chế độ y tế MEDICAL, MEDICARE miễn phí ưu đăi của chính phủ Mỹ dành cho những người được bảo lănh có thẻ xanh ở Mỹ hợp pháp.

Thế là những cha mẹ này qua Mỹ đă trên 65 tuổi, chưa bao giờ đi làm đóng thuế cho Mỹ đồng nào trong suốt cuộc đời của họ, lại đương nhiên được hưởng phúc lợi dành cho người cao niên ở Mỹ, mà những người đi làm đóng thuế cho Mỹ từ 20 % đến 35 % lợi tức hàng năm trong hơn 40 năm như tôi, như bạn, có khi c̣n không được như họ.

TIN CỘNG ĐỒNG
Cỡ chữ
BẤM VÀO ĐÂY ĐỌC RƠ HƠN
Người Việt lớn tuổi qua Mỹ tại sao bị ghét ?
Trong khoảng 10 năm gần đây, một số đông du học sinh từ Việt Nam qua Mỹ hay nhiều người du lịch sang Mỹ đă t́m cách kết hôn với người có quốc tịch Mỹ để được ở lại Mỹ hợp pháp.


Trong khoảng 10 năm gần đây, một số đông du học sinh từ Việt Nam qua Mỹ hay nhiều người du lịch sang Mỹ đă t́m cách kết hôn với người có quốc tịch Mỹ để được ở lại Mỹ hợp pháp. T́m không ra người Việt có quốc tịch Mỹ, th́ họ kiếm đại một anh Mỹ gốc Mễ, gốc Tàu, hay Mỹ đen, Mỹ trắng ǵ cũng được, miễn sao họ chịu làm giấy tờ thẻ xanh cho họ ở lại. Và 3 đến 5 năm sau đó, họ vào quốc tịch Mỹ và chỉ 1 năm sau là bảo lănh cả cha mẹ từ Việt Nam qua Mỹ.


Cha mẹ vợ này có thể là 1 đảng viên cộng sản gốc lớn đang tại chức hay đang bị thất sủng muốn t́m đường qua Mỹ, hay là một đại gia có nhiều tiền muốn chuyển tiền cho con ở Mỹ giữ giùm, mua nhà đầu tư hay chỉ là một bà nhà quê muốn qua Mỹ để hưởng chế độ y tế MEDICAL, MEDICARE miễn phí ưu đăi của chính phủ Mỹ dành cho những người được bảo lănh có thẻ xanh ở Mỹ hợp pháp.

Thế là những cha mẹ này qua Mỹ đă trên 65 tuổi, chưa bao giờ đi làm đóng thuế cho Mỹ đồng nào trong suốt cuộc đời của họ, lại đương nhiên được hưởng phúc lợi dành cho người cao niên ở Mỹ, mà những người đi làm đóng thuế cho Mỹ từ 20 % đến 35 % lợi tức hàng năm trong hơn 40 năm như tôi, như bạn, có khi c̣n không được như họ.


Thử làm 1 bài toán đơn giản nhé. Mỗi tháng MEDICARE, MEDICAL, MEDICAID trả tiền hoá đơn khi khám bác sĩ, đi lấy thuốc cao máu, tiểu đường , cao mỡ, đau nhức khớp xương, … không dưới 1000 USD một tháng.

Nếu vào bệnh viện hay viện dưỡng lăo th́ không dưới 10000 USD một tháng.

Nếu họ ở nhà th́ chính phủ trả tiền con cháu của họ để chăm sóc họ ít nhất 10 USD/giờ, trung b́nh mỗi tháng 1000 USD đến 1500 USD. 5 năm sau nếu họ vào quốc tịch Mỹ th́ mỗi tháng chính phủ Mỹ cấp cho họ tiền già nhân đạo 900 USD (SSI) ở California. Đây không phải tiền hưu Social Security v́ họ đâu có đi làm ngày nào cho Mỹ mà được hưởng lương hưu. Có khi họ than nghèo, nộp đơn xin Housing để được cấp nhà ở miễn phí, thế là chính phủ Mỹ lại è cổ ra trả mỗi tháng ít nhất 1000 USD để thuê nhà cho họ ở.

V́ vậy mà họ hay nói đùa với nhau :”Tôi có một thằng con hiếu thảo lắm, tháng nào nó cũng gửi tiền cho tôi đúng ngày 1 tây mỗi tháng, đi bác sĩ bệnh viện khỏi tốn tiền c̣n tốt hơn là bảo hiểm mua 700 USD một tháng của những người Mỹ đi làm nhiều năm.”. Hỏi con bà là ai mà tốt vậy th́ bà nói :”Là Tổng Thống Obama chứ c̣n ai nữa ?”

Thử hỏi ngân sách nhà nước Mỹ phải nuôi những người này trong ít nhất 20 năm cho đến khi họ qua đời, th́ không thâm thủng, phá sản mới là chuyện lạ !
Điều làm tôi bất nhẫn là những người này năm nào cũng mua vé máy bay về VN đi chơi, thăm thân nhân, áo gấm về làng, khoe khoang và nổ . Nhưng chỉ về được 29 ngày rồi phải lật đật qua Mỹ trở lại, nếu không họ sẽ bị cắt hết trợ cấp. Về VN họ đem theo thuốc cao máu tiểu đường cao mỡ chỉ có 1 tháng nên ở lâu hơn phải mua thuốc ở VN tốn tiền nên họ không muốn chi.

Khi trở qua Mỹ, họ mở miệng ra là nói nhớ Việt Nam, muốn về Việt Nam ở luôn. Họ nói không thích ở Mỹ, không cần ở Mỹ. Con cháu ở Mỹ bảo lănh họ qua Mỹ th́ họ chẳng bao giờ biết nói tiếng cảm ơn, có khi c̣n chửi rủa khi không vừa ư điều ǵ.

Tôi thật là ngao ngán khi phải tiếp xúc với những loại người này. Nước Mỹ không thiếu nợ họ, phải nuôi báo cô những người lúc nào cũng nói không cần ở Mỹ. Điều trớ trêu là 5 năm đầu ở Mỹ họ không được lănh tiền già 900 USD một tháng v́ chưa phải quốc tịch Mỹ. Cho nên sau 5 năm ở Mỹ một cách bất đắc dĩ, họ lại hỏi thăm xin thủ tục thi vào quốc tịch Mỹ dù bản thân không biết một chữ tiếng Anh nào. Họ đi xin giấy bác sĩ chứng nhận họ đau họ bệnh đủ thứ bệnh, kể cả bệnh tâm thần hay quên hay bệnh điếc khó nghe, nên xin bác sĩ chứng giấy bệnh để được miễn thi hay thi dễ một chút và có người Việt Nam thông dịch đi theo !

Tôi muốn nhắc lại một câu mà tôi đă đọc trước đây trên internet :”

Không phải ai muốn qua Mỹ là được. Đó là phước đức mấy đời của ông bà để lại, bạn mới có cơ hội đến Mỹ. Đáng lư ra, bạn nên biết trân quư sự may mắn này, thay v́ bạn tỏ ra bất cần và chán nản. Nếu như nước Mỹ không như ư bạn muốn, th́ bạn cứ việc mua vé máy bay mà quay về lại xứ thiên đường chủ nghĩa của bạn. Bạn không cần phải nói ra, tôi muốn về Việt Nam quá. Hay tôi rất hối hận khi đi Mỹ. Những câu nói này, đă vừa khó nghe, lại vừa chà đạp lên tinh thần yêu mến tự do, dân chủ của đồng hương ở đây. Không thích th́ về, chứ cứ nói hoài mà vẫn ở đây, th́ nhục lắm. Nếu bạn không thấy nhục, chúng tôi thấy nhục dùm cho bạn. “

Tôi đă từng gặp một bà già đă 93 tuổi nhưng móng tay móng chân lúc nào cũng sơn đỏ chót.

Bà là người nhà quê ít học, không giàu có ǵ nhưng lúc nào cũng tỏ ra sang chảnh và đeo ṿng vàng, hột xoàn để khoe của. Bà thích sống bề ngoài và phô trương. Bà thấy ai không có mua nhà, đi xe cũ th́ bà hỏi sao ở Mỹ nhiều năm mà không mua nổi nhà ? Trong khi đó th́ bà ở nhà mobile home ở chung với con cháu mà cứ tưởng là ḿnh ngon lắm. Lúc nào bà cũng tỏ vẻ ta đây là hơn người, không cần ở Mỹ. Năm nào bà cũng kêu con cháu mua vé máy bay cho bà về VN chơi, mua quà cáp đem về, mặc cho con cháu bà nợ credit card, trả nợ mệt nghĩ. Bà đang nộp đơn xin thi quốc tịch Mỹ. Tôi thật mong là bà nên về Việt Nam xứ thiên đường của bà ở luôn v́ bà cũng gần đất xa trời quá rồi.

Tôi hy vọng những người Việt Nam được thân nhân bảo lănh qua Mỹ và đang hưởng trợ cấp y tế, xă hội của chính phủ Mỹ nên có những cư xử biết tri ân và trân trọng những giúp đỡ ân t́nh từ tiền thuế của người dân Mỹ ở đây, trong đó có rất nhiều đồng hương người Mỹ gốc Việt đi làm đóng thuế cho nhà nước để nhà nước chi trả các khoản chi y tế xă hội và trợ cấp tiền nhà mỗi tháng, dù có thể trước đây quí vị chưa bao giờ đi làm đóng thuế cho cho chính phủ Mỹ đồng nào.

Xin đừng nói những lời khó nghe không cần làm cho nhiều người đồng hương thấy ghét. Nếu không thích ở đây th́ xin mua vé máy bay một chiều về lại Việt Nam, đơn giản vậy thôi.

Một người Mỹ gốc Việt, a taxpayer

Holly Ngo

hoathienly19 11-23-2020 06:51

NỐT THĂNG TRẦM !
 

NỐT THĂNG TRẦM !



Thuở ấy, vào giữa năm 1956, đoạn cuối con phố sát bờ sông về hướng Sơn-Phong, Hội-An vẫn c̣n hoang vu. Trước khi Chùa Sư Nữ được xây lên, th́ cái băi cỏ rộng bát ngát bên phải đường, kéo dài cho tới mé nước, là nơi để cho bọn con nít chúng tôi tụ tập nô đùa. Thời gian này gia đ́nh tôi ở thuê căn nhà sát cạnh băi cỏ mênh mông đó.

Liền vách nhà tôi là nhà thày giáo Như và cô giáo Ngọc. Phong cách vợ chồng nhà này phảng phất nét cao sang, quư phái. Họ trông rất đẹp đôi. Thày Như có lẽ chưa tới ba mươi tuổi, và cô Ngọc cũng chừng hăm lăm, hăm sáu.

Thày Như rất đẹp trai. Dáng dấp thày lúc nào cũng tao nhă, khoan thai. Đặc biệt, thày có cặp mắt sáng lóng lánh và đôi mày ngài hơi xếch. Cô giáo Ngọc mặt trái soan, mũi dọc dừa. Da cô trắng như trứng gà bóc. Cô để tóc dài. Mái tóc cô đẹp mượt mà, mềm mại như mây.

Cặp vợ chồng nhà giáo này có hai đứa con gái, bé Châu năm tuổi và bé Hạnh hai tuổi. Cô Ngọc dạy tiểu học trên Lai-Nghi. Thày Như dạy trung học trong Tam-Kỳ. Cuối tuần thày lại cưỡi chiếc Goebel về Hội-An. Cḥm xóm thương mến vợ chồng thày lắm.

Ngày nghỉ, bọn con nít chúng tôi hay tụ tập nơi hiên nhà này để nghe cô Ngọc ngâm thơ và thày Như đàn hát. Bé Châu, bé Hạnh bu theo tôi như anh ruột. Chúng nó cứ tranh nhau ngồi trên đùi tôi mỗi khi chúng tôi quây quần trước hiên nhà.

Chiều chiều tôi hay dẫn hai đứa bé ra bờ nước bắt cào cào, châu chấu. Tôi hay xếp những cái thuyền bằng giấy cho hai đứa em thả ven sông. Đôi lần vừa thả thuyền xuống nước, gió đă thổi ào ào cuốn chúng ra xa rồi biến mất trên mặt sóng Thu-Bồn. Hai cô bé đứng dương mắt nh́n theo tiếc rẻ.


Sông bắt nguồn từ đỉnh núi Ngọc Linh cao 2598 mét và đổ ra biển Cửa Đại - Ảnh: Sưu tầm





Cô Ngọc là dân Huế Công Tằng Tôn Nữ, nên giọng ngâm thơ của cô nghe truyền cảm vô cùng. Cô ngâm cho chúng tôi nghe những bài thơ trữ t́nh xưa. Bài thơ mà cô đắc ư nhứt có lẽ là bài “Màu Thời Gian” của Đoàn Phú Tứ. Tôi được nghe cô ngâm nhiều lần bài này. Rồi tôi thuộc bài thơ này trước ngày bước chân vào Đệ thất.

Khi những ngón tay thày Như lướt trên cần ghi ta, tôi có cảm tưởng cả một giàn nhạc đang ḥa tấu. Tôi ngồi say mê ngây ngất theo tiếng đàn của thày thánh thót solo một đoạn “Thiên Thai” hay “Chiều Về Trên Sông”.

Lâu lâu, thày Như kể truyện cho chúng tôi nghe. Cái giọng Quảng của thày lúc đó sao mà trầm ấm thế ! Đôi mắt thày long lanh. Thày thao thao nói về những chiến công của các vị anh hùng lừng danh thế giới. Và có lúc hứng chí, thày kể luôn cả những trận công đồn, đả viện của Việt-Minh thời chiến tranh Pháp-Việt (1945-1954).

Nhiều lần cô giáo Ngọc phải cau mày ngăn không cho thày quá lời về những đề tài kháng chiến, vào bưng, chống Tây. Lũ nhóc t́ chúng tôi, lúc đó mới mười hai, mười ba tuổi, coi thày Như như thần tượng.

Những năm sau nhà tôi chuyển địa chỉ lên khu Hồ Sen chùa Âm-Bổn, nhưng tôi vẫn thường xuống Sơn-Phong thăm gia đ́nh thày Như.

Hè năm 1960 gia đ́nh thày Như đột ngột bán nhà và dọn đi xa. Theo thời gian, kỷ niệm với gia đ́nh nhà này cũng nhạt nḥa dần trong tâm trí tôi.

Tôi lớn lên, t́nh nguyện vào Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam, rồi chọn binh chủng Biệt Động Quân.

Sau Tết Mậu-Thân,
Tiểu đoàn 11 Biệt Động Quân tăng phái cho Task Force South của Sư đoàn 23 Bộ Binh. Chúng tôi tới Blao tham dự hành quân lùng và diệt địch.





Một hôm, nghỉ quân, tôi lang thang trong khu xóm Chùa. Nghe nói, xóm Chùa có nhà ông già “Bàn đèn thuốc phiện”. Dân “Bắn khỉ” thường lén lút tụ tập ở đây. H́nh như ông già Lạc, Thượng sĩ Thường Vụ Đại Đội của tôi cũng hay lai văng chốn này ?

Sau đảo chánh 1963,
vấn đề cấm thuốc phiện có vẻ không c̣n khắt khe như thời Cụ Diệm. Tôi có cảm tưởng rằng không khí trong con hẻm xóm Chùa này đặc quánh mùi thơm do khói nhựa của nàng Tiên Nâu.

Xóm Chùa có những nét đặc biệt, khác với những khu dinh điền chỉ dành riêng cho dân Bắc-Kỳ Di-Cư như Tân-Bùi, Tân-Hóa, Tân-Thanh, Tân-Phát. Xóm Chùa quy tụ dân tứ xứ đến từ mọi miền.

Ở đây dân cư nói đủ giọng Bắc, Trung, Nam, B́nh-Định, Thừa-Thiên, Quảng-Nam, Châu-Đốc... Ở đây có đủ mọi thành phần tôn giáo, Ḥa-Hảo, Cao-Đài, Tin-Lành, Phật Tử sống trộn lộn, gần gũi, sát cánh nhau. Tôi nghe từ cuối hẻm, vọng lại tiếng ngâm thơ,

“Tóc mây một món, chiếc dao vàng

Ngh́n trùng e lệ phụng quân vương

Trăm năm t́nh cũ ĺa không hận

Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng”

(Màu Thời Gian- Đoàn Phú Tứ)

Cái giọng Huế nữ của ai đó nghe thật là năo nuột. Tôi chợt có ư muốn được nh́n một lần cho biết cái “mày hoa ” của người đang ngâm thơ ra sao? Tôi lần bước tới sát hàng rào căn nhà có cái sân lát gạch, nơi phát ra tiếng ngâm. Tiếng ngâm thơ nghe rơ hơn. Tôi giật ḿnh v́ giọng ai nghe quen như tiếng cô giáo Ngọc ?

- Xin lỗi, trung úy có chuyện chi cần hỏi ai ở đây rứa?

Một người đàn bà trung niên đứng bên rào đánh tiếng, khi thấy tôi đang dáo dác ḍm vào nhà.

Thôi đúng rồi ! Cô giáo Ngọc chứ c̣n ai ? Dù cách xa gần chục năm, dù cô đă cắt mái tóc dài, uốn tóc cao, tôi vẫn nhận ra khuôn mặt trái soan và giọng nói Huế Công Tằng Tôn Nữ ngọt ngào của cô.

- Cô giáo Ngọc! Em đây! Long đây cô.

- Xin lỗi, tôi không biết trung úy là ai...

- Cô ơi ! Nhà em ở sát nhà cô và thày Như hồi cô và thày c̣n ở Sơn-Phong, Hội-An. Em hay sang nhà cô chơi, bế bé Châu, bé Hạnh...

Người đàn bà nh́n thẳng vào mặt tôi, chăm chú quan sát. Mắt bà lóe lên một tia vui mừng. Bà ngập ngừng, giọng run run,

- Trung úy... ừ, em Long đó ư ? Mới đó mà gần mười năm qua. Em đă lớn và thay đổi quá hí ? Em đi lính và làm tới trung úy rồi. Em vô nhà chơi đi !

- Vâng, em làm đại đội trưởng, đang hành quân vùng này. Như vậy năm 1960 thày cô đă dọn nhà vào dạy học ở Blao ? Cô và thày Như dạo này ra sao? Thày có nhà không vậy cô ? Hai em Châu và Hạnh chắc lớn lắm rồi ?

Có lẽ câu nói vừa rồi của tôi đă đánh thức những kỷ niệm xưa cũ trong tâm hồn cô, tôi thấy mắt cô rươm rướm lệ,

- Ngày đó nhà cô đi vội quá, không kịp thông báo cho bà con. Từ ấy cô cũng chưa có dịp về thăm chốn cũ. Cô hết đi dạy rồi em ơi. Cô đang làm thư kư trong ṭa tỉnh. C̣n thày th́ đi làm xa, măi dưới Sa-Đéc, lâu lâu mới về. Con Châu năm nay mười bảy, con Hạnh mười bốn, c̣n đang đi học. Hai đứa chở nhau đi mua gạo chắc cũng sắp về. Em vô nhà đi !

Tôi theo chân cô giáo Ngọc vào nhà. Căn nhà hẹp mái tôn trang trí giản dị. Một pḥng khách, một pḥng ngủ. Pḥng khách có cái bàn thờ tổ tiên, và một cái phản gỗ. Trên tường, bên trái bàn thờ là cái bảng đen, bên phải bàn thờ là cây ghi ta, cây ghi ta của thày Như ngày xưa. Cây đàn bị phủ một lớp bụi mỏng. Nó được treo trên tường như một đồ trang trí. Có lẽ lâu lắm rồi không ai nắn phím đàn...


Thác Dambri - Blao






Tôi ngồi chưa nóng chỗ th́ chị em bé Châu và bé Hạnh đă cỡi Honda chở nhau về.

Lần chót tôi gặp gia đ́nh thày Như năm 1960 th́ bé Châu mới chín tuổi, bé Hạnh lên sáu. Nay hai em hàng xóm bé tí năm xưa đă thành hai thiếu nữ duyên dáng, trổ mă. Bé Châu nhận ra tôi ngay,

- Anh Long. Có mấy lần em thấy anh đậu xe trước Quán Duyên bên kia đường, em ngờ ngợ, nhưng không dám hỏi. Với lại... con gái vô duyên mới đi hỏi thăm con trai trước...

Hai cô bé lớn lên ở Lâm-Đồng, hàng ngày học hành, giao thiệp với bạn bè đồng trang lứa ở đây, nên giọng nói của hai em không c̣n chút âm hưởng Quảng-Nam, Huế của cha, của mẹ.

Hôm đó tôi ở lại ăn cơm chiều với gia đ́nh cô giáo Ngọc và ngồi chơi tới gần tối mới về chỗ đóng quân. Khi truyện tṛ, tôi được cô giáo cho biết ngày đó thày Như bị người ta tố cáo là có tư tưởng thiên Cộng nên mất việc.

Gia đ́nh phải cấp tốc bán nhà và dời vào Blao. Cô Ngọc nhờ một người bạn học có thân thế với ông tỉnh trưởng giới thiệu vào làm thư kư trong Ṭa Hành Chánh.

Căn nhà mà gia đ́nh cô đang trú ngụ cũng do người bạn cô cho ở nhờ. C̣n thày Như, để dấu tông tích, phải vào Sa-Đéc làm thư kư cho một hăng buôn nông phẩm của một ông chủ người gốc Hoa.

Cô giáo căn dặn tôi mỗi khi hành quân về, nhớ ghé nhà cô ăn cơm, nghỉ ngơi, đừng đi lang bang nhậu nhẹt mà hư thân mất nết. Tôi cũng mừng rằng sau bao năm xa cách, tôi đă gặp lại một gia đ́nh hàng xóm thân quen. Và như thế là, từ nay tôi cứ việc nại cớ phải về nhà bà con, thay v́ đi theo anh Thiếu úy Đại đội phó Đặng Hữu Duyên vào thăm Trường Nông Lâm Súc.

Anh Duyên có cô bạn gái tên là Thuấn đang nội trú trường này. Cứ về tới phố, anh Duyên lại nhờ tôi chở anh ta tới thả trước cửa sổ pḥng của cô Thuấn. Lần nào cũng vậy, anh ấy cứ nấn ná giữ chân tôi lại, để giới thiệu tôi với những cô gái lạ hoắc !

Cô Thuấn có cả chục cô bạn đẹp ngất ngây. Khổ một điều là, cô nào miệng lưỡi cũng tía lia. Tôi vốn là thằng nhát gái. Đứng trước đám đông khác phái, líu líu, lo lo này, tôi hết hồn, chỉ muốn rút dù.


Chùa Linh Quy Pháp Ấn - Blao






Ngày Thứ Hai tuần sau, [/i][/color][/size][/b]đại đội tôi nhận nhiệm vụ bảo vệ căn cứ hỏa lực cho một pháo đội 105 ly của Hoa-Kỳ và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 /BĐQ /Hành Quân.

Căn cứ này dự trù thiết lập ngay trên khuôn viên nhà máy trà Tứ-Quư. Đồn điền Tứ-Quư đă ngưng hoạt động từ lâu, nhưng dân chúng vẫn lén ra vào khu vực này để thu hoạch trà hàng ngày.

V́ thế chúng tôi không phân biệt được dấu tích để lại trên các đường lô là của Việt-Cộng hay của dân hái trà. Chúng tôi phải rà soát kỹ từng dăy nhà máy, nhà lô, để chắc chắn không đóng quân trên những căn hầm bí mật của địch.

Sau khi hoàn tất ba cái chốt chặn làm tiền đồn xa cho căn cứ, tôi thông báo cho Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn về sự tạm ổn định an ninh để cơ giới tiến vào. Cuộc chuyển quân diễn ra êm ả.

Tôi đặt ban chỉ huy đại đội dưới hiên phía đông của văn pḥng nhà máy. Từ đây tôi có thể quan sát hết khu vực trọng yếu hướng đông nam căn cứ hỏa lực.

Lều bạt của ban điều hành tác xạ Mỹ nằm giữa sân đồn điền.

Lều của Trung Tá Hồ Hữu Dơng, Liên Đoàn Trưởng nằm trong vườn cà phê, ngay sau lưng dàn súng mười sáu khầu 105 ly của pháo đội Hoa-Kỳ.

Ngay từ khi pháo đội dàn quân chưa xong, một máy điện 40kVA đă nổ “b́nh! bịch! b́nh! bịch !” cung ứng điện cho các máy tính to như những chiếc tủ đứng, đầy đèn, xanh, đỏ, tím, vàng, chớp nhóa.

Chiếc máy điện thứ nh́ được đặt sát căn lều của tôi. Trong trường hợp chiếc máy điện thứ nhất bị trở ngại, chiếc máy thứ nh́ sẽ được khởi động để thay thế. Và nếu cái máy chết tiệt này chạy, th́ căn lều của tôi hứng trọn khói thải ra từ cái ống bô to tổ bố của nó !

Tiếng nhạc xập x́nh, vang vang truyền đi trong không gian. Máy radio từ đài tác xạ và từ các ụ súng tranh nhau phát thanh. Các chú lính Mỹ cởi trần, mặt mày hớn hở, mồ hôi nhễ nhại, cần mẫn thiết lập công sự.





Mấy anh lính Biệt Động Quân Việt-Nam của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 sau khi căng lều vơng xong, cũng nhào sang khu pháo binh bắt tay, bá cổ, bá vai, những người bạn Mỹ. Trong sân đồn điền, tiếng nói chuyện của những chiến sĩ Việt-Mỹ líu lo, om x̣m, xí xa, xí xồ :

“Ô Kê ! Sa lem! Năm bờ oăn! Gút ! Gút ! Năm bờ ten! Bét! Bét! Năm bờ oăn thảo giường !”


Nói bằng miệng không thông, đôi bạn đành dùng tay ra dấu. Đi hành quân, và đóng quân chung với Mỹ quả là vui !

Chiều xuống, một chiếc Chinook tới “ hover ” trên sân cỏ giữa khu đóng quân để xịt nước cho quân nhân của pháo đội Mỹ tắm rửa sau một ngày bụi bặm, cực nhọc, vất vả.

Những chú GI cởi truồng tồng ngồng, thay nhau đứng tắm dưới những tia nước phun xuống từ trên trời cao. Khi hai bịch cao su chứa nước treo ṭn ten dưới bụng con tàu đă xẹp lép, chiếc Chinook mới bay đi.

Đêm xuống dần...

Trong lều, khói thuốc chập chờn. Ngoài lều, sương trắng dâng cao. Anh Duyên thủ thỉ :

- Như vậy hết hành quân kỳ này, anh về nghỉ ở nhà bà con. Anh cho tôi mượn chiếc Jeep đi ṿng ṿng. Anh giữ một máy PRC 25. Có chuyện ǵ cần, anh kêu. Năm phút sau, tôi có mặt liền. Được không ?

Tôi chưa kịp trả lời Duyên th́, từ trong núi, hướng đông,

“Cạch!... Cạch!... Cạch! ... Cạch!...”

Tôi vội vàng xỏ đôi chân vào giầy, miệng la lớn :

“ Pháo kích! Pháo kích !”

Tay xách sợi dây ba chạc và tấm bản đồ, tôi nhoài người tụt lẹ xuống hố cá nhân.

Thiếu úy Duyên quơ cái áo giáp chùm lên đầu, rồi nhảy ào xuống hầm cối 60 ly của đại đội.

Binh nhứt Cường và Hạ sĩ Hoàng thủ hai khầu M16 cũng lăn xuống hố sát bên tôi. Tài xế Nguyễn Lác lười biếng không chịu đào hố, giờ này mới quưnh quáng, nhào đại xuống hố của Hạ sĩ Thọ, người nấu cơm cho tôi. Thế là chí chóe.

- Ê ! Cứa thèng ni ! Mi đè lên đầu tau, mần răng tau thấy đường mà bắn hí ?

- Nhờ “chúc” mà! La chi dữ rứa !

Thường vụ Nguyễn Lạc phản ứng nhanh không kém. Ông già vớ cây sắt vuông PSP gơ “ Canh ! Canh !” vào tấm kẻng sắt treo bên khẩu súng cối. Nghe tiếng kẻng báo động, bên phía quân Mỹ và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 BĐQ mới bắt đầu nhốn nháo.

Theo thói quen nghề nghiệp, tay tôi xoay cái địa bàn về hướng phát ra tiếng cối “depart” để đo hướng súng.

Óc tôi đếm nhẩm từ lúc nghe tiếng “ Cạch ” cho tới khi nghe tiếng “Oành” để đo tầm xa. Thế là tôi có thể ước tính ra gần chính xác tọa độ đặt súng của địch .

“ Xè ! Xè ! Xè ! ....Oành ! Oành ! Oành !”


Tôi đoán chắc rằng Việt-Cộng đang pháo kích chúng tôi bằng cối 82. Điểm đặt súng cách chúng tôi chừng 2 cây số.

Một khẩu hướng 1700 ly giác, khẩu kia hướng 1900 ly giác. Hàng chục quả đạn xé gió vèo vèo bay tới. Mái ngói của căn nhà lầu lănh bốn năm trái. Gạch ngói rơi ào ào.

Trên pḥng tuyến và trong sân đồn điền đă có tiếng rên la của người bị thương. Lúc này không ai dám đi tiếp cứu ai cả. Ai cũng lo tránh né đạn, núp trong hầm.





Tôi biết khẩu cối 60 ly của tôi không phải là địch thủ của hai khẩu 82 ly Việt-Cộng, nên tôi nhoài người , với tay lấy cái điện thoại dă chiến gọi cho Ban 3 Liên Đoàn xin phản pháo. Dây điện thoại bị mảnh 82 cắt đứt, chuông điện thoại không reo !

“Xè!... Oành!.. Xè!... Oành!... Xè!... Oành!...”


Một trái cối rớt ngay giữa sân, xé một miếng lều của đài tác xạ. Qua lỗ rách, ánh đèn chiếu ra lấp lóe. Tôi sực nhớ :

“ Súng phản pháo ở ngay đây ! Xin đâu cho xa ?”


Tôi cầm cái bản đồ, chạy ào vào lều tác xạ. Căn lều sáng choang dưới ánh điện. Toán trực ba người của Hoa-Kỳ nón sắt, áo giáp dềnh dàng, đang núp trong hầm truyền tin của pháo đội dựng bằng bao cát giữa lều.

Tôi lật tấm bản đồ, chỉ cho anh sĩ quan trưởng toán hai vị trí pháo địch, yêu cầu anh ta cho phản pháo tối đa, càng nhanh càng tốt. Tôi ló đầu ra cửa hầm la to :

“ Coi chừng tiền pháo hậu xung Duyên ơi !”


Thiếu úy Duyên một tay cầm đèn bấm, tay kia kéo ông Thượng sĩ Lạc, chạy ra pḥng tuyến ngoài của đại đội.

Trận pháo kích diễn ra lâu chừng năm, sáu phút là chấm dứt. Tôi và Hạ sĩ nhứt Đức, y tá đại đội, đi quanh pḥng tuyến, kiểm điểm tổn thất của quân bạn.

Trong khi đó pháo đội Mỹ khạc đạn liên tu bất tận, có lẽ cả trăm viên 105 ly đă tưới lên vùng nghi ngờ có hai khẩu pháo của quân thù.

Đại đội tôi có một người chết và bốn người bị thương. Pháo binh Mỹ có hai anh lính bị thương. Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 BĐQ vô sự.

Một chiếc GMC kéo súng của Mỹ bị bể đầu máy. Hai khẩu đại bác bị xẹp lốp. Chiếc Jeep của tôi bị một mảnh cối đục lủng thùng xăng.

Trực thăng tản thương Hoa-Kỳ được gọi tới cấp kỳ. Hai chiếc Gunships tưới đạn vô tội vạ sát ṿng đai căn cứ, để bảo vệ cho chiếc máy bay tải thương. Tôi phải cho lệnh ba cái tiền đồn chớp đèn để khỏi bị trực thăng vơ trang bắn lầm.

Sau khi tải thương xong, căn cứ hỏa lực Tứ-Quư nằm im thin thít. Đèn đuốc tắt ngấm. Hết tiếng nhạc radio xập x́nh.

Duy nhất chỉ c̣n cái máy phát điện 40KWA là dám “b́nh! bịch! b́nh! bịch!” suốt canh khuya.


H́nh minh họa


Năm giờ sáng Trung Tá Dơng gọi tôi lên gặp mặt và ra lệnh.

- Sáng mai Long cho mở đường ngược ra quốc lộ để Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn và Pháo Binh rút về Đại-Nga.

Suốt đêm, tôi cứ ấm ức v́ cú thua lỗ của đại đội ḿnh, nên tôi đề nghị với người chỉ huy :

- Xin Trung tá cho tôi ở lại trong này hai ngày, hai đêm. Tôi muốn gỡ lại món nợ đêm qua.


Trung tá Dơng ngẫm nghĩ một lát rồi gật gù :

- Không ai bắt em làm việc này. Nhưng nếu em muốn, th́ tôi sẽ làm công điện hợp thức hóa.
Nhớ là chỉ hai ngày thôi ! Và phải thật cẩn thận đó nghe !

Trưa hôm đó việc rút quân của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2/BĐQ và Pháo Binh hoàn tất.

Tôi ra lệnh cho đại đội chuẩn bị sẵn sàng hai ngày cơm sấy và nước uống.

Tuyệt đối cấm khói lửa và hút thuốc trong suốt bốn mươi tám giờ sắp tới. Quân nhân đơn vị tôi đă rất quen với những t́nh trạng căng thẳng như thế này từ khi tôi về chỉ huy họ. Lệnh tôi đă ban ra, th́ mọi người răm rắp nghiêm chỉnh thi hành ngay.

Tôi bung các toán tuần tiễu ra các ngả đường ǵn giữ an ninh để tôi nghiên cứu thực địa, thiết trí một cuộc phục kích.

Hướng nam của nhà máy có một lô trà với h́nh dáng mũi tàu. Bố quân quanh lô trà này, có thể kiểm soát được ba con đường tiến sát từ các hướng đông, đông nam, và nam.





Tôi phân công :


- Trung đội 3 của Chuẩn úy Đinh Quang Biện và khẩu đội đại liên M 60 của Hạ sĩ Nguyễn Bổng sẽ đảm trách công tác phục kích.





- Ban chỉ huy đại đội cùng hai Trung đội 1 và 2 sẽ đóng quân cách khu phục kích hai trăm mét về hướng bắc để tiện di động đánh bọc trái, hoặc phải cho Trung đội 3.

Tôi và khẩu đội đại liên M 60 của Hạ sĩ Nguyễn Nhứt sẽ đi với thành phần tiếp ứng là Trung đội 1 của Trung sĩ 1 Ngọ.

- Thiếu úy Duyên, Thượng sĩ Lạc và khẩu đội cối 60 ly ở với thành phần trừ bị là Trung đội 2 của Thượng sĩ Em.





Tất cả các máy truyền tin sẽ tuyệt đối giữ yên lặng vô tuyến cho tới khi nào có tiếng súng nổ.

Một buổi chiều và một đêm yên tĩnh trôi qua.

Đúng mười giờ sáng hôm sau... súng nổ ! Súng nổ ṛn ră hướng Trung đội 3.

Tôi cảm thấy yên tâm, khi nghe rơ ràng tiếng súng của quân ta đang áp đảo tiếng súng của quân địch.

Chuẩn úy Biện báo cáo :


- Tŕnh Thái Sơn ! Có khoảng mười thằng từ trong rừng đi ra. Chúng nó chạy về hướng bên phải.

- Nhận 5 ! Giữ vững vị trí . Tôi và thằng 1 sẽ lên ngay.

Lập tức, Trung đội 1 cùng khẩu đội đại liên M 60 dàn hàng ngang, vừa bắn vừa tiến về hướng chính nam. Thời gian này đạn dược thật là dư dả, dồi dào.

Tôi thấy rằng, dùng hỏa lực tối đa để áp đảo quân địch, tiết kiệm xương máu cho quân bạn, cũng là một điều hay. V́ thế, mỗi khi chạm trận, tôi cho phép anh em tác xạ thả giàn.

Tới sát con lạch hướng nam, chúng tôi ngừng quân, bố trí và lục soát kết quả. Kết quả thật nghèo nàn, không thấy xác thằng Việt-Cộng nào. Chiến lợi phẩm chỉ là bốn cái mũ lưỡi trai Trung-Cộng rơi trên luống trà và hai băng đạn AK bắn dở dang.

Tôi cho Trung đội 3 dàn hàng ngang lục soát thẳng hướng chính đông, tức là xạ trường chính của cuộc phục kích. Chúng tôi t́m được hai xác địch và hai khẩu AK 47 trên đường phân lô.

Hai tên Việt-Cộng này nằm chết cách tuyến phục kích chừng năm thước. Cách hai cái xác đó không xa là một cái cặp da màu đen, với dây đeo ngang hông, thường dùng cho các cán bộ cấp cao. Cái dây đeo cặp bị đạn bắn đứt, nhưng người đeo cặp đă chạy thoát.





Tôi ra lệnh lục soát kỹ sâu vào hai bên b́a rừng, dọc theo con đường xe be đất đỏ, dẫn về hướng rừng xanh hướng đông.

Đi xa chừng hai trăm thước, chúng tôi phát giác một kho gạo khổng lồ, cao ngất, toàn là loại bao chỉ xanh 100 kg.
Kho gạo nằm dưới tàn cây cao, và được bao bọc che chở bằng những tấm vải nhựa dày màu xanh tránh gió mưa.

Tôi báo cáo tin tức này cho Trung tá Liên Đoàn Trưởng.
Trung tá Dơng rất mừng. Ông ra lệnh cho tôi án binh chờ phương tiện chuyên chở tới đem chiến lợi phẩm về Tiểu-Khu. Xế trưa, sáu chiếc xe be nối đuôi nhau vào chuyển vận hết kho gạo ra tỉnh, và tôi được lệnh rút quân ra quốc lộ.

Ra tới đường, trong khi chờ xe đưa về Tân-Hóa, tôi mới mở cái cặp da chiến lợi phẩm ra xem có tài liệu ǵ quan trọng không.

Cái cặp da chứa một quyển sổ ghi tên các cán binh trực thuộc tỉnh đội Lâm-Đồng của Việt-Cộng.


Một sổ tay ghi chi thu hàng tháng của tỉnh đội. Một sổ công tác cá nhân. Một cái bấm móng tay. Một cái lược nhựa. Đặc biệt trong ruột quyển sổ công tác có một tấm ảnh cỡ 4x6 đă cũ, ép nhựa, tránh ẩm ướt.

Tôi ṭ ṃ ngắm nghía cái ảnh. Th́ ra đó là một cái ảnh gia đ́nh. Một gia đ́nh hai vợ chồng trẻ. Người vợ bế đứa con chừng tám tháng tuổi, có lẽ là con gái. H́nh người đàn bà bị ố vàng, nh́n không rơ mặt. Mặt người đàn ông và đứa bé th́ không bị lem.

Lật mặt sau tấm ảnh, tôi là dân Hội-An, nên hơi giật ḿnh, khi thấy sau lưng tấm ảnh có ghi hàng chữ bằng bút “rông” mực tím, “Fai-Foo 1952”. Như vậy tấm ảnh gia đ́nh này phải được chụp năm 1952 ở Hội-An (Fai-Foo).

Chiều hôm đó đại đội tôi được đưa về băi cỏ phía sau lưng cư xá của nhân công hái trà ở xă Tân-Hóa. Chúng tôi tiếp tục giữ căn cứ hỏa lực và làm trừ bị cho Liên Đoàn 2 BĐQ.

Khi giao nộp tài liệu tịch thu được cho Ban 2 Liên Đoàn, tôi đă giữ lại cái ảnh của gia đ́nh vợ chồng người Hội-An để làm kỷ niệm.

Tối hôm ấy, Thiếu úy Duyên và Chuẩn úy Biện chui vào lều của tôi để uống bia và tán gẫu. Anh Biện chợt hỏi tô i:

- Này Trung úy! Trung úy có tin con người ta có số mạng hay không?

- Làm sao biết được? Có lúc tin, mà có lúc cũng không.

Biện trầm ngâm :

- Chắc là con người ta có số ông ạ! Sáng nay tôi nh́n tận mặt thằng cán bộ đeo cái cặp đi giữa hai thằng bộ đội hộ tống. Tôi thấy rơ cả bộ lông mày xếch ngược và đôi mắt sáng quắc của nó đảo qua, đảo lại.

Tôi đă chờ cho ba tên đi đầu c̣n cách bốn năm thước mới khai hỏa. Hai mươi lăm khẩu M16 và một khẩu M 60 bắn như mưa mà chỉ có hai thằng chết. Mà cái thằng đứng gần nhứt lại không chết, th́ có phải là con người ta có số không ?

Tôi rút cái ảnh chiến lợi phẩm ra, đưa cho Biện :

- Có phải thằng cán bộ đeo cặp là người này không?

Anh trung đội trưởng nheo mắt ngắm tấm ảnh :

- Giống lắm ! Nhưng người trong ảnh trẻ hơn nhiều .

Hôm sau tôi căn dặn Thiếu úy Duyên ở nhà trông coi đại đội để tôi về phố hớt tóc và ghé hậu trạm kư sổ ứng tiền ăn tháng tới. Trước khi trở về vị trí đóng quân, tôi tạt vào thăm gia đ́nh cô giáo Ngọc vài phút, nhân tiện cho cô xem cái ảnh của người Hội-An.

Tôi tới xóm Chùa vào lúc cô giáo về nhà nghỉ trưa. Bé Châu và bé Hạnh đi vắng.

Thấy tôi, cô ân cần :

- Em mới về hả ? Tiện bữa, ngồi ăn cơm với cô nhé. Cơm rau mắm thôi.

- Cám ơn cô, em ăn cơm rồi. Em ghé thăm cô vài phút rồi đi liền.

Tôi lục túi, lấy tấm ảnh đưa cho cô giáo :

- Cô xem có quen ai trong ảnh này không?

Cô giáo thấy tôi từ chối ăn cơm, cô có vẻ không vui :

- Cô ít giao thiệp lắm. Cô không có nhiều bạn. Chắc cô không biết ai mô !

Cô hờ hững không thèm đưa tay nhận tấm ảnh. Tôi ch́a cái ảnh trước mặt cô. Cô miễn cưỡng nh́n cái ảnh. Mắt cô vụt sáng lên ngạc nhiên. Cô giáo giựt tấm ảnh trên tay tôi, giọng cô có vẻ mất b́nh tĩnh :

- Em... em... nhặt được tấm h́nh ni ở mô rứa? Tấm h́nh ni anh Như giữ. Mần răng nó tới tay em được?

Rồi h́nh như cô sực nhớ ra điều ǵ đó, cô b́nh tĩnh, ôn tồn trở lại :

- Ừ cô nhớ ra rồi, trước khi rời Hội-An, anh Như đă đưa cái h́nh ni cho bên nội. Chắc người bên nội đưa nó cho em?

Quả thực khi đưa cái ảnh cho cô giáo Ngọc xem, tôi chỉ có ư nghĩ là cô ở Hội-An từ trước ngày Hiệp Định Genève kư kết, có thể cô quen biết gia đ́nh người trong ảnh. Tôi đâu ngờ diễn tiến sự việc lại xoay qua một chiều hướng không lường trước.

Chẳng biết xử trí ra sao, tôi đành nói đại :

- Hôm qua có anh lính nhặt được cái ảnh này trong sở trà Tứ-Quư. Em nghi là của gia đ́nh cô nên mang về cho cô.

Không dè, nghe tôi nói thế, cô giáo cuống cuồng,

- Em nói răng ? Em nhặt được nó trong Tứ-Quư ư ? Có thật không rứa ?

- Em nói thật mà . Nhưng v́ cớ ǵ mà cô lo sợ như thế ?

- À... không... không, cô có lo sợ chi mô em...

Vừa khi đó th́ có tiếng xe Honda rồ ga lên dốc. Chắc bé Châu, bé Hạnh đă về.

Cô giáo nh́n tôi khẩn khoản :

- Em ơi ! Em thương cô th́ đừng tiết lộ cho ai biết chuyện tấm h́nh ni, kể cả hai đứa nhỏ. Cô van em đó ! Em ơi...

- Vâng, em sẽ không nói ǵ về cái ảnh này nữa. Thôi em đi nhé. Hôm nào rảnh, em sẽ về thăm cô.

Tôi ra cửa đúng lúc hai cô nữ sinh Trung Học Bảo-Lộc vào tới sân. Hai đứa em tíu tít :

- Anh Long mới về? Ủa mà sao anh lại đi liền ? Bộ anh chê cơm nhà nghèo không ở lại ăn với chúng em hay sao?

- Anh phải đi ngay. Anh đi hành quân.

Sáng hôm sau Trung tá Dơng cho người xuống mời tôi lên lều của ông để uống cà phê và ăn xôi đậu phọng. Ông nói,

- Chú tịch thu được kho gạo lớn quá. Ông Tướng Ân vừa gọi máy hứa, sau khi kết thúc chiến dịch sẽ tưởng thưởng xứng đáng cho đại đội của chú. Ông muốn khích lệ tinh thần của anh em, nên trưa nay, nhân dịp đi gắn huy chương cho Địa Phương Quân Tiểu-Khu Tuyên-Đức, trực thăng của ổng sẽ ghé đây bốc chú và một anh binh sĩ xuất sắc nhất đại đội về Đà-Lạt nhận huy chương trước.

C̣n tiếp ,

hoathienly19 11-25-2020 08:01



Bốn mươi ba năm sau, tháng Ba năm 2011,
ông cụ Nguyễn Bổng, sáu mươi bảy tuổi, cựu Biệt Động Quân xạ thủ đại liên M 60, hiện đang sống ở Denver, tiểu bang Colorado Hoa-Kỳ, qua điện thoại, với giọng nói B́nh-Định rặt, nửa vui sướng, nửa bùi ngùi, nhắc lại kỷ niệm này .

“Ngày đó chỉ có tui với Trung úy
được bốc về sân vận động Đà-Lạt để cho ông Tướng Ân gắn huy chương. Hănh diện quá chừng chừng…”

Sau chiến tranh cả mấy chục năm, khi gặp lại, đồng đội cũ của tôi ở Đại đội 1/11BĐQ vẫn kêu tôi là trung úy :

“Trung úy ơi ! Trung úy dạo này có mạnh khỏe không ?…”


Sau khi Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 di chuyển lên Tùng-Nghĩa th́ đại đội tôi cũng lên vùng núi Voi và Đơn-Dương để hành quân diều hâu. Cho tới cả tháng sau tôi mới có dịp trở về ứng chiến ở sân bay Con Hinh Da, Bảo-Lộc.

Bố quân xong, tôi lên xe trực chỉ xóm Chùa.

Tới nhà cô giáo Ngọc, tôi thấy căn nhà vắng lặng. Ông già “Bàn đèn thuốc phiện” ló đầu ra khỏi cửa gọi :

– Ông Trung úy ơi! Có người gửi thư nhờ tôi đưa dùm cho ông đây.

Lá thư cô giáo viết cho tôi chỉ vỏn vẹn có mấy gịng, không ghi ngày tháng, không có tên người nhận, và người viết cũng không kư tên .

“Cô cắn cỏ ngậm vành ghi tạc ơn em.
Mong em giữ kín trong ḷng đừng cho ai biết rằng em đă quen biết gia đ́nh cô.

Hăy hứa với cô rằng em sẽ quên tất tận cả những ǵ em biết về gia đ́nh này nhé em! Cám ơn em và chúc em vạn phần may mắn. Vĩnh biệt ! Cô của em.”

Căn nhà tuy khóa cửa chính, nhưng cửa sổ vẫn mở. Tôi nh́n rơ vật dụng trong nhà vẫn y nguyên. Kể cả cây ghi ta vẫn c̣n trên tường. Như thế tôi hiểu rằng lúc dọn nhà, chắc mẹ con cô giáo đă vội vàng, hấp tấp lắm.

Tôi thẫn thờ bước chân xuống đồi. Tôi và gia đ́nh cô giáo Ngọc xa nhau tám năm. Vừa mới gặp lại hai ngày, nay đă chia ly lần nữa.

Trở về phi trường, tôi nói với anh Duyên rằng, anh ấy có thể lấy xe đi đâu th́ đi, đi tới bao giờ về cũng được, đừng lo lắng ǵ cả.




Nằm trong lều, vắt tay lên trán, tôi ôn lại những chuyện xảy ra trong thời gian đă qua.
Chuyện rơ như ban ngày, sao tôi không nghĩ ra nhỉ ?

Năm 1960 là năm bọn
“Mặt Trận Dân-Tộc Giải-Phóng Miền Nam” ra đời. Cuối hè năm đó, học sinh Hội-An thiếu ǵ người bỏ học, vào bưng ?

Dịp này, thày Như đem gia đ́nh vào Blao, nơi xứ lạ, để không ai biết gốc gác lai lịch gia đ́nh thày. Không phải lo lắng chuyện nhà, thày Như có thể yên tâm đi theo ư nguyện của ḿnh. Chắc cô giáo Ngọc biết chồng cô đang hoạt động trong địa phận tỉnh Lâm-Đồng này, nên bất ngờ thấy tấm ảnh cũ, cô lo sợ, dấu diếm quanh co.

Cô nói trớ ra rằng nó đă được chồng cô giao cho người bên nội giữ, nhưng cô quên trước đó vài ngày cô đă kể cho tôi chuyện chồng cô là người cuối cùng của ḍng họ Vơ ở thôn Trà-Đ́nh 2, Hương-An, Thăng-B́nh, Quảng-Nam.

Như vậy, tên cán bộ Việt-Cộng bị đại đội tôi giết hụt ở Tứ-Quư không ai khác hơn là thày Như !
V́ sợ tôi tiết lộ việc này cho con của cô biết, và sợ bị kết tội liên lụy với Việt-Cộng, nên cô Ngọc vội vàng dẫn con ra đi.

Một thời gian sau, v́ bận bịu công việc, tôi cũng không bận tâm thêm chuyện nhà thày Như, cô Ngọc.

Đầu tháng Chín năm đó, Chuẩn tướng Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh tử nạn. Giữa Tháng Mười, đơn vị tôi về ở hẳn Pleiku, không c̣n trở lại Blao, Đà-Lạt nữa.





Năm 1975 thua trận, tôi đi tù.


Từ khi khôn lớn, vào đời, tôi chỉ chọn có một nghề, đó là nghề làm lính. Suốt thời gian 12 năm làm lính, tôi quanh quẩn sống trong rừng. Vốn liếng tay nghề của tôi chỉ có rừng.

Sau 13 năm tù “cải tạo”, được tha, tôi lạc loài trong thành phố Sài-G̣n. Tôi đă xoay xở nửa năm, mà không t́m ra cách ǵ để sống. Cuối cùng, tôi đành t́m đường lên núi kiếm ăn.

Tôi quyết định lên Đà-Lạt, vào núi Lap Bé Nord đào thiếc. Phong trào đào vàng, đào thiếc đang rầm rộ ở đấy.

Thế là, đúng hai mươi năm sau ngày đại đội tôi từ giă Blao, nay hoàn cảnh bắt buộc, tôi đành miễn cưỡng quay về chốn xưa.

Chiếc xe đ̣ chở tôi rời Sài-G̣n từ sáng tinh mơ. Xế chiều xe mới tới Đà-Lạt. Tôi lên Đà-Lạt, tá túc tại nhà đứa cháu gái gọi tôi bằng cậu. Nhà cháu tôi nằm bên phường 8, cách Nguyên-Tử-Lực Cuộc một cái thung lũng. Tôi ở trên dốc, dưới dốc có một ông trung sĩ cảnh sát chế độ cũ đang làm nghề đào thiếc. Tôi mon men tới nhà ông ta để làm quen, và xin tháp tùng kiếm ăn.

Khi gặp ông cựu cảnh sát Việt-Nam Cộng-Ḥa, tôi nói chuyện với ông ta bằng thứ tiếng Bắc một trăm phần trăm Hải-Dương. Ông ta tưởng tôi từ ngoài Bắc mới vào nên không thắc mắc ǵ nhiều, vui vẻ cho tôi theo ông vào vùng kiếm “xái”.

Ông cảnh sát này mới lấy vợ kế. Vợ cả của ông ta vừa chết. Vợ kế của ông chính là người em dâu của ông ta. Em trai ông cảnh sát là trung úy chế độ cũ, đă chết trong trại cải tạo. Ông cảnh sát không phải đi tù. Ông thương em dâu góa bụa, thương đàn cháu côi cút, nên vợ ông vừa chết là ông lấy bà em dâu làm vợ luôn.

Sau một tuần lễ cộng tác với ông cảnh sát và thằng cháu, cũng là con riêng của vợ ông, chúng tôi bị “mo”. ( “Mo” tiếng Pháp là “mort”, có nghĩa là chết, là thất bại.)





Tôi đành giă từ Đà-Lạt tụt xuống Đức-Trọng, ṃ vào K3 đào vàng.

H́ hục gần mười ngày, “mo” vẫn hoàn “mo”, đến nỗi tôi không c̣n tiền để đi một chuyến xe thồ về nhà người chị họ ở Đức-Trọng. Có một điều đáng nói là, dân đi đào vàng ở đây, nếu chịu giao thiệp rộng một chút, rất khó bị chết đói. Ngày nào cũng có những đám tiệc cúng tổ.

Cứ xong một giếng, thu hoạch vàng xong, các toán đều trích ra một số vàng để đăi đằng trước khi chia phần. Tôi ở đây mới có hơn tuần lễ mà bà con đă nhẵn mặt, mời ăn nhậu tưng bừng, không ngày nào bị đói.

Rồi một sớm mai có chiếc xe thồ bị tụt xuống hố. Tôi nhanh nhảu giúp anh chủ xe một tay, kéo chiếc xe lên. Anh ta và tôi đều là dân Bắc-Kỳ Di Cư. Hỏi ra, anh ấy ở cách nhà bà chị tôi có vài khu vườn. Thế là anh chàng đồng ư chở tôi về tới nhà bà chị tôi rồi mới lấy tiền.

Tôi không phải là người khách độc nhất của một chuyến thồ. Tôi phải chờ hai người khách nữa cho đủ số ba người cho một cuốc xe. Trong thời gian chờ khách, tôi và anh chủ xe ngồi tán gẫu.

Hóa ra anh ta đang học năm cuối cùng Quốc-Gia-Hành-Chánh th́ Việt-Nam Cộng-Ḥa sụp đổ. Tới lúc bấy giờ tôi mới thổ lộ cho anh ta biết tôi là một cựu thiếu tá tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa vừa mới ở tù ra. Nghe vậy, anh ta kéo tay tôi, bắt tôi leo lên xe, không thèm chờ rước thêm khách nữa. Anh ta sẵn sàng chở giúp tôi về nhà không lấy tiền !





Chúng tôi vừa ra khỏi K3 chừng hai cây số th́ nghe phía trước mặt, trong rừng bên đường có tiếng kêu la, “Lạy hai anh tha cho em…”

Chú Lượng, chủ xe thồ ngừng xe quan sát. Trong rừng thưa bên đường, hai thanh niên mặc đồ bộ đội đang dùng hai khúc cây phang cật lực vào đầu một anh xe thồ để cướp cái Kamaz Liên-Xô.

Bị hai khúc củi đập tới tấp lên đầu, lên vai, nhưng anh chàng xe thồ vẫn không chịu buông cái xe ra. Buông tay ra, là mất xe ! Thà chết, chứ không bỏ của!

Vừa van lạy, vừa chửi rủa, anh xe thồ cứ lăn vào ôm cứng lấy cái Kamaz, dai như đỉa.

Có lẽ nạn nhân đă thấy chúng tôi, nên anh ta la lớn,

– Bớ người ta! Ăn cướp! Ăn cướp giết tôi cướp xe! Cứu tôi với bà con ơí!

Chú Lượng nói nhỏ vào tai tôi :

– Tụi bộ đội nó chơi bạo lắm. Ḿnh can thiệp vào, nó chơi ḿnh luôn. Hay là ta quay lại gọi thêm người phụ giúp. Anh tính sao?

Tôi nghĩ, nếu quay trở lại, chưa chắc đă có ai vui ḷng đi theo giúp. Mà dù cho có người đi theo, th́ khi tới nơi, anh chủ xe thồ có lẽ đă chết mất rồi !

Chợt nghĩ ra một kế, tôi vừa nháy mắt ra dấu cho Lượng, vừa hét lớn,

– Đưa khẩu súng cho tao! Tao bắn vỡ óc hai thằng ăn cướp này!

Lượng làm bộ chần chừ. Rồi anh cũng gân cổ nói cho to

– Anh bắn th́ anh chịu trách nhiệm nghe! Tôi chỉ làm chứng thôi đó!

Tôi hét lớn

– Á!… Á!… Hai thằng chó này tới số rồi! Chết nghe con! Á!… Á!…

Tôi và Lượng vừa quát tháo, vừa từ từ bước tới. Chú Lượng làm bộ lục lọi cái xách tay chú đeo ngang hông để t́m vũ khí.

Hai thằng ăn cướp thấy hai chúng tôi hùng dũng quá, chúng nó sợ bị bắn chết, nên vứt hai khúc củi, ù té chạy bán sống, bán chết xuống chân đồi.

Anh chủ xe bị cướp quỳ xuống đất vái lấy vái để

– Em xin quỳ lạy tạ ơn cứu mạng của hai ông. Suốt đời em ghi ḷng tạc dạ công lao của hai ông.

Chú Lượng thực tế hơn :

– Ê bồ ! Ơn với oán cái con khỉ khô. Một chầu nhậu là xong hết.

Sau đó hai chiếc xe thồ phóng vèo vèo trực chỉ hướng chợ Đức-Trọng.

Tới chợ, anh Nam, cựu nghĩa quân, chủ xe bị cướp, trịnh trọng mời tôi và Lượng vào quán ăn của một bà chủ người Tàu.

Chú Nam kêu không biết bao nhiêu món, gồm đủ vịt, gà, ḅ, heo, tôm, cá để thiết đăi chúng tôi.


Thác Pongour- Đức Trọng- Lâm Đồng






Trong lúc tôi đang ngất ngưởng, ngà ngà, th́ ngoài sân chợ bỗng nhốn nháo hẳn lên, không biết v́ lư do ǵ. Thấy lạ, tôi bước ra cửa đảo mắt nh́n.

Một chiếc xe con của bộ đội từ hướng Liên-Khương chạy xuống đậu sát hàng hiên một tiệm trà. Nơi đó, một người hành khất già đang nằm ngủ, ngáy kḥ kḥ.

Một thượng úy công an và một công an viên bước xuống. Viên thượng úy cười h́ h́ :

“ Thôi về đi thủ trưởng !”

Hai tay công an áp vào khiêng ông cụ lên, đặt trên ghế sau. Họ cũng cuốn gói đồ lề của ông cụ gồm một cái mũ lưỡi trai, một cái nón mê, và một cây dao quắm bỏ vào thùng xe, rồi trở đầu xe chạy đi.

Bà chủ tiệm trà chơ miệng ra cửa, nhiếc một câu :

– Giầu bỏ bạn, sang bỏ vợ. Cho đáng đời cái đồ mê gái !

Tôi trở lại bàn th́ chú Lượng lắc đầu :

– Ôi! Để ư làm ǵ tới cái thằng khùng này. Thứ ǵ ngu như chó! Quyền cao chức trọng không muốn, muốn đi ăn xin.

– Chú biết lư lịch của ông ăn mày này à ?


– Ở đây ai mà không biết tay này ? Ngày xưa y là con hùm xám, hét ra lửa đấy.
Nhưng y ỷ thần, ỷ thế, hăm hiếp một cô nhân viên dưới quyền, nên mất chức . Đến khi vợ lăo chết, lăo thành khùng luôn.

– Công an vừa hốt ông ta đi, chắc là nhốt vào nhà thương điên ?

– Bắt với nhốt cái con tiều ! Cả chục năm nay tên đó cứ lang bang hết chợ Đức Trọng, đến chợ Tùng Nghĩa, chửi bới, khóc lóc om x̣m, rồi lăn quay ra ngáy. Hôm nào hên, có mấy thằng học tṛ cũ hốt về nhà cho ăn ngủ, c̣n không th́ cứ ngủ bờ, ngủ bụi thôi .

– Chắc cái xe công an vừa rồi là của người quen ông cụ ?

– Tay này ngày xưa đi theo hầu, làm đồ đệ của lăo già đó . Nay anh ta lên tới thượng úy đồn trưởng.

– Thế th́ gia đ́nh vợ con ông ta ở đâu ?

– Nhà lăo ở trên Phil-Nôm, nhưng từ khi vợ lăo chết, lăo không bén mảng về nhà nữa .

– Chú Lượng có vẻ rành gốc gác ông điên này quá ?

– Thực ra, em cũng chỉ nghe đồn thôi.

Anh Nam châm thêm rượu đế vào ly của tôi rồi hối :

– Nhậu tiếp đi đại ca ! Chuyện thằng già dịch ấy, nói tới mai chưa hết. Ai đời ? Con gái người ta mới mười bảy, mười tám mà lăo dám đè ra hiếp công khai trong văn pḥng. Gớm thiệt!

– Chắc chú Nam rành về ông già này hơn chú Lượng?

– Th́ có ai tận mắt chứng kiến những ǵ lăo ác ôn này gây ra đâu ? Gia đ́nh lăo ở đây từ cuối 1975, nhưng lăo làm việc trên Tỉnh Đội, lâu lâu mới ghé về nhà.

Em nghe người ta nói lại, thời chống Mỹ, lăo là Huyện Đội Trưởng hay Tỉnh Đội Trưởng ǵ đó dưới Blao, công lao ghê gớm lắm. Sau khi tiếp thu Đà-Lạt, lăo làm lớn lắm. Đùng một cái, cuối 1977 lăo bị mất chức về nằm bẹp trong nhà. Sau đó vợ lăo tự tử, lăo hóa khùng, đi lang bang cả chục năm nay.





Chúng tôi đánh chén xong th́ trời xế trưa. Anh Nam xin phép về nhà lo thuốc thang chữa chấn thương đầu, cổ. Tôi và chú Lượng cũng chia tay.

Chuyện “người điên ở chợ” tôi c̣n được nghe nhiều người thuật lại, mỗi người nói mỗi khác.

Năm 2003, ở Hoa-Kỳ
có người bạn làm cùng sở với tôi kể rằng, năm 1980 khi đi đào đá quư ở Tân-Bùi, Blao, anh ta tận mắt chứng kiến cảnh một tên cán bộ cấp cao của Việt-Cộng bị điên, đầu đội cái nón mê, tay xách con dao quắm, suốt ngày đi lang thang, nói năng lảm nhảm, chửi bới om x̣m ở chợ Tân-Bùi.

Nghe đâu tay cán bộ này giàu sụ, có cô bồ nhí xinh như đào xi nê. Một hôm, cô bé đem cầm, bán hết giấy tờ sở hữu ruộng vườn, xe cộ của ông thủ trưởng, đồng thời thay mặt ông, hốt sạch cả chục chân hụi lớn, hụi nhỏ, rồi ôm tiền của, cùng anh kép trẻ dông đi mất biệt.

Mất của, lại thất t́nh, ông thủ trưởng già hóa rồ, hóa dại, đội cái nón mê, ôm con dao quắm đi truy lùng, truy sát kẻ bạc t́nh.

H́nh như nhà anh chàng trẻ tuổi, t́nh địch của lăo già thủ trưởng Việt-Cộng ở Tân-Bùi th́ phải ?

Nhà chị tôi ở cách chợ Đức-Trọng không xa lắm. Tôi quyết định nghỉ ngơi vài ngày rồi mới xoay xở tiếp.

Hai hôm sau tôi t́m được một chân giữ lô trên Prenn. Làm việc này tuy nhàn nhă nhưng nguy hiểm quá!

Một ḿnh nằm trong căn cḥi lá giữa rừng không tấc sắt trong tay. Xế chiều, một xe bộ đội ghé đít vào khuân đi vài tấm ván xẻ. Nửa đêm, một xe bộ đội ghé đít vào khuân đi vài khúc bằng lăng. Người gác lô (là tôi đây) hỏi :

- “ Các ông có giấy ủy quyền chở gỗ đi không ?”th́ khách vỗ bành bạch vào cái bao K54 bên hông :

“Bộ nhà anh mù, không nh́n thấy cái giấy ủy quyền này hay sao mà c̣n hỏi ?”

Hóa ra lô này chứa gỗ của bọn khai thác lậu. Bộ đội chỉ cần hù một câu là có thể chở đi một xe tỉnh bơ. Tuần sau tôi bỏ việc.





Tôi trở về Sài-G̣n phụ giúp một anh bạn đi bán quần áo cũ (c̣n gọi là đồ SIDA) một vài lần, cũng chẳng thấy khá.

Tôi ḷ ṃ tới nhà ông Trung tá Huỳnh Văn Lộc, cựu Liên đoàn trưởng Liên đoàn 25 BĐQ để hỏi cách đi buôn thuốc Tây. Ông anh chỉ vẽ đường đi, nước bước, tận t́nh hết ḿnh.

Chuyến ra quân đầu tiên buôn thuốc Tây, chưa đi khỏi Tân-Cảng tôi đă bị công an túm. Mất toi cả chỉ vàng tiền vốn.

Bí quá, tôi lại lên rừng. Kỳ này th́ hên. Ông anh rể vừa thấy mặt tôi đă reo lên,

– Cậu lên vừa đúng lúc. Vựa cà phê nhà chị Phú Phil-Nôm đang cần chân đốc công, lương hậu, cậu có nhận không ?

– Chơi liền ! Buồn ngủ mà gặp chiếu manh th́ c̣n ǵ bằng ?

Hôm sau ông anh rể tôi chở tôi lên vựa cà phê nhận việc .

Vựa cà phê chị Phú ở ngay con dốc giữa ngă ba Quốc lộ 20 và ngă rẽ về Đơn-Dương. Đất đai hai bên đường của khu vực này được chia ra thành nhiều lô bằng nhau để cấp phát cho gia đ́nh công nhân, bộ đội tự canh tác, cải thiện.

Chồng chị Phú làm việc trên Ty Nông-Nghiệp. Lợi dụng địa thế thuận tiện lưu thông, chị Phú dựng lên một vựa thu mua nông phẩm kiếm lời.

Nhiệm vụ của tôi là cân nhập cà phê, đậu xanh, đậu nành, đậu phọng, rồi hướng dẫn hai cô nhân công chuyển vào kho ; cân xuất hàng ; kiểm soát hai cô nhân công đưa đủ hàng lên xe cho khách; kư biên lai; nhận biên lai ; tổng kết sổ chi thu hàng ngày.

Tôi làm việc trôi chảy được hai ngày. Hôm sau nữa, nhân lúc rảnh, chị Phú nhờ tôi leo lên mái kho, trét nhựa đường vài lỗ dột. Cái thang nhà này đang mắc kẹt chống đỡ buồng chuối tiêu mắn quả sau hiên. Chị Phú chỉ tay sang nhà hàng xóm,

– Anh sang nhà cô Hương nhờ cô ấy cho mượn cái thang một lát.

Sát hàng rào của vựa cà phê là một khu vườn rộng, có giàn su su và những luống đu đủ. Giữa vườn, là một cái nhà tôn, có sân lát gạch để phơi nông phẩm.

Theo lệnh bà chủ, tôi xăng xái đi sang nhà hàng xóm

– Cô Hương ơi ! Cô Hương có nhà không?

Có tiếng trả lời từ sau nhà

– Tôi ở trong vườn su. Ai đó cứ vào đi.

Tôi ḷ ḍ đi ṿng ra phía sau nhà.

Bên một gốc đu đủ, người chủ nhà nghe tiếng chân tôi, bèn quay mặt lại

– Ông cần hỏi chi ?

Dưới nắng ban trưa, đứng trước mặt tôi, rơ ràng là cô giáo Ngọc !

Cũng với cái áo bà ba mầu xanh điểm hoa khế hồng, và cái quần đen, bộ quần áo cô mặc hôm tôi về đưa cho cô cái ảnh gia đ́nh mà tôi tịch thu được trong mật khu Tứ-Quư. Hai mươi năm qua rồi mà mặt cô vẫn y như xưa, không khác tí ti nào.

Tôi buột miệng :

– Cô giáo Ngọc! Cô ơi! Cô đó ư?

Người đàn bà giật ḿnh hoảng hốt

– Ủa! Sao ông lại kêu tôi là cô giáo Ngọc ? Ông là ai vậy ?

Tôi nh́n dán mắt vào mặt người đàn bà. Á ! mà có chút khác ! Cô giáo Ngọc bây giờ trông ngăm ngăm, chứ không c̣n trắng bóc. Giọng nói của cô th́ hoàn toàn xa lạ. Không phải cái giọng Huế Công Tằng Tôn Nữ nữa rồi ! Hay là tôi đă nhầm người ?

Tôi găi đầu

– Thưa bà, tôi xin lỗi, tôi lầm bà với một người quen của tôi.

– Ông ơi ! Ông là ai ? Ông nói người quen của ông là cô giáo Ngọc có phải không?

– Vâng ! Bà giống cô Ngọc như đúc, nhưng bà không phải cô Ngọc . Cô Ngọc người Huế . Bà không phải cô ấy.

Người chủ nhà lại thúc giục :

– Ông nói cho tôi biết đi ! Ông là ai ?

– Tôi xin lỗi bà, tôi tên Hai, là người làm công của vựa cà phê bên hàng xóm. Tôi sang đây mượn cô Hương cái thang về xài một lát. Tôi xin gặp cô Hương.

– Tôi là Hương đây ! Nhưng tôi hỏi ông. Ông quen biết như thế nào với cô Ngọc ? Tôi là con gái cô Ngọc đây, c̣n ông là ai?

Tôi lắc đầu lia lịa .

– Con cô Ngọc chỉ có bé Châu và bé Hạnh, không có ai tên là Hương cả.

Người đàn bà như bị choáng váng, giọng bà ta run run .

– Như vậy ông có phải là anh Long không ? Anh Long !

– Vâng tôi là Long, c̣n bà là ai ?

– Bé Châu đây ! Anh Long ơi !

Bé Châu ̣a khóc. Năm nay (1988) bé Châu ba mươi bảy tuổi, đúng y chang tuổi của cô giáo Ngọc năm Mậu-Thân (1968) khi gặp tôi ở Blao.

Bé Châu giống cô giáo Ngọc như đúc. Có khác chăng là làn da, và giọng nói. Hèn nào tôi không lầm cho được ?





Bé Châu nắm tay tôi, kéo tôi lên nhà trên. Miệng cô em tíu tít chưa hết chuyện này đă nhảy sang chuyện khác, chẳng đâu vào đâu.

– Từ từ đi Châu ! Cô cứ nói lung tung như thế này th́ ai mà hiểu được cô muốn nói cái ǵ . Việc đầu tiên anh muốn biết là mẹ em và bé Hạnh bây giờ ra sao ? Có tin tức ǵ của ba em không ?

Tôi vừa cười vừa nhắc cô em hàng xóm.

Bé Châu như tỉnh ngủ .

– Ừ nhỉ, em nói năng lộn xộn quá. Chỉ v́ em mừng quá đó anh ơi ! Mẹ và bé Hạnh mất rồi . C̣n Ba th́ đă… hóa điên . Anh ngồi chơi đây, em đi nấu nước pha trà . Ngồi đây chờ em, đừng đi đâu anh nhé !

Nhóm bếp xong, bé Châu chạy vội lên nhà trên

– Anh kể cho em nghe đi ! Sau đó anh c̣n ở Blao không ? Anh lấy vợ lúc nào ? Có mấy cháu rồi ? Anh đi học tập có lâu không ? Ngày anh về, gia đ́nh anh có thay đổi ǵ không ?

Tôi ngồi tường tŕnh :

– Bốn tháng sau ngày nhà em dọn đi, th́ đơn vị anh về Pleiku ở luôn, không c̣n trở lại Blao nữa. Anh có vợ và có bốn đứa con rồi. Sau Ba Mươi tháng Tư năm 1975 gia đ́nh anh về tá túc ở nhà của mẹ anh, trong khu chợ Nancy Sài-G̣n.

Anh đi tù “cải tạo” mười ba năm, mới được tha ra cách đây nửa năm. Anh đang đi làm công để phụ giúp vợ, nuôi con.

Bé Châu trợn mắt,

– Anh đi học tập cải tạo tới mười ba năm lận ! Lâu quá vậy ? Chắc chị ở nhà vất vả lắm anh nhỉ ?

– Chị làm thợ may và buôn bán làng nhàng để nuôi con. Cũng khổ lắm.

– Tội nghiệp chị ! Con th́ đông, chồng lại vắng nhà cả chục năm không thấy về,vậy mà chị vẫn kiên tâm vất vả nuôi con chờ chồng. Anh là người có phước lắm đó!

Lúc ấy có tiếng cô Nhi, người giúp việc của chị Phú réo trước cửa,

– Anh Hai ơi ! Về cân hàng ! Có khách chờ ! Chị Phú nói anh sang mượn cái thang,hay sang ngủ ở nhà cô Hương mà cả buổi chưa chịu về ?

Nghe tiếng gọi, tôi vội đứng lên .

– Thôi, mai Chủ Nhựt rảnh, anh sẽ lên nói chuyện tiếp. Anh phải về làm việc bây giờ .

Tôi chạy vội ra cửa .

Chị Phú mặt hầm hầm,

– Anh làm ăn đàng hoàng chứ không tôi đuổi đó !

Tôi chẳng tiện phân bua với bà chủ làm ǵ. Tôi cứ lặng thinh làm phận sự của người làm công.

Từ đó tới chiều, bên hàng rào cứ thấp thoáng bóng dáng bé Châu ngóng cổ sang để t́m tôi .

Bên cót đậu phọng, cô Nhi mắt len lén theo dơi cử chỉ của người hàng xóm, miệng nhỏ to với bà chủ :

– Anh chàng trông khù khờ mà đào hoa dữ a! Bà chủ th́ mặt sưng như tấm thớt.


C̣n tiếp ,

hoathienly19 11-26-2020 00:36



Hôm sau là ngày Chủ Nhật,
được nghỉ, tôi mượn cái xe đạp của ông anh rể, lọc cọc đạp lên nhà bé Châu.

Sau khi khóc lóc đă đời, Bé Châu ngồi kể cho tôi nghe một truyện dài hai mươi năm.

Ngay buổi trưa tôi ghé nhà em lần cuối cùng,
Cô Ngọc bắt bé Châu chở cô vào văn pḥng tỉnh, xin lănh trước một tháng lương, rồi xin nghỉ phép một tuần v́ việc gia đ́nh.

Sau đó, hai mẹ con sang trường Trung Học Bảo-Lộc xin rút học bạ để chuyển trường. Chiều đó cô Ngọc đem chiếc Honda đi bán. Sáng hôm sau ba mẹ con vác ba chiếc va li lên chuyến xe đ̣ sớm nhứt đi Đà-Lạt.

Trưa hôm đó mẹ con cô có mặt ở nhà bà chị cô trong ấp Thái-Phiên. Cô nói với bé Châu và bé Hạnh rằng tôi nghe tin cảnh sát sẽ tới bắt cô bỏ tù v́ tội có chồng đang chiến đấu trong bưng nên cô phải dẫn gia đ́nh đi lánh nạn.

Cô Ngọc được bà chị nhượng lại cho một thửa vườn trồng rau để sinh nhai. Ngày đó, bỏ ít tiền ra, cô dễ dàng mua được hai cái khai sinh giả và một cái căn cước giả.

Cô giáo Công Tằng Tôn Nữ Mỹ Ngọc nay mang tên Nguyễn Thị Mỹ.

Bé Vơ Thị Như Châu thành Nguyễn Thị Hương, và Vơ Thị Ngọc Hạnh thành Nguyễn Thị An có tên cha là Nguyễn Trường Giang.

Cô lấy tên con sông Trường-Giang, và tên xă Hương-An ở nơi quê chồng để đặt tên giả cho chồng con, cho dễ nhớ. Tên Vơ Thị Như Châu và Vơ Thị Ngọc Hạnh trên học bạ được tẩy đi, đề tên mới vào.

Lúc đó bé Châu và bé Hạnh mới biết trong tám năm qua, cha của hai em đă vào bưng đi theo Việt-Cộng, chứ không phải làm thư kư ở dưới Sa-Đéc. V́ thế, hai em mới hiểu lư do tại sao từ ngày vào Blao, thày Như không về nhà lần nào.

Hồi mới xa Blao, bé Châu và bé Hạnh buồn khóc thầm cả tuần. Sau rồi cũng nguôi ngoai, quen với cuộc đời mới.

Hai chị em ban ngày theo xe ngựa của nhà hàng xóm về Đà-Lạt học trường Bồ-Đề, ban đêm đan nón, đan quạt lá buôn, lá cọ bỏ mối lấy tiền phụ với mẹ.

Năm 1970 bé Châu đậu Tú Tài 2,
xin được một chân giáo viên tiểu học ở dưới trại Hầm.

Năm 1973 bé Hạnh lấy chồng .
Năm đó em mười chín tuổi, vừa đậu Tú Tài xong. Chồng bé Hạnh là một Thiếu úy ngành Quân-Báo thuộc Tiểu-Khu B́nh-Định.

Anh ta là cháu một nhà hàng xóm trong ấp Thái-Phiên. Đám cưới vừa xong, bé Hạnh về Quy-Nhơn ở với mẹ chồng.





Nhà cô Ngọc ở yên trong Ấp Thái-Phiên cho tới ngày Đà-Lạt di tản.

Sau khi tiếp thu Đà-Lạt, Việt-Cộng đă tới từng nhà để sưu tra lư lịch, và tổng kết dân số. Cô Ngọc khai tên thày Như trong bản khai của gia đ́nh cô.

Chỉ vài ngày sau th́ thày Như về. Ông ta về trên chiếc xe con, theo sau là một xe lớn, có nhiều bộ đội hộ tống. Cô Ngọc và bé Châu mừng quá, khóc suốt một ngày luôn ! Cô Ngọc th́ mừng vui, tươi tắn hẳn lên như con bịnh trầm kha vừa phục hồi sau một liều thuốc tiên.

Thày Như đón vợ con về ở trong một ngôi biệt thự mới bị tịch thu trong khu hồ Mê-Linh (tên cũ là Saint Bénoit).

Gần cuối năm 1975
gia đ́nh ông ta được cấp miếng đất dưới Phil-Nôm và dọn về ở đó cho tới bây giờ.

Thày Như làm việc trên Tỉnh Đội, uy tín dữ lắm.
H́nh như cấp trên của ông ta tin tưởng giao phó cho ông đảm đương, kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng…

Bé Châu chợt lặng im ngồi suy nghĩ một hồi, rồi mới tiếp tục thuật lại cho tôi nghe chuyện bé Hạnh.

Cuối tháng Năm năm 1975
bé Hạnh từ Quy-Nhơn về. Nó nói rằng chồng nó vừa bị bắt đi tù cải tạo. Nó khóc lóc thảm thiết, xin thày Như bảo lănh cho chồng nó được tha. Thày Như từ chối thẳng tay,

– Để cho nó đi “ học tập ” ít lâu. Khi nào nó “ tiến bộ ” th́ được tha về chứ cần ǵ Ba phải bảo lănh ? Cả ngàn người cùng t́nh trạng như nó chứ có phải một ḿnh nó đâu?

Thày Như ngồi trên ghế, Bé Hạnh đứng đàng sau, nó ôm vai cha nài nỉ :

– Ba Như ơi ! Ba can thiệp được mà ! Ba xin cho chồng con về đi. Anh ấy là con một, có mẹ già. Nhà ḿnh cũng không có con trai. Anh ấy hiếu thảo lắm. Nếu Ba gặp anh ấy, chắc Ba sẽ thương anh ấy ngay. Ba Như ơi ! Ba Như xin tha cho chồng bé Hạnh về với bé Hạnh đi Ba!

– Ba đă nói rồi mà ! Để cho nó “ học tập ” thành “người tốt "rồi về ! Có ǵ mà phải vội vàng ?

Năn nỉ cha hoài không được, bé Hạnh cầu cứu mẹ và chị phụ giúp. Cô Ngọc và bé Châu cũng nói hết lời, thày Như vẫn một mực khăng khăng chối từ.





Tháng Tám năm 1975
chồng bé Hạnh trốn trại, bị bắt lại, và bị kiên giam. Bé Hạnh và cô Ngọc xuống thăm chồng nó. Ban chỉ huy trại không cho gặp mặt, cũng không cho nhận quà.

Bé Hạnh lại về năn nỉ cha nó cứu vớt chồng nó lần nữa. Nó quỳ dưới chân thày Như khóc lóc, van xin. Thày Như nhất mực chối từ việc cứu con rể, ông c̣n xúi bé Hạnh bỏ chồng lấy người khác. Rồi hai cha con lớn tiếng căi nhau. T́nh phụ tử bị sứt mẻ. Từ đó bé Hạnh và cha em tránh mặt nhau.

Bé Châu thấy bé Hạnh có lư khi nói rằng cha các em không c̣n như thời trước 1960, ngày các em c̣n bé.

Ngày xưa, mỗi lần thày Như đi xa, bé Châu và bé Hạnh thường chờ cha về để tranh nhau nhảy vào ḷng, bắt ông hôn, rồi ông dắt hai đứa đi lang thang trong sân chờ cô Ngọc dọn cơm.

Lần này ông về, chỉ có ḿnh bé Châu ở nhà, nhưng Châu không c̣n dám nhào vào ḷng cha để ông nâng niu như xưa. Khi cha em ra đi, Châu lên chín. Ngày ông về, em hai mươi bốn.

Cha em đă đi con đường ông ta chọn.
Sau mười lăm năm, ông đă thực hiện xong ư nguyện của ông. Nhưng ông đă đánh mất hạnh phúc của chính ḿnh, và của cả gia đ́nh ḿnh.

V́ ông,
mà vợ ông đă để uổng phí một thời son trẻ.

V́ ông
mà tuổi thơ của hai đứa con ông chỉ là một chuỗi ngày dài đầy lo sợ. Giờ đây, giữa Châu và cha em như có một bức tường vô h́nh ngăn cách.





Tháng Chạp năm 1975 chồng bé Hạnh bị xử tử h́nh.

Được tin này, bé Hạnh cấp tốc đi Quy-Nhơn, vào trại giam, xin nhận xác chồng, nhưng người ta không cho. Họ chôn chồng em Hạnh trong nghĩa địa dành cho tù phạm.

Trở về nhà, bé Hạnh thức trắng một đêm để đốt hết những lá thư mà vợ chồng nó đă trao đổi cho nhau từ ba, bốn năm trước ngày đám cưới. Từ lúc về, bé Hạnh không hé môi nói chuyện với ai một lời nào.

Sáng sớm hôm sau, bé Hạnh dậy thật sớm. Nó ôm hôn mẹ nó và chị nó rồi ra đi. Bé Châu và cô Ngọc hỏi rằng Hạnh đi đâu mà sớm thế ? Nó chỉ lắc đầu, hai mắt đỏ hoe.

Hôm đó thày Như có mặt ở nhà. Lúc bé Hạnh bước ra tới cửa, ông giữ tay nó lại,

– Con đi đâu thế ?

Hạnh hất tay ông ta ra, rồi vội vàng bước nhanh ra đường.

Ba ngày sau có người báo cho thày Như biết tin :

“ Cô An chết đuối mới nổi lên ở chân cầu Đại-Ninh ! ”


Kể tới đây, bé Châu nấc lên, nghẹn lời.

Nghe tin bé Hạnh chết, bé Châu bàng hoàng, choáng váng như vừa bị ai đó đập một cái chày vồ lên đầu. Nh́n người ta niệm xác bé Hạnh đặt vào áo quan mà Châu cứ tưởng như đang mơ một giấc mơ dữ.

Cô Ngọc rũ xuống như một sợi bún.
Cô thành người mê sảng, miệng không ngừng gọi tên con :

“ Hạnh ơi ! Hạnh ơi !…”

Ngày đưa ma, cô Ngọc và bé Châu không cất bước nổi, phải ở nhà. Hai mẹ con khóc cho tới khi hai mắt sưng vù, nói không c̣n ra tiếng nữa. Người ta chôn cất bé Hạnh ra sao, bé Châu không c̣n nhớ rơ.

Thày Như có rất nhiều người quen, nên khách đi đưa đám con gái ông rất đông. Có cả dàn nhạc và đại diện từ Tỉnh, Huyện về chia buồn.

Từ ngày chôn cất bé Hạnh xong, cứ thấy mặt chồng, cô Ngọc lại nghẹn ngào :

“Ḿnh ơi ! Ḿnh giết bé Hạnh của em rồi hả ḿnh ? Ḿnh ơi ! Sao ḿnh nỡ giết con của chúng ta ? Ḿnh ơi !”

Thày Như phải tránh mặt vợ bằng cách đi làm từ sáng sớm, tới tối mịt mới về.





Hai tháng sau ngày bé Hạnh mất, vào một buổi trưa mùa xuân, chỉ có cô Ngọc và bé Châu ở nhà, một bà già Bắc-Kỳ Di-Cư khăn mỏ quạ, áo dài nâu xuất hiện trước cổng. Vừa thấy bóng cô Ngọc, bà già chồng của bé Hạnh đă bù lu, bù loa,

– Dâu ơi, là dâu ! Con ơi là con ! Ai đời ? Chồng chết không chịu nhận khăn tang, mà chẳng nói chẳng rằng, bỏ đi một nước. Bà ơi ! Con gái bà là người, hay là ma, là quỷ vậy ? Con giặc cái ấy đâu rồi ?

Cô Ngọc ôm bà thông gia, vừa sụt sịt, vừa d́u bà cụ tới trước bàn thờ đang khói hương nghi ngút, trên đó là cái ảnh của hai vợ chồng bé Hạnh chụp ngày đám cưới.

– Con dâu của chị đây nè ! Nó nhảy sông, chết theo chồng nó đă hai tháng nay rồi !

Nghe thế, bà già Bắc-Kỳ ngă lăn quay ra nền nhà, đôi mắt trợn ngược. Mẹ con bé Châu phải đánh dầu, cạo gió cho bà, hồi lâu bà già mới tỉnh. Bà cụ lồm cồm đứng lên, với tay ôm cái ảnh của vợ chồng bé Hạnh vào ḷng. Nước mắt ṛng ṛng, hai mắt bà nh́n như ngây như dại vào cái ảnh trên tay,

– Con ơi ! Sao hai con đành bỏ mẹ ? Con ơi !… Con ơi !…

Rồi tay ôm cái ảnh, bà cụ thất thểu bước chân ra cửa. Bé Châu cố giữ bà cụ lại th́ bà cụ trợn mắt, mắm môi, giựt tay ra, rồi chạy biến ra đường.

– Hu!… Hu!… Hu !… Tiên sư cha quân cướp nước ! Chúng mày giết con tao, giết dâu tao, đồ chó má! Tiên sư cha cái đồ Cộng-Sản dă man! Tiên sư cha nhà chúng mày!… Hu !… Hu !… Hu !…

Bà già vừa đi, vừa chửi rủa, vừa than khóc, kêu gào. Từ ấy tới nay bé Châu không gặp lại bà lần nào nữa.





Những ngày tháng tiếp theo, nhà thày Như lúc nào cũng u sầu, ảm đạm. Ông đi làm trên tỉnh, lâu lâu mới ghé nhà.

Sức khoẻ của cô Ngọc sa sút nặng nề. Mắt cô mờ đi v́ khóc quá dài ngày. Đôi mắt cô thâm quầng. Hai g̣ má nhô cao, hốc hác. Mái tóc đẹp như mây ngày nào giờ này chỉ c̣n là một mớ bùi nhùi sau gáy được túm gọn bởi sợi dây thun.

Thân h́nh cô gầy tưởng chừng như chỉ cần một cơn gió khá mạnh là có thể thổi cô bay đi. Tuổi cô chưa đầy năm mươi, vậy mà nh́n cô, người ta thấy như cô đang ở sắc quá sáu mươi.

Thày Như có ba người đàn em thân tín
thường tới, lui thăm hỏi, là ba tay cựu du kích tên Thuận, B́nh và Xuyên.


Ba người này là học tṛ ở Tam-Kỳ, đă cùng hai người nữa theo ông vào bưng từ năm 1960.

Thày Như thường kể truyện với người quen về vết sẹo khá lớn trên vai trái của ông là do một lần vào năm 1968 đơn vị của ông bị Biệt Động Quân VNCH phục kích. Lần đó ông bị bắn găy tay, năm tên hộ tống th́ hai chết mất xác.

Sau khi chiếm được Đà-Lạt, ông cất nhắc cho ba tên học tṛ sống sót làm những chức vụ quan trọng :

- Tên B́nh làm bí thư riêng

- Tên Thuận làm hậu cần

- Tên Xuyên vốn là thương binh, nên được giao cho chức chủ nhiệm một hợp tác xă rau trên Đà-Lạt.

Giữa năm 1977
ông nhận một người bà con của tên Thuận là cô Xuân vào làm thư kư riêng thay cho tên B́nh chuyển ngành sang công an.

Ông thương cô Xuân lắm, đi đâu cũng chở cô Xuân theo. Ông nói rằng ông coi cô ấy như con, v́ cô ấy có vài nét giống bé Hạnh, tính t́nh cô ta cũng rất thùy mị, dễ thương, nhưng trên tỉnh, nhiều người xầm x́ rằng cô Xuân là bồ nhí của ông Như.

Đùng một cái,
giữa trưa ngày lễ mùng Hai tháng Chín năm đó công an của Bộ Nội Vụ ập vào văn pḥng bắt tại chỗ ông Như và cô Xuân đang lơa lồ nằm ngủ với nhau trên giường sau bàn giấy của ông.

Người ta chụp ảnh làm biên bản, rồi c̣ng tay ông dẫn ra xe chở đi. Cô Xuân th́ khóc lóc thảm thiết, khai rằng thủ trưởng Như đă hăm hiếp cô ấy nhiều lần trong văn pḥng này. Cô ta nói, ông ta hăm dọa sẽ bỏ tù cả nhà cô, nếu cô hé răng cho người khác biết chuyện đồi bại này.

Được tin, cô Ngọc hộc tốc chạy lên Ty Công-An Tỉnh. Gặp cô, ông ta thề sống, thề chết với vợ rằng ông ấy bị cô Xuân và tên Thuận dụ dỗ cho uống thuốc mê, chứ ông hoàn toàn vô tội.





Tối hôm đó, cô Ngọc kể cho bé Châu nghe một điều từ lâu cô giữ kín trong ḷng. Cô nói, thời gian sống trong mật khu, chồng cô đă nhắn cô vào thăm hai lần.

Lần đầu là
dịp cuối năm 1963 sau khi đảo chánh ông Diệm.

Lần thứ nh́ là
giữa năm 1965.

Cô Ngọc thương chồng hơn ai hết trên cơi đời này, nên cô ráng làm vừa ḷng chồng, dù biết rằng việc vào mật khu là một sự mạo hiểm chết người. Cô vào rừng ở với chồng mỗi lần nửa tháng. Chồng cô muốn có đứa con trai, nhưng vợ chồng cô đă thất bại.

Sau đó cô Ngọc đi khám bác sĩ, bác sĩ cho biết kinh nguyệt của cô không đều, nên rất khó có con. Tới ngày chồng cô về th́ cô đă hết khả năng sinh đẻ. Cô tắt kinh trước đó cả năm rồi.

Cô nói, chuyện đau buồn vừa xảy ra, một phần là do lỗi cô, chỉ v́ cô đă không sinh được một mụn con trai, nên mới ra nông nỗi này !

Đêm đó bé Châu ngủ rồi, cô Ngọc vẫn c̣n ôm mặt khóc. Sáng hôm sau, cô Ngọc ngủ luôn không dậy. Cô đă uống hết cả một ống thuốc ngủ hai chục viên. Liều lượng ghi trên toa thuốc là tối đa một viên cho người lớn.





Trong thời gian thầy Như bị giam giữ th́ tên Thuận đă bán hết nhà cửa xe cộ, rồi cùng cô Xuân dắt díu nhau đi đâu không ai rơ.

Sau đám tang cô Ngọc, người ta thả thày Như ra. Ông bị tước hết chức tước, quân hàm, nhưng không bị tù, v́ họ xét trong chiến tranh ông là một “anh hùng” của chúng.

Về tới nhà, thày Như ra ngồi bên mộ cô Ngọc và bé Hạnh khóc vùi hai ngày.

Sáng ngày kế tiếp, ông ra bờ giếng mài con dao quắm, dắt vào lưng rồi bước ra cửa.

Từ đó thày Như hóa điên, đi lang thang hết chợ Tùng-Nghĩa tới chợ Đức-Trọng, nằm bụi nằm bờ, không bao giờ bén mảng về nhà. Nhiều lần bé Châu đi t́m cha, nhưng ông không nhận ra em. Có cả chục lần em bị ông chém suưt chết, v́ ông ta cứ lầm em với cô Xuân.

Sau khi rót ly nước trà mời tôi, bé Châu rầu rầu,

– Anh gặp em lần này chắc cũng lại chia tay ngay thôi. Đồ đạc trong nhà, em bán hết rồi. Em đă quyết định từ bỏ cái xứ này để trở về quê ngoại.

Tôi thắc mắc :

– Nhà cửa, công ăn việc làm của em ở đây. Em về Huế làm ǵ?

Bé Châu sụt sùi :

– Tháng trước, cơ quan kiểm kê ruộng đất của tỉnh có đến khu vực này để điều tra, cấp giấy tờ hợp thức hóa sở hữu điền địa để khai thuế. Người đứng tên làm chủ khu đất này là Ba. Dù em khai là con gái Ba, nhưng người ta không tin.

Từ ngày Ba về, xảy ra hết chuyện này tới chuyện khác, đâu có thời giờ điều chỉnh lại giấy tờ ?

Tới nay em vẫn là Nguyễn Thị Hương, con ông Nguyễn Trường Giang, con bà Nguyễn Thị Mỹ.

Em không đủ tư cách pháp lư để ở lại trong căn nhà này. Từ ngày Mẹ mất, em không đi đâu xa. Hết giờ dạy học, em lại về loanh quanh trong rẫy. Chẳng mấy chốc đă gần bốn mươi tuổi, em là cô gái lỡ thời rồi.

Hai tuần lễ trước, có ông cán bộ già người Bắc góa vợ tới ngỏ ư xin lấy em. Ông ta hứa sẽ can thiệp cho em tiếp tục làm chủ mảnh đất em đang ở, nếu em nhận lời ông ta.

Anh ơi ! Anh có tin rằng con người ta có số mạng hay không ? Sao số em lại khốn nạn đến thế ? Em có làm ǵ nên tội đâu anh ? Sao ông trời nỡ đày đọa em như vậy? Mới đó mà hết tuổi xuân. Mới đó mà sắp qua một đời người. Rồi bé Châu nói như khóc,

– Thôi anh về đi! Chúc anh chị và các cháu sớm tai qua nạn khỏi. Chúc gia đ́nh anh vạn điều hạnh phúc ! Anh về b́nh an !



o O o



Sáng Thứ Hai, tôi đi làm. Cô Nhi chờ sẵn trước cửa,

– Tối qua cô Hương có qua nhà, nhờ em nhắn với anh rằng sang nay cô ấy đi sớm. Cô về Huế để xuống tóc đi tu. Cô ấy hứa rằng hàng ngày sẽ cầu nguyện cho gia đ́nh anh được hạnh phúc.

Hôm nay th́ mặt chị Phú đă hết nặng ch́nh chịch, chị cười toe toét :

– Bà con mấy chục năm gặp lại mừng quá há?

– Không phải bà con đâu ! Hàng xóm thời tiểu học của tôi đó ! Xa nhau mấy chục năm trời mới gặp lại. Chưa chi đă chia tay lần nữa.

Khoảng mười giờ sáng, chú Lượng ghé tiệm, báo tin vui,

– Anh về làm hồ sơ đi Mỹ là vừa . Các quận ở Sài-G̣n bắt đầu nhận đơn rồi đó .

Cô Nhi tṛn mắt :

– Anh Hai là sĩ quan chế độ cũ hả ? Anh nói tiếng Bắc rặt như người ngoài Bắc mới vào mà ! Anh Lượng nói thiệt hay nói chơi vậy ?

– Chuyện này ai mà nói chơi!

Ăn cơm trưa xong, tôi giă từ ngă ba Phil-Nôm về Đức-Trọng thu xếp hành lư.

Sau bữa cơm chiều, tôi chào tạm biệt vợ chồng bà chị họ, rồi ghé nhà anh bạn Lượng tốt bụng, để bắt tay cám ơn. Anh Lượng vắng nhà. Tôi lững thững tản bộ về hướng chợ để kiếm xe vận tải quá giang về Sài-G̣n. Mặt trời xế bóng, chợ chiều đă tan.





Trước cửa tiệm trà, một người điên đang múa may. Bộ tịch của ông trông giống một vai hề trong vở tuồng hát bội.

Mặt mày ông ta lem luốc, bẩn thỉu. Hai môi sưng vều. Ông già kẹp một cái nón mê bên nách trái. Tay phải ông cầm một con dao quắm, cán dao dài chừng hai gang. Đầu ông đội một cái mũ lưỡi trai bộ đội có phù hiệu Quân-Đội Cộng sản.

Ông mặc cái quần kaki cũ bết bùn đất bẩn thỉu xăn tới đầu gối, và cái áo bộ đội rách xác xơ. Trên nắp túi áo, lủng lẳng một mớ huy chương. Căn cứ theo bộ dạng, và giọng nói của ông ta, tôi đoán tuổi ông chừng trên, dưới sáu mươi.

Bước tới hai bước, người điên hét :

“ Tao chém mày ! Cái thằng phản thày !”

Ông quơ con dao chém một nhát vào không khí. Ông nhe hàm răng xám xịt, cái mất, cái c̣n, cười h́ h́. Ông lùi hai bước, hét :

“ Tao xử tử mày! Cái đồ phản bạn !” Ông nhặt cái nón mê chùm lên trên cái mũ lưỡi trai, đưa hai tay kéo vành nón xuống phủ tai, rồi chu miệng hú một hơi dài.

Tiếp đó, ông ngồi xẹp xuống đất, lột nón mũ ra, ngước mặt lên trời, đôi mắt lờ đờ như mơ màng thả hồn đi tận đâu đâu. Khi ông già điên ngửng mặt nh́n lên, tôi chợt thấy đôi lông mày của ông ta, đôi lông mày xếch ngược.

Cḥm râu bạc lưa thưa, mái tóc rối bù xù, cùng với bộ lông mày xếch, khiến khuôn mặt lem luốc của người điên thêm phần man rợ, dữ dằn.

Ông già quay ngược cán dao, ôm cây dao quắm như ôm cây đàn. Năm ngón tay sần sùi của ông run run, lần ṃ trên cán dao, như đang bấm cần đàn, miệng ông ngân nga,

“Đồ… Sol… Fa… Ḿ… Fa… Lá… Sol…”

Qua điệu nhạc, tôi nhận ra ngay, đó là đoạn mở đầu của bài “Chiều Về Trên Sông”.

Hết khúc đàn tưởng tượng, người điên ôm mặt khóc .

“Em ơi ! Không phải tại anh ! Em ơi ! Đừng bỏ anh ! Em ơi ! Em ơi !…”

Tiếng ông khóc nghe nghẹn ngào bi ai lạ lùng !

Nếu không biết tiếng khóc đó phát ra từ miệng một người điên, người nghe có thể bị tiếng khóc làm cho mủi ḷng rơi nước mắt.





Sau năm 1975 quê hương tôi đă xảy ra không biết bao nhiêu chuyện lạ đời. Gịng đời như gịng nhạc, những nốt thăng trầm là phần số của con người.

Nghĩ tới những ǵ đă xảy ra trong thời gian qua, ḷng tôi chợt thấy xót xa. Tôi khe khẽ xướng âm đoạn chót của bài ca người điên vừa hát,

“Ḿ… Ṣl.. .Đô… Là… Đô… Mí … Đồ… (Là)… Đô…”

Bản nhạc năm xưa c̣n đó, nhưng thế sự đă đổi thay, con người cũng đổi thay.

Tôi thở dài, quay gót bước đi.

Trước mặt tôi là Quốc lộ 20 buồn thiu.

Sau lưng tôi là sân chợ chiều vắng ngắt.

Vương Mộng Long - K20

hoathienly19 12-02-2020 23:27

TÔI LÀM TÔI MẤT NƯỚC
 

TÔI LÀM TÔI MẤT NƯỚC







Lời Mở Đầu



Từ khi bỏ căn nhà mái tôn trong hẻm Trương Minh Giảng quận 3 Saigon, đem vợ con chạy tọt vào phi trường Tân Sơn Nhất phút chót, nhẩy ù lên trực thăng chạy bay ra biển, leo lên tầu, tá túc Tent City đảo Guam rồi định cư ở Mỹ quốc, cho đến bây giờ tôi vẫn cứ mù tịt về t́nh h́nh chính trị, quân sự của chính nước ḿnh.

Càng đọc báo bổ, tài liệu, càng nghe bàn luận về Việt-Nam, tôi càng hoang mang lạc lơng, khó hiểu.

Một trong những điều khó hiểu ấy là nguyên do đâu mất nước ?

Trách nhiệm ấy của ai ? Của tổng thống hay của tư lệnh vùng ?

Của đại tướng hay đại úy ?

Của tỉnh trưởng hay quận trưởng ?

Hoặc cao xa hơn nữa, trách nhiệm ấy của Nga, của Mỹ hay Tầu ?

Ngay cả đến những cuốn sách mang đầy sử liệu cũng lại có các dữ kiên, phân tích khác nhau khiến kẻ đọc cỡ b́nh dân học vụ như tôi đâm ra ù ù cạc cạc, nh́n thế sự như nh́n vào bức vách.




Qua 10 năm lưu lạc giang hồ, làm dăm bẩy thứ nghề lao động chẳng giống ai, tôi càng cám cảnh trớ trêu thiên địa phong trần, không hồng nhan cũng đa truân như kiểu người yêu của chàng Kim Trọng.

Trong cảnh buồn năo nuột như thế, tôi đâm ra trầm tư mặc tưởng, suy niệm, ôn cố tri tân, t́m hiểu về số phận đất nước.

Cổ nhân nói:


“ Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách ”,
làm tôi áy náy nghi ngờ. Quốc gia thịnh hay suy mà lại là trách nhiệm của người dân b́nh thường hay sao?

Tôi cứ tưởng rằng cơ đồ bền vững hưng thịnh là do nhà vua anh minh đức độ biết kén chọn hiền tài điều khiển muôn dân. Cơ đồ sụp đổ là do tổng thống tài hèn sức mọn, dùng bè đảng vây cánh tác hại dân lành. Có đâu trách nhiệm đến kẻ thứ dân.

Lại như câu “Thượng bất chánh, hạ tắc loạn”, trên phải ra trên, dưới phải ra dưới mới có trật tự an ninh ngăn nắp.

Ép anh dân thường phải lănh trách nhiệm, e không ổn tí nào.

Bây giờ, sau khi để dăm ba phút suy nghĩ, tôi bỗng t́m ra chân lư của câu nói “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.


Tôi hiểu rằng đất nước là trách nhiệm chung, chả cứ riêng ai cả. Thất phu, sĩ phu, trượng phu, đại phu hay kung-fu cũng phải ghé vai gánh vác sơn hà th́ xă tắc mới mong bền vững.

Chẳng ai cáng đáng gánh vác, nước đổ ụp xuống là cả đám ướt như chuột lột.

Vậy chính tôi có trách nhiệm mà không thi hành hoặc thi hành chểnh mảng. Cả hai đều có lỗi. Chả cứ tôi mà c̣n nhiều người khác cũng vậy. Thế nhưng các vị nắm vận mệnh quốc gia, trách nhiệm chỉ huy đơn vị lớn đều cứ chối bai bải về trách nhiệm làm tan tành đất nước.

Theo bản sơ kết t́nh h́nh chiến sự, cho đến nay chưa có ai viết sách, viết bài tự nhận ḿnh có lỗi lầm, tự nhận ḿnh có trách nhiệm làm mất nước cả.

Chỉ thấy họ tŕnh bầy cái lỗi của người khác, xong nêu cái thông minh tài trí của ḿnh rằng đă nói mà chả ai nghe, có bảo nhưng chẳng ai làm, hoặc bị ngoại bang chơi ép, hoặc bị phe này cánh nọ phá hoại, hóa nên hư bột hư đường.

Thành ra, chính họ lại là những người am hiểu t́nh h́nh, tinh thần trách nhiệm cao, tư cách đạo đức sáng ngời, như một người hùng có công với dân tộc, với tổ quốc.

Nhờ dành thời giờ suy tưởng đến dăm ba phút, tôi vỡ lẽ ra rằng chẳng phải nói ai, chính tôi làm tôi mất nước.





Nḥm vào quá khứ, tôi thấy tôi như h́nh với bóng đồng lơa, làm đủ mọi thứ chuyện tồi bại có hại cho bổn thân, cho gia đ́nh, cho họ hàng anh em hàng xóm, cho đồng bào khiến nên bao nhiêu thứ suy đồi xấu xa tích lũy lại, dần dần đưa tới hậu quả ngày nay.

Hậu quả ấy đến coi như chậm bởi c̣n rất nhiều người có trách nhiệm, nhận trách nhiệm và gánh vác nó.

Họ là các chiến sĩ anh hùng sả thân ngoài chiến tuyến, là những thương phế binh, cô nhi quả phụ can trường nhẫn nhục hy sinh, là những công bộc chuyên cần và thanh liêm, là những cán bộ nông thôn sống với dân và sát với địch, là những người dân lành chăm chỉ thực thà một nắng hai sương… Không có họ, đất nước mất tự khuya rồi !

Tôi đâm ra ăn năn hối hận, dẫu chả ai dí súng bắt viết, không có CIA dúi tiền bảo làm, không ai dụ khị vạch áo cho người xem lưng, tôi cũng xin làm bản kiểm kê tự thú về những cái tồi tệ hư đốn bại hoại của ḿnh.

Để tâm hồn may ra được đôi chút b́nh an, để tạ lỗi với gia đ́nh, với bạn bè đă nằm yên trong Nghĩa Trang Quân Đội hoặc vất vưởng chốn lao tù cải tạo, với những người sắp ra đi, với những người c̣n ở lại đọa đày.






____________________ _______


CHƯƠNG 1


Hồi c̣n bé, tôi có bộ mặt của một tên học tṛ hiền lành ngây ngô rất mực, ai cũng tưởng là đứa trẻ có giáo dục đàng hoàng. Câu nói :

“Trông mặt mà bắt h́nh dong, con lợn có béo th́ ḷng mới ngon”
nhiều khi trậc lấc.

Tôi là con lợn nom khá béo nhưng ḷng dạ th́ thật khó thương. Bề ngoài, tôi lù khù mà đầu óc lại quỷ quái ranh ma.

Ở nhà,
tôi chuyên môn ăn cắp tiền để đem đi nướng cho mấy tên đánh đáo đánh bi, đi nói dối cha về nhà nói dối bố.

Đến trường học
th́ tôi học dốt như ḅ, trốn học, phá phách, chọc ghẹo bạn bè. Thời giờ học bài, tôi lêu lổng ra bờ sông leo cây bàng hái quả, bắt chim non làm tội, bơi qua sông đi đánh nhau.

Khi lên Trung học,
tôi ở Hà Nội học 4 năm. Bố mẹ làm ăn vất vả lo cho con th́ con học tà tà, dành tiền đi ăn thịt ḅ khô Bờ Hồ, đi bơi thuyền pê-rít-soa, đi xi-nê Phi-la-mô-ních, lượn Hàng Ngang, Hàng Đào, nhẩy xe điện không bao giờ mua vé.

Các thầy học của tôi đều là những bậc thầy dạy giỏi như các thầy Nguyễn Đức Hiếu, Nguyễn Tá, Nguyễn Đức Kim, Hà Như Vinh, Trần Ngọc Huyến, thầy Sửu, thầy Loan, thầy Thịnh Del, thầy Bốn…

Tôi chả thọ giáo được bao nhiêu v́ trong lớp tôi hay nói chuyện. Bù lại, mỗi khi có bài thi là tôi cóp như điên.

Mấy tên học giỏi đều ngồi trước ngồi sau ngồi cạnh cho nên tôi thi cử không mấy khó khăn, luôn luôn vào hạng khá. Đôi khi có đứa nào ngồi cạnh mà nghỉ v́ bận chuyện nhà, đau ốm th́ bữa đó tôi tụt xuống hạng chót lớp.

Thầy giáo rất ư là khó hiểu rằng làm sao sự học của tôi nó trồi sụt một cách bất thường. Chỉ có tôi hiểu mà thôi.





Năm 1953,
t́nh h́nh chiến sự sôi động, chính phủ gọi lính. Bố mẹ tôi gửi gấm tôi vào Ngự Lâm Quân cho quốc trưởng Bảo Đại. Các bạn tôi, đứa đăng lính tại Hà Nội, đứa xin vào trường Vơ Bị Dalat.

Dalat là đất của nhà vua, kêu bằng Hoàng triều cương thổ, vào đó phải có phép tắc phân minh. Tôi lọt được vào đất nhà vua, coi như số hên ngàn năm một thuở. Bố mẹ tôi chắc phải chạy chọt tay trong tay ngoài lắm tôi mới khỏi đi Điện Biên Phủ.

Vào lính, tôi được đeo ngay cấp bậc Hạ Sĩ, tức Cai Phúc Cánh Gà, át-si-mi-lê chứ khỏi cần tốt nghiệp quân trường ǵ sốt cả (nhưng tôi phải nộp 3 chứng chỉ về kế toán, đánh máy và tốc kư mới được cấp bậc này!).

Hơn 1 năm đi lính Ngự Lâm Quân,
nói là đi lính chứ thực ra là đi du lịch, đi du hí v́ công việc tôi thu gọn trong chương tŕnh phát thanh gồm các mục thi ca vũ nhạc kịch, mỗi tuần một lần trên đài Dalat.

Thời kỳ này đúng vào thời kỳ tôi trổ mă, cho nên gặp đúng môi trường hoạt động, tôi tung hoành như chốn không người. Khi th́ mời các nữ sinh tập ca, tập kịch, khi th́ đón các ca sĩ tài tử lên đài hát hỏng ngâm nga. Lại có bận kéo cả bầy đi Trạm Hành, Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang tŕnh diễn văn nghệ văn gừng.

Các em tài tử giai nhân, em nào cũng thơm như múi sầu riêng, đẹp ngồn ngộn, nom cô nào cũng thiệt dễ thương. Tôi bỏ không đành, ngó ai là muốn tán người đó để làm riêng kỷ vật.

Tôi thường lợi dụng công xa, lái xe Jeep của xếp, xe Dodge-4 của ban quân xa chạy đi chơi la cà quán ăn, đi đàn đúm nhẩy nhót, đi chơi cuối tuần Đèo Ngoạn Mục, Suối Vàng, thác Prenn, Cam Ly, Liên Khương, Aáp Hà Đông, Cây Số 4…

Mỗi khi đi công tác, dẫu được đơn vị sở quan đài thọ ăn ở suốt thời gian, tôi cũng xin cái dấu đỏ đóng sau sự vụ lệnh chứng nhận đương sự ăn ở tự túc để đem về ban kế toán làm lương kiếm tí tiền c̣m.

Ít nhất một năm tôi t́m cách đi phép hai phùa. Lư do nào cũng khẩn cấp dễ sợ như điện tín đánh từ Saigon lên rằng mẹ đau nặng, bà ngoại sắp mất, bà nội lâm trọng bệnh, ông nội đă từ trần…toàn là những tin tức đứng tim, cần được phép đặc biệt về thăm nhà thiệt lẹ.

Mẹ tôi đâu có ở Saigon, c̣n các cụ nội ngoại đă qui tiên chầu tổ từ lâu rồi, nhiều cụ tôi đâu có biết mặt.

Nhờ đ̣n tâm lư ấy, tôi về phép đều đều. Cụ nào cũng được chết ít ra 2 lần do tôi đạo diễn.





Mỗi lần phép dăm ngày, tôi lại ở ĺ thêm một tuần cho đă. Khi lên đơn vị tŕnh diện, tôi găi đầu găi tai kể khổ, nào là cụ ngoại ngoài 80 tuổi gần đất xa trời, tay chân rũ liệt nằm thở hắt ra, nào là cụ cấm khẩu, lạnh tứ chi, các con cháu tề tựu đông đủ đợi chờ.

Cũng may là cụ tuy bệnh t́nh trầm trọng nhưng e… khó chết, cho nên các con cháu lại tan hàng để ai về nhà đó. Các xếp tôi nghe kể lể đều mủi ḷng thương cảm vỗ về.

Nam 1955,
Ngự Lâm Quân tan ră, các đơn vị phân tán mỏng, gia nhập Quân Đội Quốc Gia nên tôi đổi lên xứ Ban Mê Thuột. Miền cao nguyên này đất đai ph́ nhiêu, tài nguyên phong phú như cao su, cà phê, gỗ, măng, cam, rau trái, thú rừng, hoa lan…đều là những sản phẩm miền xuôi ao ước.

Vậy mà ai lên đó cũng than đất đỏ mưa lầy, buồn hơn chấu cắn. Tên tỉnh được đọc chẹo là Buồn Muôn Thuở. Ôi cái tên như một tiền định an bài, bởi cái tên cà li đó mà làm cho cả miền Nam tiêu tùng cơ nghiệp sau này.

Nói vậy cũng tội nghiệp cho tên tỉnh, bởi tự nó đâu có tội t́nh chi. Tội chăng là kẻ đặt điều thêm bớt, vả chính tôi cũng a dua phổ biến cái tên Buồn Muôn Thuở, hóa nên nó đâm buồn, nó vận vào chính ḿnh và vận mệnh quốc gia.

Lỗi đó, tự ngay tôi đồng hóa.

Đời sống ở Cao Nguyên cũng có nhiều cái thú như đi săn, thú chơi hoa lan, thú đi rừng lội suối, chụp h́nh. Được ông xếp chịu chơi, tôi tháp tùng ổng lái xe Jeep, ôm các-bin có thêm dăm lính tráng hộ tống đi bắn nai, bắn thỏ, bắn gà rừng.

Thầy tṛ lại lặn lội đi kiếm lan rừng, đem lên xe GMC có sẵn vài giường vải bố để đặt lan vào cho nhẹ nhàng khỏi phạm đến cánh hoa. Mỗi gị lan lại được buộc hờ bằng những cuộn băng trắng tinh của bên Quân Y Viện.

Thế là chúng tôi đă xử dụng công xa, xử dụng vũ khí đạn dược, xăng nhớt, nhân sự của quân đội một cách phí phạm và trái quân luật.

Nhưng chả ai nói ǵ, không ai đem ra ṭa án nhà binh th́ đâu gọi là tội. Vả chăng, nhiều cấp lớn cũng dùng lính cả trung đội, đại đội để làm việc riêng ấy chứ, th́ cỡ tép riu đâu có đáng ǵ.

Chính mấy cái lặt vặt lem nhem ấy, tôi làm tôi mất nước…






******

CHƯƠNG 2



Trên Cao Nguyên đất đỏ mưa lầy heo hút buồn thiu, ngoài mấy cái thú đi săn, đi rừng, hái hoa lan, tôi c̣n t́m được nguồn cảm hứng mới lạ. Ấy là ngày cuối tuần ṃ mẫm đi coi coi gái Thượng tắm suối.

Người miền núi khác người miền xuôi ở mấy điểm này :

Miền xuôi, con gái đeo sú chiêng th́ miền núi để hở ngực thỗn thện, đôi g̣ bồng đảo rung rinh gánh lúa rung rinh rất là tự nhiên khỏe mạnh, không bị bó gị ép chặt.

Miền xuôi, con gái mặc quần th́ miền núi quấn sà-rông không ś-líp. Thành ra, so sánh thấy người miền núi sống thoải mái, gần gũi thiên nhiên hơn người ở miền xuôi.

Nhờ sống gần thiên nhiên nên họ thực thà chất phác tự nhiên. Những ngày nắng ấm, con gái miền núi hay rủ nhau ra suối giặt rũ, tắm táp vui vẻ.

Tôi vốn nhát nhưng lại hay ṭ ṃ, chơi ngầm nên lẳng lặng đi ŕnh các em sát nút. Họ tắm với y phục của bà E-Và, chẳng mảnh vải che thân, ngâm ḿnh dưới suối, để lộ bộ ngực no tṛn nắng rám mùi dâu.

Họ đùa nghịch tát nước vào nhau, nước tung trắng xóa; họ cười nói líu lo như chim hót trên cành. Đâu biết rằng sau lùm cây lại có một tên lính nhà binh ma mănh nḥm như cú nḥm nhà bệnh.

Những mục đi coi con gái miền núi tắm suối như thế tuy đă con mắt nhưng chưa thật đă đời.

Xét rằng chả nên khư khư một ḿnh thụ hưởng, tôi mới phổ biến hạn chế ABC cho mấy thằng bạn.

Thế là ngày cuối tuần chúng tôi có bán tiểu đội đi tuần tiễu quan sát tại chỗ.





Cũng v́ đi tụm năm túm ba như thế, chỉ một vài phùa là bọn tôi bị lộ tẩy. Con gái miền núi thấy động, bèn nhẩy ào ào lên bờ quấn vội sà-rông, ù té chạy về bản Thượng.

Từ khi họ khám phá có kẻ ŕnh ṃ nh́n trộm bất hợp pháp như thế, con suối t́nh tứ bỗng vắng bóng con trai miền xuôi, con gái miền núi, để trở thành con suối mơ lạnh lẽo ơ hờ…

Nghĩ lại hành động có ư thức của ḿnh, tôi ăn năn coi đó là vô ư thức, khiến con gái cao nguyên mất đi cái vẻ hồn hậu tự nhiên mà lại hóa ra bắt chước con gái thị thành đâm ra rụt rè, e thẹn ngượng ngùng.

Tôi đă làm mất đi một phần nào thuần phong mỹ tục địa phương mà cứ tưởng chuyện vui chơi nào có hại ǵ.


T́nh đoàn kết Kinh Thượng một nhà biết đâu chả v́ thế mà ngại ngùng xa cách ? Tôi là kẻ có tội !

Người cao nguyên Ban Mê Thuột đa số thuộc sắc dân Rhadé. Lên tới em Pleiku má đỏ môi hồng, ở đây phần lớn là dân Jarai. Đến Kontum, Dakto là dân Sédang làm chuẩn.

Người miền núi có hàng trăm tiếng nói khác nhau. Nói chung th́ tính t́nh họ hiền lành, hiếu khách, chuyên nghề làm rẫy, bắt thú rừng. Nhiều bộ lạc c̣n sống đời nay đây mai đó, không định cư chỗ nào lâu dài cả.

Càng xa phố thị, đời sống của họ càng xa cách văn minh. Dân miền Daksut, Dakpek, nhiều người chỉ biết đếm từ một đến năm.

Mua chục quả trứng gà, mỗi cái một t́, mà đưa mười tiền lấy chục trứng là họ không chịu, coi như không đúng. Lấy năm cái, trả năm tiền, đếm một hai ba bốn năm là chịu. Rồi lại trả tiếp năm cái sau như thế.

Tôi đă lợi dụng ḷng tốt, nhẹ dạ, thuần hậu của họ mà buôn bán kiếm chác khá bộn. Như mua măng khô,mua mật ong, mua sừng hươu nai, mua quế. Khi thuận tiện, tôi c̣n hái trộm trái cây hoặc lấy quế vô tội vạ…

Tôi la cà các bản Thượng, lân la thân cận với các chủ làng – ví như xếp ṣng đơn vị – để mưu lợi.

Lúc th́ tôi bán xăng chạy bật lửa kèm theo đá lửa. Lúc bán muối hột, khi bán át-pia-rin, bán bánh kẹo Chợ Lớn. Một vốn bốn lời cắt cổ anh em, lại c̣n cai thầu lâm sản bán cho mối chợ.

Ông chủ làng thấy tôi có cái máy ǵ mà cứ ghé mắt nḥm ngang bấm kêu lách cách, hỏi ra là máy chụp h́nh, có h́nh người như hệt th́ lấy làm khoái lắm.

Tôi bảo chụp một tấm có h́nh ông chỉ tốn 25 tiền ta. Ông chủ làng ngần ngừ, bảo muốn có cả bà vợ và hai đứa con nữa tính bao nhiêu.

Tôi tính 35 tiền rẻ chán. Ông ta lại suy nghĩ vẩn vơ rồi cười xin tôi chụp cho cả con chó, cạnh cái nhà làng và làm sao có tí trời mây nữa được không ?

Tôi bèn làm bộ khó khăn cân nhắc, rồi đồng ư chụp hầm bà làng đủ thứ, chỉ lấy có 40 t́. Vợ chồng con cái, con chó đứng chung, tôi bấm máy đánh tách một cái là xong xuôi, hứa hẹn có h́nh đen trắng đẹp.

Lần sau về làng, tôi bán tấm h́nh, xong mua đồ, ăn nhậu với chủ làng, đôi bên vui vẻ. Tôi đă lợi dụng tâm hồn chất phác mà mần x́n ông chủ làng. Bây giờ tôi đâm ra hối hận. Ông chủ làng nếu biết, chắc ông ấy sẽ chê luôn tất cả người miền xuôi đều cá mè một lứa. Tôi làm xấu lây tập thể và gây chia rẽ đồng bào mà đâu có ngờ.

Ngày nay ngẫm lại mới vỡ lẽ ḿnh mất nước nào phải đổ vạ đổ thừa cho ai. Chính tôi làm tôi mất nước ở những cái nho nhỏ con con ấy.

Cổ nhân bảo “ Lỗ nhỏ đắm thuyền ” hẳn chẳng sai.





Ở Cao Nguyên được hơn một năm, tôi giải ngũ về Saigon kiếm việc.
Nhờ người lớn giới thiệu, tôi làm công cho một hăng xuất nhập cảng ở đường Tự Do, tên là hăng Việt-Hà. Ông chủ thấy tôi nai vàng ngơ ngác như ở rừng mới về, rất lấy làm ưng ư. Bởi huấn luyện một thằng nhỏ hiền lành có bề dễ hơn là mướn mấy tên tinh ma quỷ quái.

Ông chủ khuyên tôi cố gắng học nghề, ông sẽ truyền nghề cho sau này chả mấy chốc thành triệu phú như ổng.

Tôi cũng tin tưởng như thế, nên từ đó không mua xổ số quốc gia lô độc đắc nữa mà chuyên chú học việc hành nghề.

Tôi cố gắng dành dụm tiền để sắm chiếc xe đạp cũ nên không dám ăn trưa. Buổi trưa, tôi moi trên kệ, trong hộc tủ xem có món ǵ sực được th́ ăn đỡ.

Tôi đớp bánh trứng nhện, kẹo vừng, bánh ḿ khô. Thậm chí đến cả quế chi tôi cũng nhai tuốt luốt. Chỉ sau có một ngày, v́ đớp quế quá kỹ, tôi chẩy máu cam ồng ộc, không dám mó đến món này nữa.

Qua vài tháng, nhận rơ ra rằng cái chân của tôi là đánh máy, tùy phái, lau nhà, tôi bèn xin rút lui có trật tự, bỏ mộng làm triệu phú.

Một bữa, la cà đến nhà người quen, ông này rủ tôi đi Cao Miên làm Ṭa Đại Diện Việt Nam Cộng Ḥa. Tôi coi như cơ hội ngàn năm một thuở, cơ hội bằng vàng, xin gật đầu đi ngay tút suỵt.

Chỉ vài ngày sau, tôi đă trực chỉ hướng G̣ Dầu Hạ, đi qua biên giới Việt Miên đến Phnom Penh như đi du lịch.

Hồi ấy, vị đại diện Việt-Nam – chưa có đại sứ v́ liên lạc ngoại giao chưa thuận lợi – là ông Ngô Trọng Hiếu, cựu Tổng Giám Đốc Ngân Khố, từng dịch sách với nhà văn Nguyễn Hiến Lê, văn nghệ ngoại giao số dzách.

Vị đại diện tướng mạo bệ vệ, nom rất dễ nể.

Bộ tham mưu có bác sĩ Trần Văn Thọ, bác sĩ Thái Doăn Thạc, luật sư Đinh Trịnh Chính, ông tham vụ Trần Đồng Tử.

Phía báo chí chửi cộng sản có Dương Vy Long, Song Hồ, Văn Thế Bảo. Nhân viên ṭa đại diện vài chục người, làm việc rất vui vẻ.

Tôi đặc trách mục làm sổ thông hành cho người Việt, người Miên. Công việc không có chi khó khăn mà lại có tiền, có t́nh, có kẻ chầu người trực.

Lợi dụng chức vụ phát thông hành, tôi bắt thân chủ ĺ x́ dăm ba ḅ, một xín để lấy giấy tờ mau lẹ.
Người ta cần đi gấp, đâu có sá chi mấy trăm bạc nhẹ tênh.

Nhờ thế, tôi rủng rỉnh tiền bạc,
cứ tháng tháng hai lần về chơi Saigon, lúc buôn lạp xường, lúc buôn vải vóc, lúc buôn vàng đem bán cho mối chợ.





Tại Phnom Penh thuở ấy có dăm ba cái tiệm nhẩy đầm. Cái b́nh dân như Bar Cầu Saigon – v́ nằm trên con đường đi Saigon, cạnh cây cầu lớn – tha hồ nhẩy múa Lâm Thôn, tậïp ś-lô, pa-sô-đốp.

Mấy cái khác như Tricotin, Cambodge phần nhiều khách sộp lại chơi.

C̣n một tiệm nhẩy đầm Olympia có rất đông vũ nữ Việt Nam hành nghề, tôi thường tới lui nhẩy nhót cho oai, chứ tôi chỉ biết có mỗi một điệu ś-lô tắt đèn mà thôi. Các điệu khác tôi đều chê là tốn sức lao động.

Nhờ làm cái chân pát-po, các em có vẻ chiều chuộng đến điều, để lỡ khi ở lại quá hạn c̣n có người che chở.

Từ vũ trường, tôi la cà đến nơi các em tá túc, bắt bồ nay em nọ mai em kia như một kẻ đa t́nh thương người đồng điệu.

Các em có làm tôi hư hay không tôi không biết, chứ chính tôi vẽ đường cho hươu nai chạy, tạo cho các nàng cái cách chạy thầy chạy thuốc lem nhem, như một lối ṃn độc đạo để sau này các em ngựa quen đường cũ, hễ ai thay tôi cũng thế thi hành.

Tôi cứ tưởng ba cái lặt vặt cỏn con ấy nào có hại chi đến việc lớn.
Ai ngờ té ra chính nó tích lũy lại, nhiều kẻ lem nhem đốn mạt như tôi đă đưa đẩy nước non đến hồi mạt rệp.





Làm việc ở ṭa đai diện, ngoài lương tháng, phụ cấp, nhà ở, tôi lại c̣n được xử dụng quỹ đặc biệt nữa.

Nếu dùng tiền này để làm đúng việc th́ đâu có nói làm chi. Đàng này, tôi dùng tiền công để chi cho việc riêng, coi như tiền chùa, tiền mă.

Sự phí phạm ấy, nếu ai cũng tự cho phép và được phép xử dụng th́ công quỹ chả mấy nỗi mà lép kẹp, nhẹ tênh.

Giờ đây, ngồi ngẫm lại chuyện cũ tích xưa, tôi mới thấy chả phải đổ vạ đổ thừa cho ai làm chi tội nghiệp.

Chính tôi làm tôi mất nước !






*****

CHƯƠNG 3



Làm Ṭa Đại Diện Việt Nam tại Cao Miên đâu chừng một năm, tôi đă muốn rút dù.

Vốn tính hay đổi thay, chóng chán, nên dẫu gần gũi với biển hồ Tonlésap, tôi vẫn nhớ bến Thủ Thiêm, dẫu sát cạnh Chùa Vàng Chùa Bạc tôi vẫn nhớ Lăng Ông, Thiên Mụ, dẫu thân mật với các em ca-ve thơm ngon như xoài cát tôi vẫn nhớ các nàng đồn trú tại quán bia ôm, quán cóc Saigon.

Lai nữa, xuân qua hạ tới thu tận đông tàn, nay lại một mùa xuân tiếp nối khiến ḷng tôi nhớ về chón cũ.

Chốn ấy như quê hương thứ hai của tôi, sau tỉnh Hải Dương bé nhỏ hiền ḥa nằm trên quốc lộ số 5 nối Hà Nội – Hải-Pḥng :

Ấy là Dalat.

Nhân cái cớ anh tùy phái hục hặc tranh mối pát-po tính ăn hớt tay trên tiền nhậm xà của tôi, hắn thậm thọt với cấp trên vu cho tôi bê bối, tôi liền xin nghỉ việc.

Mần ṭa Đại sứ, Đại diện, Lănh sự dẫu ở nước nào cũng là điều mơ ước của nhiều người muốn xuất ngoại phục vụ, mà lại có tiền, sống đời dư dả, cho nên tôi thôi việc lắm đứa mừng thầm, v́ có chỗ cho anh em bà con điền thế, cùng vây cánh làm ăn.

Thế là chỉ nội 24 giờ tôi đă rút khỏi xứ Chùa Tháp, qua biên giới Miên–Việt trở lại Saigon.

Ở thủ đô vài bữa, tôi khăn gói quả mướp lên chuyến xe Minh Trung tại Ngă Bẩy để lên Dalat, tá túc nhà ông anh họ.

Qua mấy năm trở lại chốn xưa, tôi thấy người cũ vẫn cứ đâu ở đó, chưa mấy đổi dời.

Con gái Dalat má đỏ như mận Trại Hầm, mắt trong như mắt nai tơ, môi hồng như trái dâu ấp Hà Đông, Cây số 4. Anh con trai nào nḥm thấy cũng mê như điếu đổ.

Người đẹp đài các như ái nữ của bác sĩ Dương ở biệt thự, có vườn hoa, đêm đêm qua khung cửa mờ ảo ánh đèn, ngân nga tiếng dương cầm thánh thót.

Khu chợ Ḥa B́nh, các cô Ninh, cô Kính chủ tiệm bách hóa Phúc Thái Lai, cổ đeo kiềng vàng, ăn nói dịu dàng, mắt liếc đong đưa.

Đường Phan Đ́nh Phùng, quá rạp hát ngọc Hiệp dăm trăm thước có tiệm chè của hai chị em cô Tâm cô Hiền. Hai đóa hoa được rất nhiều vương tôn công tử giả bộ đến ăn che mà ḷng dạ thật là hảo ngọt.

Nói chi đến các sĩ quan, sinh viên Vơ Bị ngày nghỉ cuối tuần chạm trán nhau đôm đốp ở đây.

Phía nữ sinh Yersin, Couvent, phía nữ công chức hoa hậu hoa khôi mơn mởn đào tơ phơi phới. Với các nàng tiên yêu kiều diễm lệ ấy, tôi chỉ là một anh Trương Chi chèo thuyền mà không biết thổi sáo để làm cảm động Mỵ-Nương.

Vả lại, Cai Phúc hồi ấy chưa thoát khỏi cái vỏ cai sữa, buồn thân tủi phận hẩm hiu, chả ai cảm thương cảnh cùng một lứa bên trời lận đận cho nên chỉ nuốt nước bọt, ngậm bồ ḥn ngắm trộm các nàng cho đỡ ghiền cơn nhớ khó nguôi.

Tôi cũng đoán già đoán non rằng các nàng nh́n tôi không khác chi nh́n một cậu bé con ngu ngơ bé bỏng. Đâu biết rằng trong tim tôi nó thổn thức bồi hồi.





Cái mộng yêu hoa biết nói không thể tỏ cùng ai, tôi lang thang như một nghệ sĩ giang hồ, như một nhà thơ khốn khổ ư ử ngâm bài Lỡ Bước Sang Ngang cho ra vẻ Tài Tử Đa Cùng Phú.

Nhớ đến em xưa dưới dốc Nhà Ḅ, tôi ḅ xuống lân la hỏi ḍ tin tức. Ngờ đâu nàng đă tay bế tay bồng đ́u íu sau lưng, nom chả c̣n chi là sắc nước hương người.

Các cụ bảo “gái một con trông ṃn con mắt, gái hai con vú quặt sau lưng” thật chả sai một ly ông cụ nào.

Được cái con chị nó đi, con d́ nó lớn nên tôi đành tự hạ một cấp, ra chiều o bế cô em. Cô em là kẻ yêu hoa nên tôi có nhiệm vụ cung cấp hoa để làm duyên văn tự.

Đêm đêm, tôi vác dao đi chặt trộm những cành hoa anh đào ở bờ hồ, lối lên dốc chợ. Anh đào là loài hoa quư của Nhật. Nhật Bản có tặng cho thành phố Dalat vài trăm cây làm cảnh, chở máy bay qua, quư như vàng nén.

Khi hoa anh đào nở, cả tỉnh đẹp mà khách phương xa đến du ngoạn cũng đẹp lây. Tôi lựa cành nào đẹp, phạng ngay một phát và chạy ù té về dốc Nhà Ḅ.

Chưa hết, công viên nơi nào có hoa là có tôi lởn vởn đến hái. Cả đến tư gia tôi cũng không từ. Dọc đường Hoàng Diệu, Phan Đ́nh Phùng, khu nhà đèn, khu nhà thương, nhiều nhà trồng mẫu đơn, hoa cúc, hoa hồng, hoa thược dược đẹp tươi mơn mởn, cứ tối đến là tôi đi ngắt trộm.

Có lần chủ nhà ŕnh sẵn, tôi mới chợt tới hàng rào là họ đă hô hoán lên vác đ̣n gậy đuổi đánh. Tôi hoảng hồn vắt gị lên cẳng chạy thừa sống thiếu chết mới thoát thân.

Ái t́nh nó làm tôi mụ mẫm một phần, nhưng chính như tôi bản tính đă hay táy máy ăn cắp vặt từ nhỏ cho nên lúc nhớn lên các hành động xấu xa chỉ là tập quán.

Ngày bé tôi ăn cắp ở nhà, bây giờ phá hoại ăn trộm của người, của công cộng, vi phạm an ninh trật tự, tài sản quốc gia và đồng bào, nào tôi có biết nó tệ hại sao đâu. Chỉ coi như vui chơi cuối trời quên lăng, văn nghệ thôi chứ nhằm nḥ, tác hại nỗi ǵ.

Ấy đó, mấy cái đó tích tiểu thành đại, tôi hư lúc nào không biết. Mà vẫn tưởng ḿnh công dân gương mẫu đàng hoàng.

Nh́n quanh, tôi thấy tôi c̣n lương thiện hơn chán vạn kẻ khác. Những đứa họp bè kéo đảng chặt cây cưa gỗ đem từ Định Quán về Biên Ḥa phát mại chia nhau bỏ túi.

Những tên bắt lính đem GMC chở thông từ Dalat mang về Saigon bán dịp Giáng Sinh.

Những kẻ thông đồng với nhân viên lâm sản, với trại kiểm soát để chở gỗ lậu hàng lậu mới là bê bối.

Nhờ bê bối đó, cộng sản mới lợi dụng chở súng đạn, thuốc nổ vào thị thành
để đặt ḿn giết dân lành, đàn bà con nít, nên chiến tranh mới đằng đẵng bao năm.

So sánh với những hạng đó, tôi không là… Phật th́ cũng là… á thánh.

Cũng bởi tự so sánh với những quân khốn lịn như thế, tôi cá mè một lứa như chúng nó chứ có hơn ǵ. Chỉ khác nhau mức độ mà thôi.

Mức độ nào cũng là hành động đưa đến mất nước.






Mùa xuân trên cao nguyên xứ anh đào, ai may mắn có đào cặp kè thủ thỉ th́ thật ô-mê-ly tuyệt cú mèo số dzách.

Nh́n những cặp nam thanh nữ tú áo quần đẹp tươi nắm tay nhau ngả nghiêng trên đồi thông, ngồi bên ven hồ, ghềnh đá hoặc sát vai trong rạp xi-la-ma, nơi tiệm cà-phê, tiệm ḿ, tiệm phở, ḷng tôi lại thêm nỗi cô đơn chan chứa can tràng.

Tôi bơ vơ như tiếng hát Chế Linh tang thương rách nát, lủi thủi lang thang lạc lơng giữa đường… Trời xuân đẹp, nắng xuân trong, t́nh xuân nồng, gái xuân rực rỡ. Những tà áo mầu áo thêu áo len e ấp vườn Bích Câu, hồ Xuân Hương, suối Cam Ly, đường Minh Mạng, dốc Duy Tân, chợ Ḥa B́nh…

Những sinh viên sĩ quan Vơ Bị quân phục thẳng nếp, huy hiệu phù hiệu cấp hiệu sáng ngời, giầy đen bóng loáng đi đứng hiên ngang.

Xe hơi, xe Vespa, Lambretta, Honda, xe ngựa lên dốc xuống đèo vui như ngày hội.

Đầy trời xuân cỏ hoa rộn nở tưng bừng. Hoa hồng, hoa cúc, thược dược, mẫu đơn, cẩm chướng, bất tử, hoa lan hoa dại lưng đồi. Dalat giống như một cảnh thần tiên của thiên đường hạ giới.

Dẫu cảnh đẹp mê ly là thế mà ḷng tôi lạnh ngắt vắng tanh. Cho nên người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, qua mấy ngày xuân con én đưa thoi, tôi lại đáp chuyến xe đ̣ qua Liên Khương, Bảo Lộc, Định Quán, Long Khánh, Biên Ḥa để về Saigon t́m kế sinh nhai.

Việc đầu tiên là xin tá túc chỗ quen khu Tân Định, xong trích ngân khoản dự trữ sắm chiếc xe đạp thay cho chiếc xe lô-ca-chân, rồi nạp đơn dăm bẩy nơi xin mần việc chính phủ.

Nhờ có tí cựu quân nhân, tôi được tuyển dụng làm thư kư công nhật tại Tổng Nha Kiến Thiết.

Tổng Nha này là hậu thân của Bộ Kiến Thiết thời kiến trúc sư Hoàng Hùng làm bộ trưởng, ở đường Phan Đ́nh Phùng gần đài phát thanh Saigon.

Tôi chăm chỉ làm việc như một công chức gương mẫu, được vài ba tháng th́ bắt đầu dở chứng. Tôi bắt chước những dân bê bối chuyên môn đi trễ về sớm, lấy giấy pơ-luya, dụng cụ văn pḥng đem về nhà.

Lắm lúc lại lợi dụng giờ chánh phủ chuồn đi phố lo chuyện riêng, ăn nhậu, làm áp-phe với thân chủ. Ai muốn nhờ vẽ họa đồ nhà cửa, muốn có giấy phép sớm, mua vật liệu rẻ, xây cất lố với họa đồ, tôi đều trung gian điều chỉnh.

Nhờ vậy, lương tháng ba cọc ba đồng mà tôi vẫn rủng rỉnh tiền bạc.

Lâu lâu tôi lại o bế cấp trên, biếu xén quà cáp chút chút để xếp che chở, phe lờ cho mấy vụ lem nhem.

Hồi ấy có phong trào học đêm, anh em công chức quân nhân tối tối ṃ đi học tại Hội Khuyến Học Bổ Túc đóng đô ở trường tiểu học xế cửa Tổng Nha Kiến Thiết.

Đủ mọi thành phần quân cán chính, đủ lứa tuổi tác già trẻ. Lại có cả các tên tuổi quen thuộc hiện diện dưới đèn.

Như nhạc sĩ Hùng Lân “Khỏe V́ Nước”đêm đêm ôm sách, kèm theo cái đèn điện, ḍng giây tḥng ḷng dưới bàn, cắm điện sáng choang – bởi ông mắt cận thị hơi nặng nên cần nhiều ánh nến.

Có ông vợ con cả bầy lớn bé cũng cắp cặp, đạp xe đạp đi học như Cao Bá Vũ sau này là một giáo sư triết khá nổi tiếng.

Anh nào đi học cũng mong kiếm cái mảnh bằng Tú Tài I, Tú Tài II để làm bước tiến thân.

Tôi cũng lóp ngóp giữa số đó. Được cái là tôi nhă nhặn, hay nhường nhịn cho nên anh em đậu xong Tú Tài, lên Văn Khoa, Luật Khoa, tôi vẫn lẹt đẹt tú đơn chờ tú đụp.

Học hành chưa nên cơm cháo ǵ, đánh đoàng một cái, Bộ Quốc Pḥng ra lệnh rằng hễ ai có Tú Tài I trở lên phải mau mau ca bài Ta Đi Ṭng Quân Cứu Nước.

Tôi từng một thuở yêu đàn, đàn đúm trong ban văn nghệ Ngự Lâm Quân rổi Đệ Tứ Quân Khu Ban Mê Thuột nên coi như cựu quân nhân không hề théc méc.

Thế mà một bữa đang mần việc nhà nước, nhận tờ giấy gọi nhập ngũ, ḷng tôi ngẩn ngơ tái tê, hăi ơi là hăi.

Lệnh trên hành quân không cần xét cựu quân nhân hay tân quân nhân, cứ tú đơn là a-lê hấp đi lính, khiếu nại ǵ hạ hồi phân giải.

Cầm lệnh nhập ngũ, tôi lo lắng, sợ hăi, cứ y như hễ đi lính là ḿnh cầm chắc cái chết trong tay.

Chả bù với những tối ngồi trên gác trọ cùng nhạc sĩ Tuấn Khanh, người viết nhạc kẻ đặt lời các bài hát ca tụng chiến công hiển hách của Chiến Sĩ Cộng Ḥa, tôi đă như một người lính can trường cùng đồng ngũ vào sinh ra tử, hiên ngang tay súng bảo vệ sơn hà.

Bây giờ vào việc mới rơ cái bộ mặt chuột hèn nhát, khiếp nhược của ḿnh. Th́ ra, nói một chuyện c̣n làm lại là một chuyện khác.

Tôi linh cảm cả hiện tại lẫn tương lai xụp đổ cái rầm. Mà con đường phải tiến tới lại là độc đạo. Ấy là đường vào quân trường là đường về quê hương.





Chẳng đặng đừng, tôi thu xếp hành trang một gói, theo chuyến xe buưt ghé Quân Vụ Thị Trấn Saigon tŕnh diện. Chờ đến chiều tà có đông đảo, anh em cùng nhau leo lên chiếc xe GMC qua ngả Lê Văn Duyệt, Ngă Tư Bẩy Hiền trực chỉ hướng Quang Trung đến Trại Nhập Ngũ Số 3 làm thủ tục vào trường.

Cuộc đời tôi tưởng chuyến này là đi đoong mút mùa lệ thủy, ai có ngờ đâu chính lại là đường mây rong ruổi thênh thang nhẹ gánh tang bồng!!!

Âu cũng là định mệnh đă an bài, đục nhờ trong chịu…

C̣n tiếp ,


hoathienly19 12-04-2020 21:45



CHƯƠNG 4






Trại Nhập Ngũ số 3,
như phần đông các thanh niên ở tuổi quân dịch đều có nghe loáng thoáng, nằm trong khu vực quân sự mạn Quang Trung, Hóc Môn.

Khi tôi nhẩy từ GMC xuống đất đă thấy doanh trại đầy người, nhưng toàn là “xi-vin”, chưa ai quân phục, ngọai trừ một số quân nhân chính cống lo canh gác, làm văn pḥng.

Chỉ sau một hai bữa nằm chờ khám sức khoẻ, tôi đă biết cách tháo bù-loong của giường gỗ ra làm búa để đập bẹp đồng tiền nhôm tạo thành cái nhẫn chơi.

Chiều chiều, chui rào ra ngoài ăn nhậu xong tối lại ṃ vào.

Khi đi khám tại Tổng-Y-Viện Cộng Hoà về tai mũi họng, chụp phổi, linh tinh, thế nào tôi cũng leo tường thành, nhẩy ra đường cái đáp xe lam xuống chuồn về Saigon du hí.

Hôm sau, chuyến GMC chở thanh niên đến cửa Tổng-Y-Viện, tôi lại chờ sẵn, nhẩy tót lên xe, coi như không có chuyện ǵ xảy ra cả.

Như mọi lần, thanh niên làm thủ tục nhập ngũ chỉ nằm ở trại dăm bảy ngày là xong. Đủ sức khoẻ th́ đi mà thiếu điều kiện là về.

Đến phiên tôi đi lính, năm đó là năm 1963,
t́nh h́nh lộn xộn, có ông đại sứ Ноа-Kỳ Ca-Bốt-Lốt qua An-Nam, chính phủ h́nh như không muốn thêm nhiều rắc rối cho nên dù quân trường Thủ Đức đă khai giảng một tháng, đám thanh niên già, thanh niên trẻ vẫn nấn ná chờ và phút chót họ leo lên xe GMC, trực chỉ Thủ Đức.

Quân trường đành phải lập thêm một đại đội, tức đại đội 5, và chúng tôi tập luyện ngày đêm, không đi phép cuối tuần để theo kịp các đại đội khác.

Đối với người thanh niên b́nh thường, khi Bộ Quốc Pḥng gọi đi lính, th́ anh ta coi đó là chuyện chấp nhận dĩ nhiên. Trai thời lọan mà lị. Đằng này, tôi tưởng như trời sập, cực chẳng đă đành chịu nhưng t́m cách chui rúc an thân.


Sau thời gian một tháng học quân sự, đeo súng ôm ba-lô đi băi, tôi о bế ông Trung Đội Trưởng, nại cớ chân yếu tay mềm xin được ở lại trại lo lắng công tác báo chí, vệ sinh, thu dọn văn pḥng và làm bất cứ chuyện ǵ riêng của ông Trung Đội Trưởng như lau xe vespa, đánh giày, đóng tủ sách, thay v́ cùng anh em leo lên đồi 29, đồi 30 học chiến thuật bắn súng lớn, ném lựu đạn, đốt giây ḿn, v.v...





Lâu lâu tôi lại kiếm được cái phép đặc biệt về Saigon một hai ngày “công tác đại đội”. Những ngày không đi băi, sinh viên sĩ quan học ở lớp, hoặc tập thể dục quân sự, hoặc ḅ chiến thuật, leo giây trong sân trường th́ tôi tham gia rất tích cực, xuất sắc.

Qua ba tháng “quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu’’ tôi nào đă đổ tí mồ hôi nào đâu - sinh viên được chọn ngành để đi binh chủng, binh sở.

Binh chủng lớn như Không Quân, Hải Quân... Anh nào ở lại học đến cuối đoạn đường chiến binh là đi bộ binh, “nữ hoàng của chiến trường.” Ngoài binh chủng là binh sở, các sinh viên có thể được đưa về các ngành chuyên môn tùy thuộc khả năng trắc nghiệm.

Thánh nhân đăi kẻ khù khờ, chả hiểu khi trắc nghiệm làm sao mà tôi lại có tên đi lính thợ may. Thằng bạn tôi là Lê Bảo Hùng (anh ruột ca sĩ Lệ Thanh) cũng ABC khoanh у boong như tôi, nó nhẩy lên xe làm lính tài xế !

Trong nhà binh có nhiều cái vui nhộn con con làm cho đời lính cũng đậm đà.

Anh cu nào về ngành tiếp vận quân nhu th́ gọi bằng “lính thợ may” v́ ngành này nổi tiếng có cái xưởng cắt may Trung Tâm Sản Xuất Quân Trang sát nách Hải Quân gần nhà thương Đồn Đất Grall.

Cậu nào về Quân Vận, gọi là “lính tài xế”. Đứa nào đi Quân Cụ th́ gọi là “lính già” mặc dù ai cũng hiểu ngầm rằng “cụ” là dụng cụ khí giới súng ống đạn ḿn...





Thế là thoắt cái, tôi về trường Quân Nhu nằm trong khuôn trại Lê Văn Duyệt, tức Biệt Khu Thủ Đô, học chuyên môn mấy tháng.

Cả khoá 9 nút Quân Nhu tức khóa 16 Thủ Đức có lối ba chục tên, cộng với sinh viên địa phương quân hai chục mạng, học hành trối chết đủ các môn từ gạo đường tới mắm muối, quân trang, quân dụng đến sửa chữa dù, thả dù tiếp tế, mai táng, quân khuyển, xăng nhớt, tồn trữ, tiếp liệu...

Khoá 9 nút,
hầu hết sinh viên sĩ quan là sinh viên đại học hoặc tốt nghiệp đại học, chỉ có tôi lẹt đẹt yếu ớt chả giống ai.

Cả cuộc đời đi học, tôi đều lêu lổng, chỉ nhờ cóp bài mà lẽo đẽo với bạn bè lên lớp. Nay biết không thể nhờ cậy vào ai, lại biết thân phận ḿnh yếu thế nhờ vả chạy chọt xin xỏ nên tôi dốc hết tim gan t́ phế học hành.

Vừa học tôi vừa cầu Trời khẩn Phật, A-la cho tôi đậu cao để được lựa chỗ tốt gần Saigon. Hồi đi lính Thủ Đức, tôi đă có vợ con rồi, nếu phải đi xa ắt gia đ́nh đ́u hiu nhiều khê lắm lắm...

Nhờ cầu nguyện dốc ḷng, lại học hành gạo cụ,
khi ra trường tôi lănh cái thủ khoa làm ngơ ngẩn từ thày dạy đến anh em, xuống cả đến quán cà- phê của cô Hồng, cô Thúy.

Thế là “ô-tô-ma-tích” tôi lựa Saigon, mần việc ngay tại Nha Quân Nhu (sau các Nha đổi thành Cục) trong trại Lê Văn Duyệt.

Với cái lon nửa hạ sĩ quan nửa sĩ quan là lon chuẩn úy, tôi làm ở sở Tiếp Vận, đặc trách nhượng vải và làm việc văn pḥng chánh sở. Chỉ một thời gian ngắn, tôi lại biết những cú làm tiền ngon lành, dễ ợt.

Món thứ nhất là
nhượng vải cho sĩ quan, loại ka-ki vàng 35 đồng một thước, mỗi sĩ quan có thể xin nhượng 8 thước để tự thực hiện quân phục.

Tôi ngồi chỗ đó, lâu lâu lại lục hồ sơ cũ lấy ra một đơn xin nhượng vải tập thể của đơn vị X, Y, Z nào đó mà tôi đề nghị từ chối, tẩy xoá dấu vết cũ, làm phiếu tŕnh xin chấp thuận nhượng vải xong tŕnh kư phiếu này rồi mầy ṃ xuống xưởng may chạy chọt mua vải với giấy tờ hợp pháp phân miêng.

Với số vải của vài chục sĩ quan, đem bán ra ngoài thị trường Phú Nhuận rẻ ra là 80 đồng một thước, vị chi mỗi thước tôi lời 45 tiền, đem nhân sơ sơ với vài trăm mét kaki, tôi ẵm ngon ơ số tiền trời ơi đất hỡi.

Tôi cứ tưởng như thế là vô tội vạ,
v́ bởi nhiều ông lớn thông đồng khoa học với nhà thầu vải, trà , cơm xấy khô, quân dụng, thực phẩm có cả vài chục triệu đồng th́ cái thứ gà què ăn quẩn cối xay như tôi có bơ bèn ǵ.

Sau này tôi mới biết,
nói riêng về quân nhu thôi, nhiều khi người lính bỏ đơn vị không phải v́ sợ địch quân, trái lại tinh thần chiến đấu của họ rất cao rất vững, nhưng phải trốn về nhà v́ đơn vị đóng ở miền Cà Mau ruộng đồng bao la, Năm Căn heo hút muỗi sa từng bầy; không có cái mùng để nằm ngủ.

Thiếu cái mùng cá nhân trùm đầu, muỗi đốt đau quá chịu không thấu.

Hoặc người lính miền cao nguyên miền Trung vào những ngày tháng lạnh lẽo thấu xương mà thiếu cái mền th́ làm sao chịu nổi ? :112:

Những nguyên do thật giản dị, nhỏ bé ấy, nếu cấp chỉ huy ư thức được th́ cấp nhỏ không bán vải kaki kiếm lời, cấp lớn không làm hao hụt công quỹ, người lính được tiếp tế đầy đủ tối thiểu th́ sự chiến đấu c̣n hăng say tích cực hơn nữa.

Trong hoàn cảnh dù thiếu thốn như thế, lạ thay chỉ có một số rất nhỏ chiến sĩ xuống tinh thần, c̣n hầu hết đều quyết tâm chế ngự, hy sinh chống kẻ thù Cộng Sản.

Đất nước nhờ vậy mới có những chiến sĩ can trường dũng cảm anh hùng bảo vệ miền Nam qua những cơn băo tố cuồng phong khiến cho chính kẻ thù phải khiếp phục và thế giới c̣n lương tâm phải xúc động bàng hoàng.





Ngoài chuyện bán vải, tôi c̣n đi xin xăng để phát mại nữa.

Kho tồn trữ xăng nào cũng dư xăng v́ được phép hao hụt bốc hơi của bồn xăng theo tỉ lệ qui định. Thực tế, xăng không bốc hơi nhiều như thế, nên đơn vị tồn trữ xăng có thể ngọai giao qua lại với anh em, với các đơn vị bạn để đổi chác loanh quanh.

Tôi th́ khác, có xăng là đem bán liền tù t́, để lâu nó bốc hơi cũng phí đi, mà đơn vị cho chỗ khác, đằng nào rồi xăng cũng đổ vào b́nh xe hơi, xe honda, xe vespa, xe lambretta, xe đ̣, tàu thủy...

Tôi tự cho thế là tôi vô tội, bởi rằng c̣n bao nhiêu kẻ khác làm chuyện tầy trời như bán thuốc men, bán gạo, bán vũ khí, bán tài liệu cho Cộng sản th́ chúng mới đắc tội chứ !

Nói khơi khơi chả ai tin đâu, chỉ khi nào cháy nhà ra mặt chuột, lúc ấy mới rơ mặt nào là mặt mo, mặt nào mặt thớt hoặc mặt sứa gan lim đă góp sức xô đẩy cả một giang sơn gấm vóc vào tay quỷ đỏ.

Nhờ mần việc ngay tại Saigon, lại cấm trại liên miên 100 phần trăm, tôi tiếp tục sách đèn đi thi tú đụp.

Số tôi có duyên nợ với trường thi, năm nào cũng ghi tên những mong bảng hổ đề danh mà lận đận mấy keo mới dính. Tôi dính bởi được cóp bài của thí sinh ngồi chung quanh và nhờ tài quay phim số dzách.

Có lần giám thị bắt quả tang tôi đang lục tài liệu dưới gầm bàn nhưng ông lắc đầu lẳng lặng bỏ qua.

Tôi đoán là ổng thấy tôi mặc quân phục cũng ngán, e tôi thù hận cho cái búa th́ khốn. Cũng có thể ông ấy thấy tôi già đầu c̣n mài đũng quần thi cử nên thương hại. Hoặc ổng thấy cái bộ mặt tôi hiền lành chất phác thật thà nên tha làm phúc. Ấy, chính mấy cái đứa thật thà lại là cha quỷ quái. Như tôi chẳng hạn.

Qua dăm phùa vác bút đi thi, tôi như cá vượt vũ môn, ḷ ḍ vào ngưỡng cửa đại học Luật Khoa học đại cho có tít sinh viên lả lướt với đời.

Mặc dù lên quan, tôi vẫn ở căn nhà ngọai ô khu vực Đồng Ông Cộ bèn Gia Định. Khu này nửa tỉnh nửa quê, vừa có điện có ti-vi, lại vừa có khu vườn rau xanh ngát một màu, có tre xanh, ao cá.

Với số lương nhà binh ít ỏi mà sinh họat gia tăng, tôi tiết kiệm ngân quỹ gia đ́nh bằng cách ăn cắp điện. Dùng một cái sào dài, tôi móc một đầu giây xuống ao khiến cho cá bị điện giật nằm phơi bụng lềnh bềnh, tôi vớt về nấu canh chua cá kho tộ.

Đám trẻ quanh hàng xóm, có đứa thấy tôi làm ngon lành cũng bắt chước, chẳng may mó vào giây điện cao thế, bị giật chết ngoéo.

Chưa bắt được cá nó đă nằm ngay đơ hết thở. Tôi cảm thấy áy náy lương tâm mất mấy tiếng đồng hồ, cho rằng v́ ḿnh đầu têu mà thằng bé bắt chtrớc đến toi mạng.

Sau tự an ủi rằng nó làm nó chịu, ḿnh đâu có xúi giục nó đâu nào. Lương tâm lại êm ru bà rù như không có ǵ phiền muộn...





Trong nhà, tôi mua được cái máy lạnh cũ nửa ngựa, c̣n tốt у nguyên. Tiền điện cho cái máy này sơ sơ phải hơn chục ngàn mỗi tháng. Sức voi mới chịu nổi.

Thế là tôi biến chế, lấy điện đường câu thẳng vào máy, không qua đồng hồ điện. Chạy điện chùa thả dàn chả mất xu nào xất cả. Tối nằm máy lạnh, coi ti-vi đài tàng h́nh số 9 ngó cậu Hùng Cường mí lị mợ Mai Lệ Huyền lắc lư con tàu đi song ca kích động, ngắm mợ Thanh Lan nũng nịu dễ thương giọng hát ngọt ngào, rồi theo rơi Tùng Lâm Xuân Phát chọc cười bể bụng, nh́n cậu Nhật Trường áo tây vắt vai lừng khừng trong tiếng ca bay bướm, thích thú coi ban AVT khăn đóng áo dài tŕnh diễn độc đáo tài t́nh, ru hồn vào cơi mộng theo tiếng hát Thái Thanh mê ly tuyệt vời bay bổng...

Tôi đă chẳng thấy chút nào lầm lỗi băn khoăn mà c̣n tự coi như cuộc đời vừa qua mấy nỗi gian truân, nay là lúc được quyền hưởng thụ đôi chút hạnh phúc thanh b́nh...

Cho dù đêm đêm bừng giấc, vẫn nghe vọng về tiếng súng xa xôi...







CHƯƠNG 5



Đôi lúc, từ căn nhà ngọai ô Đồng Ông Cộ nh́n về phía Thủ Đức, Biên Ḥa, có những đóm mắt hỏa châu chập chờn soi sáng, tôi lại bâng khuâng nghĩ đến số phận hẩm hiu của đất nước ḿnh.

Đất nước nằm bên bờ đại dương h́nh cong chữ S mà sao nom trên bản đồ, tôi cứ thấy hiện lên chữ “SOS”.

Chữ S đầu tiên là ranh giới giữa ta với Lào và Cao Miên. Chữ о là h́nh thể đảo Hải Nam, nằm ngang với Thanh Hoá, Vinh, Hà Tĩnh. Chữ S sau cùng nằm ven Nam Hải, sóng nước bao la.

Đất nước tôi chắc v́ thế nên lúc nào cũng ở trong t́nh trạng báo động, giới nghiêm, thiết quân luật, lúc nào cũng khẩn trương, nguy cấp...

Mà nh́n kỹ, nào có thấy ǵ là gây hấn, chiến chinh ?
Cảnh toàn cảnh đẹp như Vịnh Hạ Long, Hồ Hoàn Kiếm, Hương Giang, Ngự B́nh, Ngũ Hành Sơn, Cam Ranh, Nha Trang, Đà Lạt, Vũng Tàu, Cửu Long, Tiền Giang, Hậu Giang, Hà Tiên, Phú Quốc...

Địa danh nào cũng mang những tên hiền ḥa phúc hậu nhu ḿ như Ḥa B́nh, Hưng Yên, Kiến An, Nam Định, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Phước Long, An Lộc, Phú Cường, Biên Ḥa, Vĩnh Long, B́nh Long, B́nh Tuy, B́nh Giả...

C̣n nói về con người th́ người nào cũng có cái tên nhẹ nhàng ư nghĩa từ hán tự, kinh điển, danh nhân như Xuân, Hạ, Thu, Đông, Mai, Lan, Cúc, Trúc, Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh, Giáng Hương, Hằng Nga, Bích Ngọc, Vân Kiều, Nguyệt Nga, Thủy Tiên, Mai Hoa, Quư Phi, Hồ Điệp, v.v...

Cảnh là cảnh đẹp, tên là tên xinh, đất là đất lành chim đậu. Ấy thế mà mấy ngàn năm dựng nước, lịch sử đă ghi biết bao nhiêu tang thương ngẫu lục rối bời.

Theo cái đà ấy, đến lượt tôi cũng tiếp tục trôi theo vận nước điêu linh thống khổ, gần hết cuộc đời lớn lên và sống trong chiến tranh.

Xưa kia th́ ngoại bang cai trị đàn áp, ngày nay th́ chủ nghĩa vô thần ác quỷ hiện h́nh người reo rắc đau thương làm cả nước bị đọa đày...

Nên giữa những cánh đồng bao la thơm mùi lúa chín lại có thêm những ṿng giây kẽm gai quanh đồn pḥng ngự.

Nên bên cạnh những bà mẹ già tóc bạc phơ lại có những người vợ trẻ đầu quấn khăn tang bồng con thơ dại. Nên những nấm mồ phủ cờ vàng ba sọc đỏ lại nối tiếp nhau trong nghĩa trang bốn vùng chiến thuật.





Ngành Quân Nhu của chúng tôi chẳng những lo nhu cầu ăn mặc, xăng nhớt cho quân nhân mà lại c̣n phụ trách cả vấn đề chung sự.

Khi người lính giă từ vũ khí mà không về nhà, rủ nhau vào nằm nghĩa trang yên tĩnh nghỉ ngơi. Ở đó, có đủ cấp bậc từ tướng đến tá đến úy đến hạ sĩ quan, đến lính.

Ở đó có đủ tôn giáo họp mặt như Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Ḥa Hảo... Ở đó có đủ huy chương từ Bảo Quốc Huân Chương đến Quân Phong, Quân Vụ Bội Tinh...

Ở đó tôi có nhiều bạn bè nằm xuống hồn nhiên, lặng lẽ, thanh thản. Khi những ngọn nến hắt hiu rồi tàn lụn, những nén nhang nghi ngút xong tắt ngúm, những tiếng khóc nức nở thê thảm gào thét ch́m dần, trôi theo đất cát xuống nắp quan tài... th́ c̣n lại chỉ người nằm xuống bạn bè cùng mưa gió, với trăng sao, với tiếng nỉ non côn trùng rên rỉ...





Tôi thường có công tác ở những chốn vui buồn, vui nhiều như đám hỏi, đám cưới; vui vừa như đám tiệc, đám ăn; vui ít như đám... giỗ, đám chạp.

C̣n chỗ buồn ít như nhà thương, buồn nhiều như... nhà xác !

Trong các chốn buồn vui như thế, tôi thích thỉnh thoảng được đến thăm chỗ buồn nhiều. Nơi nghĩa trang có đầy đủ những nét đậm đen đau xót đó. Chỉ ở nơi ấy, tôi mới được dịp gần gũi với chính tôi, kiểm điểm xem ḿnh đă làm được ǵ - không phải nghĩ lớn lao như làm ích lợi cho đất nước đâu, mà chỉ là cho anh em đồng ngũ - để đỡ mang tội với chiến hữu.

Những lúc nghe tiếng khóc ngất của gia đ́nh tử sĩ, tiếng trẻ thơ khóc ṿi ngủ ṿi ăn, tiếng kèn vĩnh biệt ngân xa thăm thẳm, tôi cũng thấy ngậm ngùi không ngăn nổi ḍng nước mắt.

Nước mắt tôi xót thương kẻ ở, người đi một mạch đă đành, mà cũng là nước mắt một kẻ ăn năn hối hận về những tội của ḿnh lỡ phạm.

Khi nghĩa trang G̣ vấp đă đầy đủ quân số, chúng tôi có thêm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa nằm bên xa lộ, trên ngọn đồi cao, thênh thang trời mây bát ngát.

Nơi đây, dẫu là nơi nghĩ b́nh yên của những chiến sĩ quả cảm, can trường, vẫn có những cặp t́nh nhân sinh viên, những đôi lứa trẻ măng d́u nhau thủ thỉ qua lối ṃn uốn quanh ṿng ốc trên đồi.

Có những ngôi mộ cỏ mọc xanh ŕ, mộ bia cũ kỹ. Có những nấm mồ trồng hoa, trải đá bao quanh, với mộ bia khắc ghi họ tên, ngày tháng năm sinh, năm tử trận.

Dân tộc ta là một dân tộc thi sĩ, mỗi người là một thi sĩ thật không ngoa. Ngay cả đến lúc đau khổ tột cùng, ta vẫn xổ thơ văn để bày tỏ khúc đoạn trường. Trên một bia mộ đá, tôi đọc thấy hai câu thơ này:

Chàng vui tiên cảnh đà an phận

Thiếp với năm con luống ngậm ngùi...

Qua một bia mộ khác, lại thấy:

Sống làm chiến sĩ anh hùng

Chết coi nhẹ tựa lông hồng phù du...



Ôi cha ! Một dân tộc thi sĩ, hồn thơ bay bướm lả lướt như thế mà chịu cảnh địa ngục trần gian, phải làm thơ phúng điếu thay lời !





Tôi có mấy người bạn họ cũ từ thời tiểu học, khi nhớn lên chúng nó ca bài “ta đi ṭng quân”.

Thằng Nguyễn Trọng Quyền tức “Quyền Thịt Quay” - v́ nhà nó bán heo quay - đi lính đóng tới lon quan ba, quanh năm lùng giặc mạn Kiến Ḥa, mặt mày đen như củ súng.

Hơn chục năm không gặp nhau vẫn nhắc đến thịt quay nhà nó. Đùng một cái tới lúc gặp nhau th́ nó chả thèm nói câu nào. Tôi đứng canh xác nó quàn tại nghĩa trang, phủ cho nó lá cờ tổ quốc ghi ơn và đưa nó vào ḷng đất mẹ. :112:

Thằng cháu tôi đi lính tàu bay đeo lon trung úy, trong một chuyến bay băo bùng, thân tàu va vào núi tan tành. Xác nó tả tơi đâu đó, quân đội chỉ c̣n dăm ba kỷ vật gói ghém bỏ vào quan tài đóng lại để thân nhân chôn cất. :112:

Tôi biết linh hồn nó quanh quất với gia đ́nh. Nấm mồ trên nghĩa trang đă được ba nó, thày học cũ của nó và tôi, chúng tôi chở gạch cát xi-măng xây cho đẹp đẽ, trồng hoa giấy, dọn dẹp tinh tươm. Nó mới ngoài hai mươi, chỉ một lần yêu th́ người con gái lại đa t́nh bay sang cành khác, nên ba năm t́nh lận đận, lúc chết vẫn cứ yên chí rằng người yêu vẫn đợi vẫn chờ. :112:

Nguyễn Ngọc Sơn, thế cũng là định mệnh ! Lại có thằng bạn chọc trời khuấy nước, đi Vơ Bị Đà Lạt năm 1953 mà cấp bậc khi thăng lúc giáng lúc huề, chỉ v́ ba gai, lả lướt với đào.

Nhưng mà đánh trận th́ nó ch́ lắm.

Những ngày cuối cùng của tháng tư đen, nghe nói nó tử thủ Long Khánh, đánh Cộng Sản rất tới, giữ chiến tuyến vững như bàn thạch.
Chả hiểu mô tê ra làm sao, bom đạn bị hạn chế, máy bay hạn chế, để cho quân CS ùa vào pḥng tuyến.

Trung tá Lê Quang Đ́nh, tiểu khu phó Long Khánh ở lại cùng anh em chiến đấu tới cùng.
Và nó đă đền xong nợ nước tại chiến trường Xuân Lộc. Tôi không tin rằng xác nó được mang về nghĩa trang vào giây phút dầu sôi lửa bỏng đó, nhưng chắc chắn linh hồn nó đă cùng đồng ngũ rủ nhau về tề tựu nghĩa trang như một điểm hẹn ḥ.:112:





Chú em tôi Trần Kính Trực,
sĩ quan pháo binh Long An đi trận đạp phải ḿn, đưa về Tổng-Y- Viện Cộng Ḥa th́ tắt thở. Nó từng rót vào đầu Cộng Sản những cú trọng pháo nẩy tung người. Ngày nó từ bỏ anh em đơn vị một ḿnh thơ thẩn nghĩa trang, đôi dịp đi công tác tôi cũng ghé thăm chốc lát, thắp cho nó một nén nhang, th́ thầm với nó dăm câu tâm sự. Rồi lại âm dương cách biệt, hai ngả phong trần.

Thằng Nguyễn Văn B́nh
đi lính với tôi từ hồi ở Ban-Mê-Thuột đệ tứ quân khu, làm pḥng 5 văn nghệ báo chí điện ảnh, đóng lon trung sĩ.

Tôi giải ngũ, tái ngũ, nhập ngũ rồi lại giải ngũ mà nó vẫn ở nhà binh, thuyên chuyển về Saigon làm chuyên viên quay phim cấp bậc chuẩn úy già.

Ngày chiến cuộc B́nh Long tử thủ, cả thế giới theo dơi chiến công của quân lực VNCH anh hùng quả cảm, ít ai dám ṃ vào vùng đạn bay ḿn nổ, th́ nó leo lên trực thăng xông pha nơi trận địa mịt mù thuốc súng với hy vọng quay được những h́nh ảnh sống thực, lẫy lừng. Nó từng bay đến nhiều chiến trường để làm nhiệm vụ nhưng lần này là lần chót.

Nó gẫy cánh trên đường vào An Lộc, chết trong sự t́nh cờ, tuy chẳng dám chờ mong mà như vẫn theo vẫn đợi. Nơi nghĩa trang, nó được phủ quốc kỳ, được truy tặng huân chương, được anh em thương xót tiễn đưa đến nơi an nghĩ cuối cùng. Từ đó, nó miễn phải đeo máy quay h́nh, ôm ba-lô phim ảnh, miễn công tác, miễn tạp dịch.

Miền thảnh thơi thoát tục ấy, nó gặp lại bằng hữu cũ đă một thời xả thân ǵn giữ từng tấc đất quê hương, từng cây cầu, từng con sông, từng mái nhà, từng thửa ruộng... Nó sẽ có dịp cùng bạn bè ôn lại biết bao chiến tích hào hùng của cổ thành Quảng Trị, Khe Sanh, Đức Cơ, Đồng Xoài, B́nh Giả, Kontum, An Lộc, Hạ Lào...

Trong mấy mươi năm chiến đấu, những ai c̣n ai khuất, ai được đặc cách thăng thưởng tại mặt trận, ai được huy chương truy thăng trước linh vị u hoài. Lúc sống, nó không cô đơn. Đến khi giă biệt, nó vẫn c̣n có nơi bù khú. Chỗ họp mặt ấy, là Nghĩa Trang Quân Đội.





Ngày tôi ở quân đội, nhiều ông lớn có tài sản riêng nom mà phát hăi. Trên Đà Lạt, vùng Chi Lăng mọc lên những ngôi biệt thự xây cất kiên cố, đắt tiền. Nhưng nhờ thợ nhà binh, dụng cụ nhà binh nên cũng đỡ tốn kém.

Nh́n các biệt thự ấy, phần lớn tôi thấy ánh sao lấp lánh rạng ngời, mai bạc lung linh. Khu vực bao quanh hồ Xuân Hương được chỉnh trang theo họa đồ thiết kế, không ai được xây cất làm nhà làm cửa ǵ cả, chỉ sau thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă mọc lên lác đác dinh cơ mái đỏ ven đồi, cũng lập loè ánh sao...

Từ đó suy ra th́ các nơi như Huế, Nha Trang, Cam Ranh, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Saigon, Cần Thơ... đều phác họa phương thức trên như nhau hết cả.

Trong sở, có bạn rủ mua đất mạn Lái Thiêu để làm nhà, đào ao thả cá, trồng cây cảnh, ngâm thơ đọc sách. Tôi không nghĩ xa xôi một mực lắc đầu để có thời giờ ăn chơi cho đă.

Trên Đà-Lạt, ông anh làm ṭa thị chính lâu năm xin được đất trung tâm thị xă, rủ chú em làm dăm căn cho thuê, một căn dành nghỉ mát, tôi vái dài v́ muốn dành chút tiền kiếm chác áp-phe buôn bán mau ăn hơn.

Mà thật t́nh, tôi chẳng ham ǵ nhà cửa dinh thự tít măi cao nguyên, cũng chẳng ưa cảnh nhàn du trầm tư mặc tưởng. Tôi cũng không phải lo ǵ về đất cát mai sau.

V́ tôi biết một ngày nào đó hai tay buông xuôi, chuyện đất đai của tôi sẽ có nơi lo liệu, là nằm trong Nghĩa Trang Quân Đội, được gần gũi với anh em bạn bè, với những người chiến sĩ vô danh, với cây cỏ trời mây, với gió mát trăng thanh hiền ḥa êm ái...

Đó là mảnh đất tôi yêu nhất, như một vinh dự của người lính Tiếp Vận có gần mười năm quân vụ, tuy rời tập thể mà h́nh ảnh quân kỳ, t́nh chiến hữu măi c̣n đậm đà, tha thiết, yêu thương...

Mảnh đất nhỏ bé ấy, tôi vẫn xót xa một đời hoài vọng... :112:

C̣n tiếp ,


hoanglan22 12-05-2020 15:06

@hoathienly19 :thankyou:...Với những bài Post , em đều sưu tầm h́nh ảnh để lên cho sống động . Một lần nữa :thankyou: rất nhiều đă góp sức để mọi người đọc

hoathienly19 12-06-2020 09:33


CHƯƠNG 6



Cứ mỗi lần công tác nghĩa trang như thế, tôi lại có được ít phút ngẫm nghĩ loanh quanh về đất nước, chiến tranh, về những người nằm xuống và dăm ba tội lỗi của ḿnh.

Nhưng khi chiếc xe jeep vừa rời khỏi cổng nghĩa trang, chưa kịp ngoái cổ trông lại bức tượng “ Thương Tiếc ” (của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu) xe đă bon bon trên xa lộ, th́ bao nhiêu thương tiếc, tiếc thương đều tan biến vào gió lộng, trước mắt chỉ c̣n những nẻo đường đi Biên Ḥa ăn đầu cá hấp, hoặc rẽ ngả Long Thành đi Vũng Tàu ghé quán Bầu Quỳ, quán Tầm Dương ăn cua rang muối, chim quay, ḅ nướng sả, hoặc theo hướng Saigon, quẹo xa lộ Đại Hàn vào Đường Sơn Quán nhâm nhi la-de củ kiệu, hoặc chạy thẳng qua cầu Phan Thanh Giản về mạn Đakao ăn ḿ cây nhăn, chè Hiển Khánh, chả cá Như Ư, Thăng Long...

Lính tiếp vận như tôi là một thứ lính văn pḥng, sớm nhẩy Lambretta đi, tối dọt Lambretta về, ngày qua ngày lại qua ngày.





Trong ngành tiếp vận, ngoài vấn đề xoay sở các cục bạn, khi th́ xin cái b́nh ắc-qui bên Quân Cụ, khi cặp kè ít cục pin Truyền Tin, lúc ngọai giao cục Công Binh làm ít vỉ sắt, ít tôn về sửa nhà, tôi c̣n lân la “ đề mẹc ” với cả bên Quân Tiếp Vụ nữa. Tháng tháng, tôi qua bển, găi đầu găi tai xin ông Cục Trưởng kư cho cái phiếu đặc biệt nhượng hàng.

Thế là tôi có dăm tút thuốc lá, vài chục hộp sữa, vài chục đồ hộp, dăm kư đường, vài hộp dầu ăn... Tôi đă ăn lạm nhu yếu phẩm của vợ con binh sĩ mà cứ ngơ ngơ như một kẻ được dựa hơi quyền thế làm tàng.

Bù vào những cái lem nhem gà què ăn quẩn cối xay như thế, tôi tỏ ra là một sĩ quan có cái vỏ ngoài quân phục chỉnh tề, tôn trọng quân phong quân kỷ.

Quần áo bao giờ cũng hồ thẳng nếp, lon mai vàng bóng loáng trên ve áo, tên rơ ràng, thẻ bài lẻng kẻng ṿng cổ, thắt lưng đen đan bằng giây dù, đôi giày “bốt-đờ-sô” láng cóong, con kiến nào ḅ lên cũng té bổ nhào.

Chiếc nón vải biến chế sáu cạnh may riêng tại xưởng quân trang, đính bông mai vàng lấp lánh. Trên ngực trái, tôi lại có tới hai cái huy chương quân phong bội tinh và quân vụ bội tinh. Với bằng ấy thứ, nom tôi mặc đồ trận với cấp hiệu, phù hiệu, huy chương th́ rơ ra một quân nhân cấp úy đàng goàng tư cách.

Nhưng bên trong cái tư cách ấy chỉ có tôi với mấy ông bà thợ may khu chợ Phú Nhuận, mấy chỗ tiêu thụ xăng lẻ, vài anh em bên Quân Tiếp Vụ cùng mí lị cục bạn là biết tẩy của nhau thôi. Thôi th́, đời lính được như thế đă là măn nguyện lắm rồi, c̣n đ̣i hỏi ǵ hơn nữa!

Ấy vậy mà tôi c̣n được xếp trên thương, phê điểm là sĩ quan gương mẫu (!), làm việc tận tụy với nhiệm vụ giao phó và được đặc cách thăng thưởng tại... văn pḥng, đeo lon trung úy, mỗi bên ve áo hai bông mai vàng mới nở.

Cái năm 1966 là năm
song hỷ trùng phùng của tôi, bởi chưa đầy một tuần lễ nghị định thăng cấp trung úy thực thụ cho cả khoá phổ biến tới cục. Tôi leo hai cấp, một cấp giả định và một cấp thực thụ trong ṿng có một tuần lễ.

Ở lính “ thợ may ” 4 niên, đến cuối năm 1967 cả khoá 16 được giải ngũ theo lệnh Bộ Quốc Pḥng. Tôi nghĩ cuộc đời binh nghiệp của ḿnh nếu có nán lại vài mươi năm chắc cũng chẳng thăng quan tiến chức là bao.

Bạn học với tôi, chúng nó đi sĩ quan Đà Lạt từ khoá ba, khoá bốn, đă đeo mai bạc cả rồi.

Như Thiếu Tá Nghiêm Viết Thành, như Trung Tá Nghiêm Kế... Hoặc có đứa nhẩy đi ngọai quốc làm điện ảnh, sau này nghe nói lên tới hàng phụ tá đạo diễn ở La-Mă như Long Cương, hoặc có bọn không phải đi lính, học hành đỗ đạt nên danh phận như chánh án Đào Minh Lượng (văn thơ rất là rả rích), dự thẩm Hoàng Phùng Vơ, luật sư Phạm Thụy Hùng...

Cho nên tôi xin hoàn lại túi quân trang, chiếc giường vải, mùng mền cá nhân tại Ban Tiếp Liệu để trở về đời sống dân sự ở ngạch công chức hành chánh, mong ôn lại sách đèn lều chơng với trường thi.





Tôi về nhiệm sở cũ là Phủ Tổng Thống rồi được bổ nhiệm qua văn pḥng Phủ Thủ Tướng.

Hồi đó, luật sư Nguyễn Văn Lộc làm Thủ Tướng, đổng lư văn pḥng là cụ Nguyễn Lê Giang (cũng là nhiếp ảnh gia nữa!), phó đổng lư là xếp cũ Quân Nhu của tôi, Nguyễn Đăng Hải.


Ít lâu sau, cụ Trần Văn Hương thay thế luật sư Lộc, văn pḥng có sự thay đổi nhân sự.


Từ cần Thơ thuộc vùng bốn, ông Lê Công Chất về làm đổng lư thay cụ Giang, xếp Hải qua trấn nhậm Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp, c̣n tôi vẫn phải tiếp tục làm văn pḥng đổng lư với cái tít nghe rất dễ yêu là “ tham chánh văn pḥng .”

Dưới thời cụ Hương, ông Chất được ủy nhiệm thay mặt Thủ Tướng đi thanh tra quan sát chiến dịch tấn công b́nh định tại các quân khu. Ông đổng lư bèn lôi tôi đi xách cập. Ǵ chứ cái chân ôm “cạc-táp”, điếu đóm th́ tôi rất rành, nên vâng dạ xin theo hầu “tút-xuỵt”.

Hàng tuần, thày tṛ bỏ ra hai ba ngày cuối tuần đi thanh sát các tỉnh, các quận trên bốn vùng chiến thuật.

Khi th́ dùng máy bay E-Giao Chỉ, khi công xa Việt Nam ẩn số, lúc trực thăng bán phản lực ù ù, lúc tắc rán, thuyền gỗ, lô ca chân.

Xếp tôi đội cái nón vải nhỏ, mặc đồ xám ba túi, đi dép da, dáng người cao lớn đậm đà, nom nghiêm nghị mà nói năng rất văn thơ dí dỏm, kinh nghiệm đầy ḿnh về hành chánh địa phương.

C̣n tôi mặc bộ đồ kaki nhà binh nhuộm nâu, ṿng quanh vai kè kè khẩu P-38 và vài chục viên đạn đồng, tay xách cặp, tay ph́ phèo điếu Salem.- Suốt thời gian 6 tháng ṛng ră, thày tṛ tôi đi công tác thăm dân cho biết sự t́nh.





Tới Quảng Ngăi,
thăm nhà máy làm đường th́ cơ sở chưa dựng xong, Cộng sản đă đặt ḿn phá hoại.

Đường làm bằng mía th́ ruộng mía bị Cộng Sản đốt cháy tiêu.

Về quận thăm ấp an ninh 75 phần trăm tức an ninh lọai B
- thấy dân cư mặt mũi xanh rờn, quần áo tinh thơm, cửa hàng mới toanh, thợ hớt tóc khoác áo trắng như áo bác sĩ c̣n hồ thẳng nếp, hàng họ bày bán toàn đồ ở phố thị đem về trưng bày.

Hỏi thăm người dân, có kẻ không nói, có kẻ ậm ừ, có người bảo rằng nghe tin ông lớn về thăm quê nên quận chỉ thị dàn cảnh cấp tốc.

Khi nào ông lớn về th́ dân cũng về quận luôn v́ bên kia sông, Việt Cộng kiểm soát, đêm nào cũng ṃ sang quấy rối.

Tới B́nh Định,
thăm các quận B́nh Khê, Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài An, lên Bồng Sơn, Tam Quan, thấy quân đội Hoa Kỳ c̣n đồn trú mà quanh đó nghe đâu Cộng sản như rươi.

Ngày phái đoàn đến thăm,
xe đi đường bộ, tới địa điểm thấy cờ phướn tưng bừng, biểu ngữ giăng đầy lối xóm. Đông đảo đồng bào cầm cờ nhỏ đón rước phái đoàn.

Sinh hoạt rơ ra là đầy sức sống, tăng gia sản xuất, trái ngọt cây lành, gà vịt trâu ḅ heo đủng đỉnh. Nhà cửa có mặt tiền quét vôi tươi mới, người dân ăn mặc lành lặn.

Rồi diễn văn, đáp từ, ban nhạc địa phương cử hành tân cổ nhạc, ai nấy ra bộ vui vẻ, hân hoan ngày hội lớn.

Buổi chiều, cỡ hai giờ,
phái đoàn rút lui cho kịp tới về đến tỉnh th́ chỉ vài tiếng sau địa điểm trên đă vắng lặng như tờ, đồng bào thu xếp vội vàng chuồn cho lẹ, Cộng Sản vẫn làm chủ t́nh h́nh ban đêm.

Nơi ấy, tỉnh thường báo cáo an ninh lọai A,
tức 100 phần trăm phe ta kiểm soát.





Tới Nha Trang,
thăm Cam Lâm, Diên Khánh, gặp ngày địa phương phục kích tiêu diệt trọn ổ Việt Cộng, mời phái đoàn tới thị sát chiến trường c̣n loang máu.

Phái đoàn đến Diên Khánh lội ruộng, nghe quân ta tường tŕnh buổi phục kích và triệt hạ kẻ thù rất là nẩy lửa. Khi nh́n gần chục tử thi CS nằm xếp hàng trên con đường đất nhỏ, úp mặt xuống đất, tên nào cũng trẻ măng tuổi học tṛ, chỉ v́ nghe CS xúi dại mà lao đầu vào chỗ chết, lại nh́n mấy bà mẹ đến xin nhận xác con, khóc tức tưởi nghẹn ngào, mới thấy cuộc chiến Việt Nam thê thảm, năo nề.

Tới Ban-Mê-Thuột,
phái đoàn đáp trực thăng đi thăm Biệt Điện - nơi nghỉ ngơi, săn bắn của Cựu Hoàng trước kia - thấy nhện giăng cửa, dơi chuột tung hoành, chiếc hồ rộng đầy rong rêu chật ních, chung quanh cây cối cỏ mọc tùm lum, dân cư lèo tèo thưa thớt.


Phái đoàn đến thăm vài “buôn” của đồng bào thiểu số, tặng quà, ghi nhận nhu cầu xin trợ cấp, lại thăm xă giao các chức sắc FULRO đàm đạo vài hồi trong tinh thần thông cảm Kinh Thượng một nhà (?), rồi tới đồn điền cà-phê của mấy ông Tây hỏi han dăm điều ba chuyện, xong ăn tối với rượu Pháp, món Pháp, các ông lớn x́ xồ tiếng Tây, c̣n tôi ngồi câm như thóc, cắm đầu đớp cá hấp, thịt nai, thịt thỏ như điên, mặc người lớn bàn ngang bàn dọc về trời trăng mây gió, sinh họat địa phương, văn chương chữ nghĩa, rượu vào lời ra vui như nút sâm-banh nổ...

Tới Đà-Lạt,
phái đoàn đi xe hơi ṿng quanh đèo núi, thăm đập Đa Nhim, Liên Khương, ấp Hà Đông, coi đồng bào trồng hoa màu, trái thơm, dẫn thủy nhập điền, canh tác bốn mùa.

Thời giờ c̣n lại cuối tuần, thày tṛ đi chơi phố, lên lăng Nguyễn Hữu Hào, Cam Ly, hồ Than Thở, ghé nḥm cổng trường Vơ Bị Quốc Gia, ṿng lại Nha Địa Dư, trường Yersin, chạy quanh hồ Xuân Hương, đỗ tạm vườn hoa Bích Câu, qua Nguyên Tử Lực Cuộc, thế là hết cả ngày giờ thấm thoát thoi đưa.





Tới Cần Thơ,
ngồi thuyền gắn máy đuôi tôm chạy trên sông lạch thăm nhà máy xay lúa do người Việt gốc Tàu quản trị, nghe đồng bào ai oán kể vụ bán lúa non, thấy đời sống dân quê tuy đạm bạc nghèo nàn mà vẫn ca vọng cổ lúc ma chay, vẫn ăn thịt cá tôm cua, vẫn lai rai dăm ba sợi mỗi chiều tà, mới biết dân ḿnh an phận thủ thường, vui cái vui ta có, buồn cái buồn ta mang, không than thân trách phận, chỉ c̣n biết vái trời.

Thày tṛ tôi đi nhiều nơi, xuống cả đến làng xóm, ngoài chương tŕnh dự định của địa phương để thấy có nơi mở trường học dạy toàn tiếng Tàu, mặc dù Bộ Giáo Dục có chỉ thị rơ ràng về vấn đề giới hạn giảng dạy tiếng Trung Hoa tại các trường Ноа-Việt.

Có chỗ ông tỉnh, ông quận chưa bao giờ đặt chân tới, nhưng khi xép tôi hỏi thử t́nh h́nh an ninh chỗ ấy ra sao th́ địa phương báo cáo an ninh loại B, 75 phần trăm.

Xếp tôi đi bộ vào thăm làng th́ địa phương huy động cả đại đội dàn quân mở đường, băng đồng, lội ng̣i, lội lạch xục xạo tiền thám cho phái đoàn đi tà tà phía sau chậm bước. Cứ như con mắt có dính tí nghề nghiệp nhà binh th́ đó là một cú hành quân. Mà đă hành quân là có nguy hiểm, có thể đụng độ với Việt Cộng dễ như chơi.

Ông xếp tôi không ở quân đội, chắc không biết nên ṃ tới. Rồi mọi chuyện cũng êm ru bà rù, không có đạn nổ, ḿn bẫy nhau ǵ cả. Ngồi trên xe, tôi rỉ tai ông xếp về chuyện vừa qua th́ xếp tôi cười bảo :


“ Tôi biết chứ chú, th́ ḿnh cũng phải liều. Họ bảo làng đó an ninh mà ḿnh không tới là ḿnh nhát.
Phải như vậy để lần sau họ đừng báo cáo láo. Chú hiểu chứ !” Tôi dạ dạ vâng vâng rất là thông cảm.




Có bận đi công tác Quảng Ngăi, vừa tới nơi đă nghe tin rằng Việt Cộng ám sát ông xếp. Xếp lớn tôi không hăi v́ nghe quen rồi nhưng tôi th́ hăi. Bởi nhỡ nói dại nói dột, quân Cộng sản nhắm phơ xếp tôi mà nó bắn dở, đạn dính ngay vào tên xách cặp th́ có phải đời tôi đi đứt không cơ chứ !

Buổi họp tại rạp hát tỉnh, phái đoàn vừa dự lễ chào cờ xong tôi đă nghe một tiếng nổ, đạn xuyên qua mái tôn, rớt trên sân khấu.

Xếp tôi xin viên đạn bỏ túi đem về làm kỷ niệm !

Có lần đoàn xe chạy từ quận về tỉnh có hộ tống xe tăng th́ khi xe tăng quay về quận bị Việt Cộng bắn sẻ, tuy chả nhằm nḥ chi, nhưng nghe kể lại cũng thấy ngài ngại làm sao ấy.

Những cuộc hành tŕnh cuối tuần như thế, tôi có dịp nghe xếp giảng truyện Kiều, chữ trung hiếu tiết nghĩa trong Lục Vân Tiên, nơi nào xếp tôi nói cũng được cử tọa chăm chú nghe ra chiều chịu lắm.

Cái duyên của người nói chuyện đă làm cho không khí buổi họp giống như một buổi văn nghệ thoải mái nhẹ nhàng.




Nhiệm vụ của tôi là ghi chép ba điều bốn chuyện, lúc về nhà viết lại cho thành bản phúc tŕnh với đầy đủ hiện t́nh, nhận xét, đề nghị.

Phần đề nghị th́ lúc ngồi xe, ngồi máy bay xếp tôi đọc cho chép. C̣n các mục khác, tôi có nhiệm vụ như cái máy h́nh, chụp cho rơ ràng sáng sủa.

Phúc tŕnh nào xếp tôi cũng có làm dăm ba câu thơ phụ đề lả lướt. H́nh như Thủ Tướng khoái lắm, bởi cụ cũng là nhà thơ... găi háng lăn tăn mà lị !

Quả thực , tôi là cái máy h́nh nhưng ống kính tồi , đặt ánh sáng tốc độ sai và chụp góc cạnh không nghệ thuật.

Cho nên t́nh h́nh địa phương А
th́ báo cáo tiến triển khả quan, b́nh định đang mạnh mẽ

Tỉnh B
có nhiều quận bất ổn th́ tŕnh thượng cấp là an ninh đang được văn hồi, ta làm chủ t́nh h́nh.

Quận C
dân chúng cực khổ th́ “ráp po” cho dân chúng sống ngon lành, dễ chịu.

Địa hạt D
do chính quyền làm ăn bê bối th́ mô tả rằng hành chánh chạy pho-pho, nhân viên toàn là công bộc.

Miền đồng bào bị “Ва-Tàu” cướp cơm chim, bao vây kinh tế th́ báo cáo nông dân canh tác, thu hoạch nhiều, lợi tức cao...

Khu H
cần nhu cầu thuốc men у tế, trợ giúp đồ mặc lạnh th́ phúc tŕnh địa phương lo lắng cho dân đầy đủ mọi bề!

Sở dĩ tôi viết sai quấy như vậy v́ biết tỏng rằng các chức quyền địa phương đều là người tin cậy của xếp bự, gốc lớn, đâu có ngán ai. Th́ cái cỡ ḿnh báo cáo, có moi những cái xấu xa tồi tệ thế nào th́ cũng chả rụng cái lông chân của họ. Lại nhiều khi mua thù chuốc oán nữa nếu họ biết ḿnh vạch lá t́m sâu.

Vả lại mỗi lần thăm viếng như thế, nhiều chỗ rất biết điều, thấy phái đoàn tới là có tí quà nhỏ cho tên điếu đóm để nó hót dùm thêm vài phát cũng vui tai.

Nào là tặng cặp gà tre đă bỏ sẵn trong lồng, nào là nem chua, ché, hoa hồng, dâu, mận, nào là tôm khô, nước mắm, nào là sâm Cao-Ly, vây cá, bánh phồng tôm, chim mía, cá mực, sầu riêng, chôm chôm, ổi, nhăn...





Ấy thế cho nên tôi cứ trung dung chi đạo, lơ lửng cái con cá vàng, phúc tŕnh nào cũng đầy khích lệ và tiến triển nom thấy, cấp trên có thấy hay không th́ không biết, chứ như chính tôi, tôi đă tự dối lương tâm làm điều sằng bậy viết lách báo cáo tầm bậy tằm bạ, thiếu trung thực, thiếu đắn đo, lại c̣n toa rập nhận quà cáp lu bù kèn để đến nỗi quên cả lương tri, quên cả những nỗi thống khổ nhục nhằn của người dân nghèo chốn xa xôi sống một đời “ một cổ đôi ba tṛng ” vất vưởng...

Tôi nào nghĩ đó tội t́nh chi. Ḿnh là tép riu ai mà đếm xỉa. Ấy chính mấy cái tép riu đó cộng lại, tích lũy mà đâm ra đổ vỡ. Tôi c̣n lấy làm thú vị t́nh thâm v́ những dịp đi công tác như thế, tôi được nh́n tận mắt những địa danh như “la bàn thạch trận” :

Núi Thiên Ấn, Thiên Bút, sông Trà Khúc, ḍng Hương Giang, nhịp găy Trường Tiền, tiếng chuông Thiên Mụ, cầu Bạch Hổ, đầm Ô Loan, Ngũ Hành Sơn, Tháp Chàm, Ḥn Chồng, thác Prenn, Pongour, đồn điền cà-phê, rừng cao su, vườn hạt tiêu, chiều trên bản Thượng, sông nước Hậu Giang, đồng lúa Long Xuyên, kinh Ва-Thê, kinh Cái Sắn, núi Bà Đen, cồn Phụng của ông Đạo Dừa, quê hương của nhà bác học Trương Vĩnh Kư, lăng Vơ Tánh, Ngô Tùng Châu, lầu ông Hoàng, nơi an nghỉ cuối cùng của Hàn Mặc Tử, chỗ dấy nghiệp của Quang Trung Đại Đế, những miền thùy dương cát trắng lơi lả bóng dừa, những giọng hát câu ḥ của ba miền đất nước mến yêu, những món ăn độc đáo tuyệt vời, những t́nh tự dân tộc ngọt ngào say đắm...

Bây giờ, c̣n đâu những h́nh bóng cố hương tŕu mến ? Huế, Nha Trang, Đà Lạt, Cần Thơ, Cà Mau, Phú Quốc đă xa tầm tay với mất rồi. Phải chăng những chốn cũ bỏ tôi hay bởi chính tôi không ǵn giữ nên mất mát dấu yêu bảo vật ?

Để đến hôm nay làm thân mất nước , đất khách lêu bêu ôm mối nhục ngậm hờn..






CHƯƠNG 7



Giống như phần đông mọi người, tôi tin rằng mỗi người có một định mệnh. Định mệnh ấy có thể so sánh tựa cái sự vụ lệnh hoặc nghị định, trong đó đánh máy sẵn tên tuổi, số quân, nơi tùng sụ, nơi đáo nhận nhiệm sở mới. Một khi giấy tờ đă kư rồi th́ ta cứ thế mà thi hành.

Cụ thể như thế. Nhưng thực tế, cuộc đời ta đôi khi hoặc lắm lúc đổi thay do chính ta lèo lái với ư hướng tốt đi lên, th́ lời bàn về định mệnh lại có lối thoát để bảo rằng “ xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều ” để chứng minh cho cái thiện tâm cũng cảm được ư trời.

Cái sự vụ lệnh hoặc định của định mệnh đời ta có điều hơi khác là nó không nằm trong hồ sơ Tổng Nha Công Vụ, không có sẵn trong sở làm hoặc trao tận tay ta mỗi khi mới ra đời. Giấy tờ ấy nằm ở đâu, ta không biết nữa.

Chỉ khi nào ứng nghiệm mới thấy đó là số phần dành cho riêng ta, không làm sao khác hơn được. Và như vậy là ta phải chấp nhận, coi như định mệnh đă an bài...

Hồi mới sinh ra đời, tôi đă được ông nội lấy cho lá số tử vi, tuổi Tuất, dương nam, thủy nhị cục, tuần triệt đóng ở cung tài. Các cung khác như mệnh, thân, bào, phối, tử, ách, di, nô, quan, điền, phúc chả có cung nào đẹp.

Các “ sao ” chạy loạn cào cào, thiếu hụt lung tung. Tôi chỉ c̣n nhớ được hai câu thơ kết luận:

‘‘ Số này kể cũng thông minh

Để cho bia đá lấp h́nh dị nhân... ’’



Thuở ấu thơ, tôi có cái thông minh để ăn gian nói dối, trốn học, trốn nhà, dối thày, lửa bạn.

Lớn lên học hành tôi cùng cái thông minh để cóp bài, nịnh nọt mấy thằng ngồi cạnh để nó cho chép văn chương, toán lư hoá.

Khi vào lính, tôi áp dụng cái thông minh để trốn tập họp, điểm danh, chào cờ, canh gác, tuần tiễu, kiếm chác loanh quanh. Lúc về dân sự, tôi mang cái thông minh chạy chọt cấp trên, luồn lụy để được thường xuyên ở Saigon, làm ăn rỉ rả.

Quả nhiên là tôi thông minh, nếu không làm sao sống phây phây giữa chợ đời. C̣n như cái câu “để cho bia đá vân vân” th́ tôi đành chịu, không hiểu nổi cái ǵ là “bia đá”, thế nào là “dị nhân” nên cứ canh cánh bên ḷng niềm riêng khôn tả.





Kịp đến khi làm Phủ Thủ Tướng, sớm tối hầu cận đại nhân, đôi lúc tôi cũng cảm thấy như chính ḿnh là một ông lớn của trào đ́nh. Chả thế mà đi tới đâu cũng tiền hô hậu ủng, tiệc tùng đăi đằng long trọng, các cấp địa phương răm rắp nghe theo.

Măi sau, t́nh cờ đọc chuyện anh đánh xe ngựa cho quan tể tướng mới vỡ lẽ thiên hạ ngả nón nghiêng ḿnh khi xe anh đi qua là họ chào ngài tể tướng chứ có ai thèm đếm xỉa ǵ đến anh phu xe vênh vang tự đắc, tôi mới vỡ mộng thiên đường quyền quư công danh. Nhưng mà ḷng riêng vẫn cứ chập chờn vinh hoa ảo ảnh.

Vào thời tôi, chiến tranh bom đạn tùm lum, quê hương tả tơi rách nát, và ḷng người cũng ly tán hăi hùng.

Thiên hạ chả biết tin vào ai, mới bèn đi hỏi thăm tương lai, định mạng ḿnh qua các nhà bói toán, tử vi, tướng học. Nên như các nhà chuyên môn coi chỉ tay, bài tây, bói dịch, địa lư... được tôn sùng như những bậc thày, như những người nắm vận mệnh quốc gia.

Tôi là kẻ suốt đời cái ǵ cũng bán tín bán nghi, nghi nghi ngờ ngờ, không bao giờ có ḷng tin vững chắc, thấy người ta đi ḍ hỏi tương lai, tôi cũng tập tành bắt chước xem số kiếp ḿnh như thế nào. Nếu các thày xem đoán trúng phóc quá khứ hiện tại, ắt hẳn đoán tương lai là đúng.

Nghĩ như thế, tôi bắt đầu bước vào thế giới huyền bí của trăng sao, của tướng pháp chỉ tay, của địa lư nhân văn, của cơ man là mênh mông kỳ ảo...





Nhớ hồi trước khi đi Thủ Đức, tôi lại chợ Phú Nhuận leo lên gác lửng Cô Ba nhờ xem một quẻ bài tây xem chuyến này có phải ca bài “Ta đi ṭng quân” không? Bà thày coi bài, quả quyết rằng tôi có số làm quan, phen này đi lính là :

Cá to đâu chịu ở ng̣i

Người khôn đâu chịu ở nơi hang cùng...

Tôi đă rầu rĩ muốn chết, lại nghe thơ văn như thế, lấy làm buồn thảm lắm. Cũng đành trôi theo định mệnh.

Quả nhiên lên quan, tương lai lấp ló cuối nẻo đường hầm.


Bi giờ, thử vài keo nữa xem tương lai nó đi về đâu. May mắn, tôi quen với một ông bạn già có hơn 30 năm kinh nghiệm tử vi, coi tôi như em út nên đọc kỹ lá số, coi lại giờ sanh, ngày sanh cho thiệt đúng với h́nh dạng, rồi phán ngay rằng cái số tôi là số đang lên chứ đấy chẳng lên chứ đấy chẳng phải vừa đâu.

Để tái phối kiếm và lượng giá các tài đoán số, ông bạn già này lôi tôi đi tới một số thày khác nhờ coi dùm xem chú em nó lên tới đâu.





Thoạt tiên, chúng tôi mon men lại tư gia của cụ Diễn ở đường Hiền Vương, khu Đa-Kao.

Muốn gặp cụ hơi khó, có khi chờ cả tháng, có khi được hẹn, ngong ngóng mấy tiếng đồng hồ chầu chực cụ mới tiếp. Khách khứa của cụ từ hàng b́nh dân tới hạng cực kỳ cao sang quyền quư.

Lần tôi được diện kiến, cụ nh́n dung nhan mùa hạ vài phút rồi phán rằng số tôi mọi sự b́nh thường. Chỉ có vậy thôi. Tôi đâm ra thất vọng.

Tôi cứ tưởng rằng cụ sẽ nói như nước chảy hoa trôi, ban cho tôi dăm bảy điều vàng ngọc để làm hành trang mở hội rồng mây, ai ngờ cụ lững lờ mấy câu rồi tiếp khách khác đang chờ sẵn xe hơi ngoài ngơ thỉnh cụ đi Vũng Tàu.

Chúng tôi có ghé thày bói Kim ở khu Chi Lăng, Phú Nhuận. Thày Minh Lộc, thày Ích hẻm Calmette, vị nào cũng nói những điểm khác nhau về tương lai đời tôi, tựu trung là khấm khớ, trên trung b́nh.

Đến thày coi mạch Thái Tố đường Cao Thắng, ông này có vẻ độc đáo. Thày bắt mạch, c̣n tay kia cầm bút vẽ ngoằn ngoèo trên một trang giấy, tương tự ghi tốc kư, xong thày ngắm nghía tướng mạo tôi, ngó tờ tốc kư một lát, nhỏ nhẹ bảo tôi coi chừng có cái đại tang !

Hồi đó là cuối năm ta, tôi nghe mà đâm ra ân hận. Làm quái ǵ phải coi bói toán lôi thôi để vừa mất tiền, vừa bị nghe rủa. Tôi ra về, đâm hận ông thày thái tố.





Qua năm cũ, không có chi xảy ra, tôi lấy làm mừng và định bụng từ nay cạch bói toán. Đùng một phát, đầu năm ta, tin từ Bắc đánh vào báo tin má tôi qua đời vào cuối năm cũ.

Tôi được tin rất là... mừng cho má tôi đă thoát cảnh địa ngục trần gian Cộng Sản. Cụ đi như thế là hơi trễ, nhưng cũng c̣n may mắn hơn nhiều cụ khác. Phần riêng, nhớ lại ông thày mạch thái tố phán quyết năm ngoái đâm ra hăi tài ông ấy quá. Không tin cũng phải tin!

Thế là tôi tiếp tục theo ông bạn già lên mạn Thủ Đức Biên Ḥa, tới cái đ́nh làng xa lộ coi bói.

Nghe danh ông thày này như sóng cồn, từng coi cho nhiều cấp lớn chánh quyền, mỗi khi thay đổi chính phủ nườm nượp ông to bà lớn đáp xe Huê- Kỳ đến nhờ thày coi giùm hậu vận. Thày bảo sao cứ у boong mà làm vậy là trúng phóc.

Đến lượt tôi, thày cũng thắp nhang khấn vái cùng với tiền đặt quẻ, xong gieo quẻ, sờ soạng mươi giây, ngẩng đầu lên trần, lâm râm vài câu rồi hỏi rằng :

- Ông đây không cao lắm, mặt tṛn, da trắng, mày thưa, có phải vậy chăng ?

Tôi đáp ngay :

- Dạ, phải.

Thày tiếp :

- Ông này có cái lạ là không đi thi cử ǵ mà lại nhiều bằng cấp...



Tôi đáp :

- Dạ không, tôi không có bằng cấp ǵ cả .

Thày quả quyết :

- Nhất định có, thánh dạy thế chứ tôi đâu có nói sàm. Ông nghĩ coi xem có thi cái ǵ trong đời không ?

À, tôi nhớ ra rồi. Cái hồi đi lính, tôi có nhờ thằng bạn bên quân xa làm cho cái bằng lái xe giả, ba con dấu tức là lái từ xe jeep, xe cam-nhông, đến xe hàng chở hành khách. Rồi sau đó tôi chạy được cái bằng thực có hai con dấu. Đến khi giải ngũ, tôi đổi bằng nhà binh lấy bằng dân sự hai con dấu. Thế là tôi có dăm bảy cái bằng ấy chứ! Tôi chịu thày, bèn đáp :

- Dạ, có ạ. Nhưng toàn bằng lái xe không hà !

Thày cườ i:

- Th́ bằng ǵ mà chả là bằng!

Thày đoán tương lai tôi có chiều thay đổi, đi nhiệm sở khác, làm lớn hơn chỗ cũ, sáng sủa lắm...





Quả nhiên, tôi găi đầu ṿ tai, tả oán với ông đổng lư, được ngài ưng thuận. Chờ có hai ông đốc sự mới ra ḷ về Phủ Thủ Tướng là tôi nhẩy tót qua Ngân Hàng, đặc trách báo chí và giao tế, thân cận với ông Tổng Giám Đốc Nguyễn Đăng Hải .

C̣n ông bạn già tử vi của tôi chính là cụ chánh văn pḥng Nguyễn Trọng Liêm. Tôi c̣n được phong làm phụ tá CVP tạm thay quyền mỗi khi cụ bận công tác ngoài nhiệm sở.

Với bằng ấy chức tước, lại là đệ tử của xếp lớn, tôi cảm thấy ḿnh cũng lớn vậy.

Cụ CVP lại dẫn tôi vào Chợ Lớn, tới con đường có nhiều máy dệt tay, rẽ vào hẻm, leo lên độ 20 bậc thang đến một dăy nhà lầu, dừng chân trước cửa then sắt của một thày tướng số lừng danh : Đó là cụ Fây- Fây.b

Giang sơn của cụ trước kia ở ngoài Bắc là gần 100 chiếc nhà, cụ làm thầu khoán, tiền bạc như nước. Bây giờ loạn lạc vào Nam, cơ đồ c̣n lại một gian gác chia đôi, nửa ngoài làm pḥng khách, ngăn trong làm pḥng ăn, pḥng nghỉ. Cụ ông cụ bà ở đây một ḿnh, các cháu con đều ra ở riêng.

Cụ Fây-Fây (gọi tắt là cụ Fây) có tướng lớn như voi, tiếng nói ầm ầm như sấm, lúc nào cũng tươi tỉnh đùa vui.





Tôi ngồi trên chiếc ghế mây có tựa, quay mặt vào phía trong. Khi tiếp khách, cụ luôn luôn để khách ngồi nghỉ một lát cho sắc diện b́nh thường rồi mới nhập đề:

- Mời tiên sinh ngồi sang ghế kia, nh́n ra phía ngoài cho có ánh sáng rơ ràng để tôi dễ coi diện mạo.

Tôi vâng lời chuyển ghế. Cụ Fây ngắm nghía tôi, sờ đầu, nắn sọ, bóp vai, xong bảo tôi:

- Tiên sinh đứng dậy, đi vài bước cho tôi xem...

Tôi ngượng ngùng bước đi vài bước, xong trở về vị trí cũ an tọa. Cụ pha trà tàu, mời mỗi người một ly trà trong sương sớm cho ấm bụng, rồi phán :

- Tôi nói thật, tiên sinh có quư tướng.
Đầu tṛn như đầu cọp, đôi mắt nhân từ, miệng tươi, tiếng nói thanh tao, thân h́nh vững chắc, dáng đi vững vàng, thần khí điều ḥa, cái tâm lúc nào cũng b́nh an, tư tưởng cầu tiến, tánh t́nh nhu ḥa điềm đạm.

Bằng ấy th́ nó hiện trong tướng mệnh, thử hỏi làm sao tiên sinh không làm lớn được? Thế tiên sinh có gia đ́nh chưa nào để tôi làm mối cho, hà hà!

Tôi lí nhí thưa :

- Bẩm cụ, con có gia đ́nh rồi ạ ! C̣n như cái điều cụ đoán cho con, con nghĩ rằng không được như thế . Vóc dáng con lùn t́, nhát như thỏ đế, hay sợ hăi chốn cao sang, làm sao con khá được ?

Cụ ngắt lời cười khà khà mà bảo:

- Theo tướng số, con người ta có hạng ngũ tràng, ngũ lộ, ngũ tiểu, ngũ đoản. Tiên sinh thuộc hạng ngũ đoản. Đầu ngắn, mặt ngắn, thân ngắn, tay, chân ngắn. Vậy là tốt lắm chứ !

Rồi cụ nói tiếp:

- C̣n như nhút nhát hoặc anh hùng cũng tùy tâm, tùy thời. Có kẻ làm vẻ hèn mọn, nhút nhát như Hàn Tín khi chưa gặp thời, phải luồn trôn thằng bán thịt ngoài chợ Trương Minh Giảng th́ sao ? Mà về sau lừng lẫy chọc trời khuấy nước.

Lại có kẻ nom ra vẻ anh hùng mà khi vào việc trốn như trạch, nhát như cáy th́ đó là “anh hùng rơm, ta cho mối lửa mất cơn anh hùng...”

Tiên sinh như cọp rừng thiêng, lúc này dấu nanh cụp vuốt chờ thời. Chứ lúc thời cơ đến, tiên sinh đâu thua ǵ... Hàn Tín!

Nói xong, cụ lại cười vang, rung rinh cả chén trà trong sương sớm.

Tôi đâm ra bẽn lẽn ngại ngùng, bán tín bán nghi. Chẳng lẽ “tứ thập nhi bất hoặc” mà ḿnh vẫn chưa hiểu ḿnh sao ? Trong bụng c̣n đang phân vân th́ cụ Fây phán tiếp:

- Số tiên sinh là số làm thủ tướng đấy nhé. Để lúc nào tôi giới thiệu tiên sinh với bà Tổng Thống...

Tới đây th́ tôi thực t́nh hăi, v́ bởi tam tứ ngũ đại nhà tôi, chưa có ai đi lính mà lên tới đội, mà học hành th́ chả có ai đậu nổi cái bằng sơ học yếu lược, mấy đời làm thợ làm công. Đến đời tôi được như thế này là mả táng hàm rồng rồi, đâu dám mơ ước cao xa đến thế !

Giá mà cụ bảo tôi có thể làm giám đốc, chánh sở họa may c̣n dám tin, chứ cụ bảo tôi số làm thủ tướng th́ là chuyện đội đá vá trời, không tưởng...

Ra về, tôi nghĩ ngợi miên man về cái số tử vi của ông nội để lại, biết đâu “bia đá lại chẳng bay đi cho khác để cho h́nh dị nhân” lộ ra ăn chơi vung vít với đời, khi lên tay kiếm tay cờ, cờ đến tay ai người ấy phất!

Tôi mà phất, hẳn đẹp mắt hơn nhiều anh khác.

Về nhà, không nói cho ai biết, tôi ra sân bước qua bước lại, bước tới bước lui xem có phải quả nhiên ḿnh có dáng đi lên quư phái hay không ?

Mụ vợ tôi thấy giữa trưa nắng chang chang lại có một tên khùng mặc quần đùi áo may-ô phơi nắng ngoài sân th́ tức cười lắm, bèn chỉ thị rằng :

- Này, tên khờ, vào ru con ngủ đi cho người ta rửa bát. Hay muốn rửa bát th́ xuống bếp làm đi, gần hết ngày rồi. Ai hành hạ ǵ mà đứng nắng như thằng điên vậy ?

Mụ ấy đâu biết rằng tôi trên đường mây đang thênh thang mở hội, nay mai thủ tướng mấy hồi...

Sau, tôi có dẫn bạn bè lại nhờ cụ Fây coi dùm tướng số, mấy đứa bạn tôi đều được cụ khen tướng tốt, và vài đứa cũng có số... làm thủ tướng như tôi !

Từ đó suy đi, tôi nghĩ ít ra nước ta có dăm ngàn hiền tài chuẩn bị làm thủ tướng, dăm chục vị ái quốc chờ đợi lănh đạo quốc gia !





Phong trào coi tử vi tướng số bói toán tại nước tôi đă một thời hoạt động mạnh mẽ. H́nh như khi người ta không biết tin tưởng vào đâu th́ nơi các nhà tiên đoán vận mệnh là chỗ tốt nhất để nhờ cố vấn lănh đạo.

Có kẻ đi buôn coi ngày tháng mở hàng lấy may, làm ăn nhất bản vạn lợi. Có người đi xa coi ngày tháng xuất hành. Có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Những điều đó xét không nguy hại ǵ.

Nhưng mà lại có những vị tướng tá, các cấp chỉ huy lớn, các nhà lănh đạo, cầm vận mệnh mấy chục triệu dân mà cũng coi bói, coi tử vi để lựa ngày hành quân, việc cửa chuyện nhà, chuyện đại sự cũng nhờ thày chỉ đường mách lối th́ thực là mạt vận. Đất nước có tiêu tùng c̣n trách được ai?

Hay là lại đổ thừa như tôi, rằng “ định mệnh đă an bài ” ?

C̣n tiếp ,


hoathienly19 12-09-2020 09:07



CHƯƠNG 8



Trong thời gian làm việc tại Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp, tôi được cụ chánh văn pḥng dẫn đi giang hồ hơi nhiều.

Cụ là cây tử vi tướng số hạng tài tử, muốn dùng tôi như dùng người mẫu hoặc một vật thí nghiệm, đưa tới quư vị tướng số chuyên nghiệp cũng như vô danh, ẩn dật xem quư vị ấy tiên đoán thời tiết, tương lai bổn mạng của tôi ra làm sao, có trùng hợp với tài tiên tri của cụ không, để dễ bề học hỏi và nghiên cứu.

Cụ kể chuyện Trong thời gian làm việc tại Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp, tôi được cụ chánh văn pḥng dẫn đi giang hồ hơi nhiều. Cụ là cây tử vi tướng số hạng tài tử, muốn dùng tôi như dùng người mẫu hoặc một vật thí nghiệm, đưa tới quư vị tướng số chuyên nghiệp cũng như vô danh, ẩn dật xem quư vị ấy tiên đoán thời tiết, tương lai bổn mạng của tôi ra làm sao, có trùng hợp với tài tiên tri của cụ không, để dễ bề học hỏi và nghiên cứu.

Cụ kể chuyện Hui-Bon-Hoa mả táng hàm rồng,
giàu nứt đố đổ vách, tặng đô thành nguyên một cái nhà thương gần chợ Bến Thành, tài sản khắp nơi... Xong cụ lái xe từ Saigon lên Thủ Đức, chỉ cho tôi coi con đường ngoằn ngoèo giống như đuôi, như thân con rồng.

Theo lộ tŕnh Thủ Đức - Biên Ḥa, đi con đường cũ là “đường trong”, quá Thủ Đức một ít cây số ngàn, phía trái có khu mộ nhà Hui-Bon-Hoa.

Cụ bảo có mấy cái mộ xây у như nhau nằm hàng ngang, nhưng chỉ có một cái là mộ chánh, c̣n mấy cái khác đều giả, để không cho kẻ gian biết đâu là thật, đâu là giả mà đào phá.

Cụ giảng rằng mộ đặt ngay boong vào cái họng con rồng. Phía trước mộ thoai thoải xuống sông Biên Ḥa là cái lưỡi rồng. Nhiều ngôi mộ đặt tại khu lưỡi rồng, chẳng kết phát ǵ sốt cả là vậy.





Tôi chả biết rồng rắn là làm sao nhưng nghe giảng địa lư nhân văn ra chiều hợp lư th́ dạ dạ vâng vâng rất chiếu lệ.

Thâm tâm, tôi đă nhắm mục tiêu trực chỉ quán thịt rừng Tân Vạn hoặc tiệm đầu cá hấp Biên Ḥa, bởi nó vừa thực tế, vừa thực thể, vừa cụ thể mà lại vừa tiện thể.

Cụ bảo ở Saigon, có cái phủ đầu rồng là chỗ vị nguyên thủ quốc gia cai trị việc nước, nhưng mà thiếu cái đuôi rồng. Đầu mà thiếu đuôi th́ c̣n ra cái thống chế Pétain ǵ nữa. Cho nên thày địa lư nào đó mới chỉ chỗ đặt đuôi rồng. Nó chính là cái bùng binh tức hồ Duy Tân, nơi đặt đài kỷ niệm tri ân các quốc gia giúp đỡ Việt Nam Cộng Ḥa, có cái hồ nước phun róc rách, sen mọc lai rai.

Giữa hồ, là kiến trúc uốn cong như đuôi rồng. Người ta bảo như thế là đủ bộ, là đẹp. Hồ này cạnh nhà đèn và trường đại học Luật Khoa cây dài bóng mát, chiều chiều mùa hè, các cô các cậu vẫn rủ nhau ra ngồi quanh ven hồ, soi bóng nước gương hẹn ḥ bù khú.

Tối tối, khi thành phố lên đèn, nhiều gia đ́nh chở xe gắn máy, xe vespa, lambretta, xe hơi lại đây cho trẻ con chạy nhẩy chơi đùa. Khu đài kỷ niệm giữa hồ, sau này giăng kẽm gai không cho ai leo lên đuôi rồng, e phá hoại th́ động đến phủ đầu rồng. Những trẻ bán cà-rem và các xe mía hấp, tập trung nơi này, làm ăn coi ṃi ăn khách.






Có khi, thày tṛ tôi lại cụ Fây nghe t́nh h́nh chính sự và chiến sự cùng tử vi địa lư. Cụ Fây vẫn cứ khen tôi có vóc dáng cọp, bảo tôi đưa cụ một tấm h́nh “cát-xít” để cụ niệm chú giúp cho công danh sự nghiệp. Ǵ chứ mục đó th́ tôi chịu liền cái rụp.

Cụ Fây kể chuyện chánh phủ, chuyện tướng lănh, chuyện các quư phu nhơn, rồi bảo rằng trên vùng Lâm Đồng có một chỗ đất đẹp lắm. Mả nào táng vào đó là phát lớn lắm à !

Cụ đă lên tận Blao, đáp trực thăng cùng quan đầu tỉnh, bay ṿng vo tam quốc mấy vùng đồi núi chập chùng quan sát địa lư.

Cụ khám phá ra dưới thung lũng có vũng hố sâu, đó chính là đắc địa. Quan đầu tỉnh c̣n cả phụ mẫu chi dân, vẫn dành chỗ ấy cho mai hậu. Cụ Fây tiếc cho tôi, giá mà làm được th́ lẫy lừng lắm.

Tôi chả sao làm được, v́ bà mẹ mất tận ngoài Bắc, phải cải táng đem hài cốt vào Nam, lên Lâm Đồng tái táng th́ nhiều khê, diệu vợi và hầu như không thể có. C̣n ông bố tôi mới ngoài bẩy mươi tuổi, chân tay vẫn mạnh khỏe, cũng ở Bắc, làm sao mời cụ... đi sớm để đem táng tận Lâm Đồng ?

Dẫu có ham phú quư vinh hoa công danh bổng lộc đến mấy, tôi cũng không dám có cái dă tâm như Cộng sản là làm bất cứ cách ǵ để đạt mục đích dù rằng phải cho đi ô-tô-bương các đấng sinh thành !]

Cụ Fây có lần đến nhà tôi nhân chuyến thăm thân chủ, cụ đảo quanh nhà sau sân trước một lượt rồi phán rằng :


- Cửa chính nhà cậu mà lại xoay ngang, nh́n ra tường nhà bên cạnh, tức là đi vào cửa hông. Người quân tử phải đi cửa chính. Chỉ có kẻ tiểu nhân mới đi cửa hông, cửa sau, cửa hậu. Thành ra cậu không đón được người quân tử vào nhà . Muốn sửa lại, cậu phải bít cái cửa hông ấy đi, phá tường làm cửa mặt trông ra ngoài cổng trước, có vậy mới khá.






Được nhà địa lư khen ḿnh là người quân tử th́ tôi đă sướng quá đi rồi, nay cụ lại chỉ cho cách chỉnh trang kiến thiết nhà cửa cho đẹp đẽ văn minh hơn, rồi lại được chơi với toàn cỡ quân tử thời tôi chịu lắm lắm.

Ngay tút suỵt, tôi nhờ thợ mộc thợ hồ ra công làm liền tù t́. Chỉ trong ṿng một tuần lễ, cửa ngơ nhà tôi đă nom rơ là chính diện, phong cách. Mỗi lần ra vào cửa chính, tôi đều cảm thấy ḿnh là người quân tử.

Dẫu là quân tử đa cùng và độc diễn như thế, tôi vẫn mang cái mặc cảm lẹt đẹt thua anh kém em về đủ phương diện quốc gia. Như sự học của tôi là một. Hỏi cụ- Fây xem cái số khoa cử học hành thế nào th́ cụ tỉnh bơ mà rằng:

- Cậu th́ học hành cái con mẹ ǵ. Cậu chả cần học cũng đỗ...

Tôi đẩy nhẹ thêm một câu:

- Mà thưa cụ, con đỗ được tới đâu cơ ạ ?

Cụ vẫn bơ đi mà rằng:

- Cậu muốn đỗ tới... tiến sĩ cũng dư sức qua cầu... Mà đỗ th́ phải mang hai chai rượu tây cho tôi đấy nhá!

Nói xong, cụ cười khà khà...

Tôi đă được gọi là người quân tử, nay lại sắp vơng lọng nghênh ngang nữa th́ mê chết đi được. Bèn lẽo đẽo chạy cái lambretta khói phun mờ mịt đến trường luật nhờ vả cậy cục bài vở thi cử để mong chiếm tí bảng gỗ che lưới cho mát mặt với đời.

Tôi có người bạn học cũ ở Khuyến Học Bổ Túc là anh Toàn, mỹ danh “Toàn Ngắn” bởi chiều cao có khi c̣n thấp hơn khẩu] “ga-răng” . Hắn lo dùm ghi danh, lấy thẻ, mua bài, tin tức thi cử... Thế là quư hoá và ưu tiên quá xá rồi.

Dần dà, tôi làm quen được với cụ Tổng Thư Kư Nguyễn Thượng Kiên. Cụ có vóc dáng ḿnh hạc, nom người không mấy mạnh mà nói năng rất khỏe. Chức vụ của cụ là một chức vụ nặng nề nơi trường Luật. Ngôi trường nom có cái mă mà pḥng ốc bàn ghế trong lớp lộn tùng phèo, sinh viên phải đi sớm theo ghế giữ chỗ chờ thày đến giảng bài, nêm như nêm cối, chen chúc như cái chợ vỡ vậy.

Cụ Kiên lo hầm bà lằng hành chánh, quản trị, chương tŕnh thi cử các lớp. Lúc nào cụ cũng bận tối tăm mặt mũi và ít th́ giờ tṛ chuyện với sinh viên. Ấy thế mà tôi lại được đài gương soi đến dấu bèo, cụ dành biệt nhỡn mỗi khi tôi nhờ vả.

Tôi học hành tối ṃ như đêm ba mươi tháng chạp nhưng bù lại trời cho cái thiên tài cóp bài, đút lót, chạy cửa hậu rất kền. Gia đ́nh vợ con đ́u íu, công việc chánh phủ chập chồng mà tôi c̣n đến trường lấy tài liệu bài vở được th́ đă là giỏi lắm rồi ấy chứ !

C̣n bài vở đem về nhà có đọc, có học hay không, chỉ có tôi với cái giường biết mà thôi ! Gần ngày thi, tôi lật dăm ba trang sách ra coi cho có lệ, đỡ thắc mắc. Rồi dành th́ giờ vào phút chót, tôi quay thành các bộ phim tài liệu .





Học tṛ ngày xưa đi thi, dấu tài liệu dưới gầm bàn, trong tay áo, dưới giày... đều là các phương pháp cổ điển. Tôi đi thi, tài liệu lúc nào cũng ch́nh ́nh ngay trên bàn, trên tay, ngay trước mắt giám khảo, giám thị mà vẫn b́nh tĩnh hiên ngang như chốn không người...

Phương pháp đi thi của tôi có thể in thành sách, ít ra là dầy bằng cuốn học thi vào quốc tịch Hoa Kỳ. Nhưng ở đây, tôi chỉ ghi vắn tắt để tránh bị nghi kỵ là cạnh tranh hoặc khoe khoang lớn lối.]

Cách thứ nhất là
ghi các công thức, các tên, các năm, các điều quan trọng cần nhớ vào... bàn học. Ghi bằng bút ch́ vót nhọn. Bàn học bên ta cũ mèm, đen kịt, viết ch́ lên, nom thấy ǵ đâu. Ấy thế mà nghiêng nghiêng con mắt nḥm xéo vào, tôi thấy nguyên con, tha hồ mà chép.

Cái khéo là làm sao ra vẻ như ḿnh suy nghĩ mung lung, ngả nghiêng thẫn thờ t́m ư để ngó và chép cho suya là được. Có cái sườn rồi th́ cứ viết lia lịa cho đầy trang, kéo dài ra là thày tưởng như học tṛ này có ăn có học nên chữ nghĩa đầy ḿnh.]

Cách thứ hai là
ghi mật mă, mật hiệu, mật lệnh vào bốn mặt của chiếc thước kẻ. Ghi bằng đầu mũi kim, chỉ cần các nét như khắc vào gỗ. Có thể làm vài cái thước kẻ, mỗi lần thi dùng một cái làm tin. Cũng ngả nghiêng cánh chim mà đọc thước kẻ để ghi ư chính hoặc số liệu cần thiết .]

Cách thứ ba là
dùng mũi kim ghi vào sáu mặt của chiếc bút ch́, cũng vẫn phương thức đọc như trên.]

Cách thứ tư là
thông tin t́nh báo, tức như làm quen trước với các tử sĩ đông tây nam bắc qua quanh ḿnh. Hễ gặp biến cố th́ nhờ đồng minh cứu nguy, yểm trợ tại chỗ. Nếu phúc đức lại gặp kẻ ngồi cạnh là sinh viên thuần túy, chịu khó đến trường nghe giảng và học thuộc bài như cháo mà cho ta tóm lược, tức là cho chép bài nhưng đừng chép nguyên văn mà khổ cả đám, th́ thực là tuyệt... vọng !]

Cách thứ năm là
hỏi xem thày chú trọng những đoạn nào trong sách th́ nhắm vào đó để làm phim, đặt thành trọng tâm công tác t́nh báo chiến thuật.

Sau khi thi cử rồi, coi ṃi bài vở viết được dăm bẩy tám chín trang đầy chữ, th́ theo rơi t́nh h́nh chấm bài. Môn nào ḿnh yếu quá, tất cần chạy thày chạy thuốc cho mau.







Trên đại học luật khoa,
bài nào dưới ba điểm là rớt dù các bài khác 19, 20... Chạy thuốc, có thể bằng nhiều cách thần sầu, nhưng cũng có giáo sư “đuya”, đụng vào như đụng đá vỡ đầu bể mặt.

Thiên hạ chạy thuốc có khi bằng quyền băng thế, bằng tiền, bằng t́nh... C̣n tôi chỉ nhờ trời cho cái bộ mặt ngây thơ nom rất dễ thương... hại mà hoá lại ăn tiền. Nên cụ Tổng Kiên nom thấy là ra tay cứu vớt đôi phen.

Rồi bạn bè cũ công danh cả đống, tôi kể khổ, moi ra thời xưa đi học, đá banh, ăn ổi có nhau, nay nhờ t́nh đồng môn giúp nhau qua cơn hoạn nạn. Lũ bạn cũ lại vác chân lên cẳng chạy tiếp sức kéo tôi từ vực sâu lên núi cao có trăng thanh gió mát.

Rồi mấy ông thày cũ, mấy ông làm lớn trong chánh phủ mà tôi có dịp phục ṭng, thấy đệ tử đi thi th́ cũng nới tay nâng đỡ.

Nhờ tất cả những cánh quân tả phù hữu bật, tiền đạo, hậu vệ, trung phong nức ḷng bao bọc mà tôi như phi thuyền đang từ mũi Kennedy bay tuốt luốt tới tận cung trăng cùng Hằng Nga, Hậu Nghệ...

Mỗi năm ngon trớn như thế, tôi lại vác một chai rượu tây lên nhà cụ Fây làm lễ tạ ơn và xin “chịu” một chai vào năm tới. Qua bốn phùa thi chơi ăn thiệt, tôi bỗng dưng trở thành một ông cử, tuy khó tin nhưng có thật.

Việc đầu tiên là tôi in một lô danh thiếp với tên tuổi, bằng cấp, gặp ai cũng làm ra vẻ thân mật hỏi nhà cửa rồi trao một tấm danh thiếp để tiện liên lạc sau này.

Họ hàng, phường xóm là chỗ đă quen biết th́ tôi gợi chuyện học hành bận rộn, thi cử vất vả nên ít ghé thăm, để sau cùng đành ḷng phải tiết lộ là ḿnh vừa đậu xong ban đại học.

Với bạn bè cũ, những đứa trước kia cùng đạp xe đi làm, leo xe buưt đi phố, ăn kem mút, uống nước dừa, ăn thịt ḅ khô, bây giờ tôi thấy chúng nó với tôi như xa cách muôn trùng.

Tôi đă là tôi có danh thiếp in bằng cấp sắp thăng hoa, c̣n chúng nó vẫn dậm chân tại chỗ, kém cỏi, tầm thường...

Việt Nam ta một thời có phong trào diễn thuyết “ Tại sao tôi trở thành bác sĩ ?”, “Tại sao tôi trở thành dược sĩ ? ” , v.v... Ai đến dự cũng đều khâm phục và khen ngợi.

Tôi cũng định lập một chương tŕnh đi các tỉnh, các đại học, các đoàn thể, các cơ quan với đề tài “Tại sao...”, nhưng ngồi nghĩ lại thấy ḿnh toàn nhờ cóp bài, láu cá, ranh vặt, chạy chọt, luồn lọt, lạy lục mà có cái mảnh bằng th́ vinh dự, danh giá chi mà đem khoe thiên hạ. Có khi c̣n bị khán thính giả ném cà chua, trứng thối, vạch mặt chỉ tên là đồ vô tư cách, vô liêm sỉ th́ khốn. Cho nên tôi bỏ mộng diễn thuyết “Tại sao...”

Lắm lúc ngẫm lại, nh́n quanh quẩn gần xa tôi lại cảm thấy được đôi chút vỗ về an ủi.

Những thằng “mỏi gối quỳ ṃn sân tướng phủ” để xin một chân đi ngoại giao, những tên đeo mặt nạ theo hầu bà lớn để làm áp-phe kinh tế, những đứa đổi vợ đổi con để lấy một tí danh giá, những đứa buôn bán chợ đen chức tước, bán tống bán tháo quân trang quân dụng của quân đội cho kẻ thù, những đứa đem sinh mạng của hàng triệu đồng bào đổi chác lấy một đời thừa nhục nhă lang thang.

Tôi so sánh rồi tự nhủ là ḿnh chưa can phạm, ḷng phạm hay thủ phạm th́ chưa làm ǵ có tội với quốc dân đồng hồ đâu, việc chi mà áy náy !







Nhớ lại tướng số tử vi của ḿnh, tôi thấy cụ Fây đoán cũng nhiều cái đúng.
Như cụ bảo tôi chẳng học mà thi vẫn đậu th́ quả nhiên cụ đoán như thần. Như cụ phán cho tôi sửa nhà th́ từ đó tôi mời mọc cũng có ông lớn, bà lớn tới chơi.

Như cụ bảo số tôi hiển đạt, làm to th́ tương lai tôi đang sáng choang có khi c̣n hơn đèn 50 ngàn nến. Duy có điểm cụ nói tướng tôi là tướng cọp, ví tôi như Hàn Tín th́ tôi c̣n hoang mang, mung lung suy nghĩ.

Có đâu mồ mả nhà tôi lại có ai lén lút đem táng họng rồng, thay thế họ Hui-Bon-Hoa, hoặc có “mission impossible” nào đem hài cốt má tôi bỏ xuống thung lũng hồng miền Bảo-Lộc? Những chuyện ấy chẳng bao giờ có được. Thế th́ :

“Tại sao tôi trở thành”
tướng cọp nhỉ?

Niềm vui kỳ ảo ấy cứ canh cánh bên ḷng.

Một bữa cuối tuần đi lang thang quanh chợ Bến Thành, lúc qua gian hàng bán đồ chơi trẻ con, tôi thấy trong đám tàu thủy, máy bay, tàu ngầm, búp bê, mặt nạ, có cả thú vật như gà, heo, khỉ, chó, mèo và... cọp làm bằng giấy.

Tôi đứng lại ngắm nghía một hồi lâu, xong tạt sang xe ngộ mị phá lấu làm một đĩa, nhâm nhi với chai la-de trái dứa. Trong lúc tâm hồn bay bổng với chút men say, tôi chợt trông thấy tôi chập chờn qua h́nh ảnh con cọp. Tôi khám phá được một điều cay đắng...

Thôi đúng rồi, ông cụ tử vi địa lư tướng số này vậy mà thâm trầm, xa xôi bóng gió quá đi thôi.

Chẳng qua là cụ không muốn làm phật ḷng tôi nên nói tránh né. Chứ với kinh nghiệm già đời, với con mắt tinh đời, cụ nh́n đường đi nước bước, nghe lời ăn tiếng nói, phong cách của tôi nó lộ rơ mồn một rồi th́ cứ thế mà đọc ra, nào cần chi phải đoán.

Cụ bảo tôi có tướng cọp mà tôi cứ nghĩ ḿnh là cọp rừng thiêng oai linh dũng mănh “ta say mồi đứng uống ánh trăng tan", hoặc thất thế th́ cũng như con cọp nằm mèo trong sở thú “ ta sống măi trong t́nh thương nỗi nhớ ”, để chờ một mai tháo cũi sổ ḷng lại tung hoành “giữa chốn rừng thiêng không tên không tuổi” như thường...

Đàng này, ư cụ chê tôi là tướng hèn, tiểu nhân, cả đời đi “cọp-pi”, qụy lụy đê tiện, không nhân cách, không cả sức mạnh thể xác lẫn tinh thần, nào có khác chi một con cọp... giấy!

Tôi đâm ra thương cho chính cái thân tôi. Giá được làm con cọp... chết cho đỡ khổ, th́ tôi cũng c̣n măn nguyện v́ các cụ nói “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”, chứ như tôi làm thân “cọp giấy” khác chi làm ông “tiến sĩ giấy” cho trẻ con nó chơi, th́ đầu đường xó chợ nào có thiếu ǵ...






CHƯƠNG 9



Tôi vốn khoái lái xe hơi, cho nên xe nhà binh cái nào tôi cũng ôm “vô-lăng” rất chắc. Từ xe Jeep đến “đốt-cát”, “đốt-sít”, GMC tôi đều lái vèo vèo.

Ngày về dân sự, làm việc ở Ngân Hàng, tôi lại có xe La Dalat và tài xế đưa đón hàng ngày nên đă tận dụng công-ха để công tác th́ ít mà việc riêng la cà, ăn chơi, du hí th́ nhiều, nhấn hết ga cho thoả chí.

Nhớ xưa kia, hồi nghèo mạt rệp, ở trọ trên gác lửng mái tôn nóng hơn ḷ bánh ḿ, đi làm bằng xe buưt xanh, xe buưt vàng, nhẩy xuống ngang đường như máy, ví lép kẹp, quần áo vá víu cũ kỹ, chân đi săng-đan nylon, mặt mày hốc hác, ḷng không dạ bờ đê mà nay rủng rỉnh giày tây, cổ đeo cà-vạt, ngồi xe hơi như ông lớn th́ thử hỏi sướng biết chừng nào. Cho nên, được thể tôi lại nhẩy rào t́m thú đam mê. Con người ta, nhiều người có thú đam mê dễ sợ lắm.

Đam mê đọc sách, nghiên cứu
có thể trở thành Học giả, bác học như :

- Trương Vĩnh Kư, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Đăng Thục, Đào Đăng Vỹ, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Đ́nh Ḥa, Huỳnh Sanh Thông...

Đam mê viết văn
có thể trở thành

- Khái Hưng, Nhất Linh, Phạm Cao Củng, Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, Lê Văn Trương, Hồ Biểu Chánh, Hoàng Hải Thủy, Mai Thảo, Mặc Đỗ, Duyên Anh, Toan Ánh, Nhật Tiến .

Đam mê viết nhạc
có thể giống như :

- Phạm Duy, Lê Thương, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Hoàng Trọng, Cung Tiến, Tuấn Khanh, Lam Phương...

Đam mê làm thơ
có thể theo gót

- Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tú Mỡ, Phạm Thiên Thư, Bàng Bá Lân, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Mai Trung Tĩnh...

Đam mê nhiếp ảnh
có thể rất nổi tiếng như :

- Nguyễn Cao Đàm, Phạm Văn Mùi, Trần Cao Lĩnh, Nguyễn Lê Giang, Nguyễn Mạnh Đan, Nguyễn Văn Th́n, Lê Văn Khoa, Nguyễn Văn Vũ, Nguyễn Ngọc Hạnh...

Đam mê ca hát
có thể nổi danh như :

- Nhật Trường, Hoài Trung, Hoài Bắc, Sĩ Phú, Elvis Phương, Duy Trác, Trần Ngọc,Việt Ấn, Hùng Cường, Anh Khoa, Chế Linh, Duy Quang...

Đam mê vẽ
có thể lẫy lừng như :

- Tú Duyên, Thuận Hồ, Tạ Ty, Thịnh Del, Trần Văn Thọ, Ngô Văn Hoa...

Đam mê nhạc
có thể tương tự :

- Nghiêm Phú Phi, Phạm Nghệ, Ṭng Sơn, Lữ Liên, Trần Vĩnh, Đan Thọ, Văn Phụng, HoàngTrọng, Nguyễn Đ́nh Nghĩa...

Đam mê ngâm thơ
có thể tựa :

- Quách Đàm, Quang Minh, Nguyễn Thanh...

Đam mê thể thao
có thể tên tuổi như :

- Huyền Vũ, Lê Văn Inh, Trần Cảnh Được, Mai Văn Ḥa, Lê Thành Các, Phạm Văn Rạng, Vơ Văn Thành...

Đam mê làm báo
có thể lừng lững như :

- Nguyễn Thanh Hoàng, Đỗ Ngọc Yến, Nguyễn Đức Quang, Hà Túc Đạo, Duy Sinh, Nguyễn Hữu Nghĩa, Giang Hữu Tuyên, Nguyễn Thừa Dzu, Hồng Dương, Bùi Bảo Sơn, Lê Hồng Long, Ngô Vương Toại, Nguyễn AnhCa, Phạm Hữu, Vơ văn Ái, Nguyễn Văn Giang, Phạm Huấn...






Đó là một vài cái thú đam mê trong rừng đam mê cao đẹp. Tôi là kẻ bất hạnh, vô phước, không có được mảy may một ly ông cụ nào trong mấy cái thú đam mê tuyệt diệu ấy.

Những cái đam mê nho nhỏ, tôi cũng không có nốt,
như mê thuốc lá, mê cà-phê, mê đánh bài, mê nhẩy đầm, mê câu cá, mê chơi cờ, mê uống rượu...

Cuộc đời tôi sẽ là một chuỗi ngày dài lê thê vô vị, nếu như tôi không vớt vát được một cái thú đam mê như tỉnh như say. Cái thú này có cái lạ là hể ai mê nó, ít khi chịu tiết lộ, cứ dấu im ỉm như mèo... Ấy là mê gái !

Ngày tôi hai mươi tuổi, bước chân vào đời lính, cũng là ngày ḍ dẫm lang thang trong lâu đài t́nh ái, một năm cả gan mê tới ba em.

Em Bích Huyền quê hương miền thùy dương bóng dừa ngàn thông, giọng nói nghe êm sao chi lạ, cứ như rót mật vào ḷng.

Cô Mi-Mi thích món canh chua cá kho tộ, ngọt ngào như trái sầu riêng, ca vọng cổ thiệt mùi, chịu hổng có nổi.

Bé Thúy Hiền chính gốc cố đô ngàn năm văn hiến, Hồ Gươm Hà Nội di cư, yểu điệu thanh tân mỏng mày hay hạt...

Bởi húc bừa băi vô trật tự, thiếu kế hoạch, không ngân khoản đài thọ cho nên hậu quả khốc liệt là các em đă tung sáu cánh chim t́m về với ba tổ ấm, để lại cho tôi biết bao nhiêu là khốn đốn, lao đao, tiếc nhớ hùi hụi.

Không biết ông bố tôi hồi xưa có mê gái như một thứ gia truyền không th́ không rơ, chứ cứnhư đời tôi, mê ǵ chẳng mê mà lại vướng vào cái ṿng oan nghiệt oan gia này mới thực là tai họa.

Tôi cứ đinh ninh cái đó gia truyền, như hiểu ta cũng ṇi t́nh đi thương người đồng điệu.

Sau những năm tháng nghèo đói lang thang, bỗng được lên xe xuống ngựa... sắt, tôi lại bổn cũ soạn lại, ngơ ngẩn với t́nh.

Người t́nh của tôi là một mệnh phụ phu nhơn, gặp nhau trong trại heo ở B́nh Dương.

Tôi th́ mần Ngân Hàng chuyên cho vay ngắn hạn, trung hạn, cho vay chăn nuôi, phát triển tăng gia sản xuất. Nàng có cái trại nuôi heo, cần vay tiền của Ngân Hàng.

Nhân dịp đi theo phái đoàn quan sát địa điểm chăn nuôi, tôi bắt gặp ngay đôi mắt của nàng chớp pha, cốt mấy phát khiến tôi bấn loạn tâm thần.

Rồi lúc ngồi ăn trưa, xếp đặt làm sao mà tôi lại ngồi ngay cạnh nàng. Mùi thơm của nước hoa, hương thơm của da người ḥa cùng hương thơm đặc biệt của trại heo làm tôi ngây ngất.

Nàng tiếp thức ăn cho tôi mà tôi cứ ngỡ như nàng đang cho heo ăn vậy. Bởi chính trong tôi cũng có một con lợn ḷng đang muốn phá chuồng sổ cũi...

Từ bữa đó, tôi hay lấy cớ đi công tác báo chí thông tin, lái xe La Dalat một ḿnh tới B́nh Dương gặp nàng tỉ tê bù khú.






Tuy gọi là “nàng” cho nó có vẻ văn học nghệ thuật đấy thôi, chứ nàng đă gần bốn mươi cái xuân xanh, con cái lớn cả rồi. Sở dĩ nàng nhón tôi tiêu khiển là để vui chơi chốc lát.

Ông chồng nàng là sĩ quan cấp tá, vớ vẩn thế nào mà lại tù ti với chị người làm, theo quan niệm “Trong nhà ǵ đẹp bằng... sen”,nên bà vợ bỏ liền tù t́, cho đi luôn. Thế là anh đi đường anh, tôi đi ngả tôi, đôi ngả phân ly từ đó.

Tuy nàng băm mí tuổi rồi mà nom vẫn c̣n ngọt nước, màu mỡ lắm. Đôi mắt thật là t́nh tứ đong đưa, nét môi son hồng mời mọc, đồi núi vẫn chập chùng, dáng đi lả lướt quư phái. Nhất là nàng lại trang phục đồ đầm áo lụa hồng mỏng dính như tơ, chiếc juưp đen để lộ cặp gị trắng nơn, nàng như một đoá lan rừng.

Trách chi nàng chả có tên “Mộng Lan” là phải !

Tôi thường trốn nhà, trốn sở đi vào xi-nê-ma ngồi coi phim th́ ít mà rờ rẫm th́ nhiều. Có khi hai đứa ghé vườn lan trên xa lộ Biên Ḥa và Đại Hàn, vào ngắm lan muôn màu ngàn sắc.

Em hỏi tôi lan nào đẹp nhất, xin trả lời chỉ có Mộng Lan thôi ! Có lúc chúng tôi đi Vũng Tàu, Long Hải tắm mát rong chơi như đôi t́nh nhân hợp pháp.

Những mục du dương lả lướt như thế, trước sau rồi cũng có người bắt gặp, rỉ tai, thông tin quốc nội. Chuyện đến tai xếp tôi, tôi vẫn tỉnh bơ chối biến.

C̣n như chuyện đến bếp mụ xă tôi th́ mụ ấy không những chẳng thèm để lọt vào tai mà lại cười ầm lên, bảo rằng khen ai khéo “ bỏ bom ” , kể chuyện khôi hài...

Mụ xă tôi lấy tôi từ thuở xưa, biết tỏng cái tính tôi sợ vợ nhất trên đời, trong túi lại chả bao giờ có nhiều tiền, vợ con cả đống rồi, c̣n có ma nào thèm đến thứ tôi nữa mà cũng có người bàyđặt chuyện. Dù mụ ấy thông minh, lư luận cách mấy nữa cũng không biết rằng ma ăn cỗ và cái tổ con chuồn chuồn nó ở chỗ nào.

Lại nửa, dẫu tôi là kẻ nhát hèn, sợ vợ thật đấy nhưng khi cái máu đam mê nó nổi lên th́ có trời can cũng không nổi. Cho nên, nhờ cái vỏ ngoài ngớ ngẩn đáng tin cậy ấy mà tôi vi vút được một thời gian dan díu với t́nh.

Đến khi Mộng Lan vỡ mộng với Cai tôi, ôm đồ sang thuyền khác th́ tôi lại trở về với mái nhà xưa làm anh chồng chung thủy b́nh thường, đứng đắn như ngoại lệ.







Chưa được bao lâu th́ tôi lại ngựa quen đường cũ, tán tỉnh ngay được một em “gái một con trông ṃn con mắt”.

Em có anh chồng cờ bịch, hút sách cho nên bỏ vợ con lang thang. Tôi là kẻ hào hoa phong nhụy, làm ra vẻ thương người, lúc đem vài thùng sữa Guigoz cho cháu bé, lúc tặng nàng vải may áo, lúc biếu mỹ phẩm, quà bánh liên miên... cảm cái ơn ấy, tôi dụ dỗ được nàng đi chơi, bỏ chồng bỏ con, đi vào con đường tục lụy.

Tôi như một kẻ chiến thắng dẫu chẳng lấy chi làm vinh dự nhưng cũng thoả ḷng khao khát đắm say...

Bạn bè có ai đi ngoại quốc, tôi cậy cục nhờ mua phim, mua lịch khỏa thân để bán kiếm lời. Ai muốn xuất ngoại cần chạy Bộ nọ, Phủ kia, tôi chạy rất lẹ. Nói chi đến các Nha, Sở th́ tôi coi như đồ bỏ, chuyện chi cũng mát mái xuôi chèo. Miễn rằng tiền bạc đ́nh huỳnh, ṣng phẳng, theo đúng luật giang hồ.

Từ khi trong ví có tí tiền, tôi thường la cà vào các chốn nhẩy đầm vuốt ve các em “ca-ve” kiếm chác. Các trà đ́nh tửu quán đều biết mặt tôi khách sộp, chịu chơi.

Đến quán bia ôm là các em quay lại đấu hót như máy, mỗi em một ly nước ngọt, cộng lại x̣e ra dăm xín thanh toán như chơi. Vào những nơi tắm hơi đấm bóp, tôi là khách quen cơm bữa.

Tôi c̣n rủ rê thêm bạn bè, hướng dẫn chúng nó đốt giai đoạn để làm quen các em út, ăn chơi thỏa chí với đời...

Thằng Quỳnh Râu,
Giám Đốc Ngoại Thương Bộ Kinh Tế, xưa kia chân chỉ hạt bột mà giờ áp phe tiền triệu vụ đường xăng đại huynh, nhà lắp máy lạnh, đi xe hơi Cortina láng coóng, đào điếc cả bầy...

Thằng Minh Vều,
trung tá Tiếp Vận, thỉnh thoảng phải vào ṣng bạc của bà tướng trong Chợ Lớn nướng bớt cho đỡ nặng...

Thằng Út Khang,
con út của bác tôi, hiền khô như đất, trông thấy đàn bà là đỏ mặt tía tai, chỉ cặp kè với tôi dăm bẩy phùa đă ôm đào nhẩy ś-lô, tango rất mùi rất lẳng...

Thằng đại úy Lộc,
sĩ quan tùy viên của tướng tư lệnh sư đoàn 13, nghe theo lời đường mật của tôi, xách các-táp tùy viên đi bù khú với đào, bao nhiêu tài liệu kín, mật, tối mật bỏ ngỏ cho các em khai thác.

Thằng Cửu Chân,
bác sĩ Quân Y quanh năm tiên tuyến bầu bạn với rừng Dakto, Daksut, Dak- rao, Rangréa, Konpo, Konđú mà lúc thuyên chuyển về gần Saigon cũng đă theo chân tôi vào chốn giang hồ, lúc bán thuốc, khi chạy áp-phe quân dịch tái khám, miễn dịch mà khấm khớ...

Thằng Hùng tức “Hùng Hục”,
thanh tra Quan Thuế, đồn trú phi cảng Tân Sơn Nhất, chuyên áp phe với các bà tướng buôn lậu đồ từ ngoại quốc về, qua mặt quan thuế cái vèo để bán thuốc phiện, bạch phiến, cần sa, toàn những đồ quốc cấm...

Nhờ tôi mà những đứa ấy mở mặt với đời, từ cuối nẻo đường hầm, chui ra ngoài ánh sáng văn minh.






Sở dĩ chúng tôi yên ổn ăn chơi vi vút như thế v́ biết chắc chắn rằng trên khắp bốn vùng chiến thuật, các chiến sĩ hải lục không quân, các binh chủng nhẩy dù, biệt động quân, thủy quân lục chiến, các đơn vị thiết giáp, pháo binh, các lực lượng địa phương quân, nhân dân tự vệ vẫn ngày đêm giữ vững tiền đồn, giữ yên làng xóm để cho hậu phương được an toàn.

Kẻ hậu phương cũng không quên ơn chiến sĩ. Bằng chứng là năm nào cũng có cây mùa xuân tổ chức dịp Tết Nguyên Đán để mừng anh Chiến Sĩ Cộng Ḥa.

Các cơ quan hành chánh, tự trị cũng đảm nhận công tác thăm viếng anh em chiến sĩ tiền đồn, đi theo phái đoàn văn nghệ hát cho lính trận nghe, tặng quà xà-bông, kem đánh răng, khăn mặt, bánh kẹo, thư an ủi...

Ngân Hàng tôi kết nghĩa với Sư Đoàn 7 Bộ Binh của tướng Nguyễn Khoa Nam. Ngày cuối năm, phái đoàn NHPTNN đáp trực thăng từ Biệt Khu Thủ Đô đi Kiến Tường thăm tiền đồn và thương binh.

Trực thăng bay ṿng vo, lúc cao lúc thấp mới tới Kiến Tường.
Hỏi ra th́ phi công cho biết bay như vậy để tránh hỏa tiễn tầm nhiệt của Cộng Sản từ dưới bắn lên. Vùng nào nguy hiểm th́ trực thăng phải bay hướng khác cho an toàn hơn.

Tiền đồn, tuy lúc phái đoàn tới thăm không có khói súng mịt mù, đạn bay tơi tả, nhưng bệnh xá dă chiến có mùi thuốc, mùi “ê-te”, có tiếng rên rỉ của kẻ gẫy tay, người cụt chân băng bó trắng rợn người, máu đào bê bết.

Cái không khí yên lặng tạm thời của tiền đồn là thứ yên lặng chờ đợi, chuẩn bị cho những hận thù nẩy lửa lại sắp diễn ra, bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào. Người quân nhân chỉ biết sẵn sàng tác chiến.

Phái đoàn lại đáp trực thăng về căn cứ Đồng Tâm ở Mỹ Tho, bộ tư lệnh của sư đoàn. Tại đây, đă có phái đoàn đi đường bộ mang hàng trăm gói quà, trong đó có thuốc men, quà bánh, thực phẩm, tiền bạc để tặng các anh em thương bệnh binh đang điều trị tại bệnh xá.

Những người chiến sĩ dầm mưa giăi nắng phong sương, đem cả cuộc đời để bảo vệ mảnh vườn tấc ruộng, quên cả gia đ́nh hạnh phúc để ǵn giữ ngọn cờ, bây giờ mất đi một phần thân thể, nằm đó mà linh hồn như vẫn theo chiến hữu xông pha lửa đạn ngoài trận địa.:112::112::1 12:

Tinh thần yêu nước ấy âm thầm và bền bỉ, kiêu hănh và can trường.
Đó là truyền thống của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa mà thành tích chiến đấu tuyệt vời đă vang động khắp năm châu, đă ghi vào quân sử.





Phái đoàn ăn cơm đoàn kết tại câu lạc bộ với ban tham mưu của tướng Nguyễn Khoa Nam.

Vị tư lệnh độc thân, nói năng từ tốn và chắc chắn, nhiều lúc như trầm tư mặc tưởng, như cả cuộc đời gắn liền với nếp áo quân nhân, với đồng ngũ, với đơn vị. Tôi chỉ được nghe danh tướng Nguyễn Khoa Nam là một vị tướng trong sạch, nên ḷng rất kính phục. Chả bù với các tướng tham nhũng, bất tài vô hạnh...

Giữa một rừng sao quả tạ như thế, rất may c̣n một số v́ sao lấp lánh rạng ngời như ánh hải đăng để Quân Đội c̣n vững niềm tin, c̣n tinh thần chiến đấu diệt Cộng.

Tôi cũng tin tưởng thế, nên chuyện tiền đồn, bệnh xá lại như mây gió thoảng qua, chuyện ăn chơi đàn đúm, làm tiền vẫn là đá nam châm thu hút, đầy ma lực và quyến, rũ...

Một đêm đang ngủ say
bỗng có tiếng nói rất quen thuộc mà cũng rất nghiêm nghị, đánh thức tôi dậy, hỏi rằng :

- Có phải thày là Cai Phúc ngày xưa đó chăng ?

Kẻ này đáp :

- Dạ phải !

Cuộc đàm thoại tiếp tục :

- Nhà thày có nhớ hồi tản cư nhà nghèo phải đi hốt phân trâu phân ḅ về bón rau, những đêm hè tát nước gầu đôi gầu ba, những ngày đông rét mướt đi chăn vịt ở Gia Lộc, Thanh Miện ?

- Dạ nhớ .

- Nhà thày chắc chưa quên thời học tṛ Nguyễn Trăi, học công dân giáo dục thày Nguyễn Đức Hiếu về đạo tu thân, tề gia, trị quốc chứ?

- Dạ, quên làm sao được ?

- Thế nhà thày c̣n nhớ lời thày giảng:

“ Bần tiện bất năng di, phú quư bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất ” không ?

- Dạ c̣n nhớ !

- Khi nghèo đói tả tơi mà ḷng dạ chẳng đổi, giấy rách vẫn giữ lấy lề, nhà thày theo tới không ?

- Dạ, chưa làm điều ǵ ác ôn để cha mẹ bị chửi ạ !

- Nếu quả vậy, ta có lời khen. Thế gặp hoàn cảnh bị vơ lực áp bức, hành hạ đe dọa mà vẫn không sợ hăi, không chịu phục ṭng, nhà thày can đảm đến mức nào ?

- Dạ, trong đời từng dăm lần biểu dương thái độ, nhất quyết là không, ít ra là bốn không !

- Nếu việc làm у như lời nói, ta có lời khen nữa. Thế c̣n như câu :

“ Phú quư bất năng dâm ”


- chữ “dâm” đây có nghĩa rộng là tham lam, ham muốn quá độ, say mê sắc dục, lạc lối lầm đường - như :

-'' Dâm bằng”
là bạn bè xấu .

- “ Dâm bội”
là tà dâm trái đạo .

- “ Dâm hành”
là hành động tà dâm .

- “ Dâm học ”
là cái học không chính đáng .

- “ Dâm huệ”
là ơn huệ không phân minh .

- “ Dâm lệ”
là nước mắt đàm đ́a không dứt .

- “ Dâm ngôn ”
là lời nói thô tục .

- “ Dâm thị ”
là cái nh́n bất chính .

- “ Dâm từ ”
là lời nói không đứng đắn .

- “ Dâm uy ”
là oai quyền bất chính

- “ Dâm vũ”
là mưa rầm rề đường trơn ướt lê thê... Nhà thày theo tới đâu rồi ?

Câu trả lời quả thực là khó, bởi từ ngày le lói tí đom đóm với đời, nhiều phen đổi bạn, đôi lúc muốn bỏ vợ, tôi như con diều gặp gió sắp lên cao, đâu c̣n nhớ ǵ xa xưa, dĩ văng.

Nay có kẻ biết tỏng ḿnh, bầy đặt hỏi móc họng, kê tủ đứng vào mồm, liệt kê những cái tồi tệ, đốn mạt của ḿnh ra khiến tôi vừa bực ḿnh vừa hổ thẹn, phân vân chưa biết trả lời sao th́ lại nghe có tiếng thở dài:

- Có thân mà không chịu tu sửa, có gia đ́nh mà không biết giữ ǵn, có tổ quốc mà không lo bảo vệ. Những kẻ như bây đă làm băng hoại cả một cơ đồ. Trách chi đất nước này chẳng tới hồi mạt vận...
Tôi vội chắp tay kính cẩn:

- Thưa, người là ai, thần linh hay thánh nhân, có điều chi dạy bảo, xin...

Tiếng nói át đi:

- Tao nào có phải thần thánh quỷ quái ǵ đâu! Tao chính là cái LƯƠNG TÂM của mày đó!

Nói xong im luôn.

Tôi toát mồ hôi, mở cửa bước ra sân. Chung quanh không một bóng người.

Từ khu Đồng Ông Cộ nh́n lên bầu trời đen thẳm, lập loè vài đóm mắt hỏa châu. Và tiếng súng trận dồn dập đau thương nghe như mỗi lúc một gần...

C̣n tiếp ,


hoathienly19 12-11-2020 19:43



CHƯƠNG 10



Mặc dù t́nh h́nh chiến sự trên bốn vùng chiến thuật sôi động, nhiều trận đánh ác liệt kinh hồn, nhưng hầu hết các trục lộ do quân ta kiểm soát an ninh, các đồn pḥng ngự vẫn tung bay ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, các thị trấn vẫn sinh hoạt b́nh thường.

Và tại thủ đô miền Nam, Ḥn Ngọc Viễn Đông, vẫn như thuở thanh b́nh thịnh trị.

- Nếu không có người lính Dù ôm M-16, mặc áo giáp đứng trên lô-cốt cạnh cầu Phan Thanh Giản .

- Nếu không có đồn bót quanh ṿng đai an ninh Saigon chất đầy bao cát và những ṿng giây kẽm gai hiểm hóc .

- Nếu không có những quân nhân mặc đồ trận mang nón sắt mang vũ khí di chuyền trong đám thường dân .

- Nếu không có những quân xa sơn màu lá rừng, những xe thiết giáp trang bị súng lớnchạy ầm ầm đây đó

- Nếu không có những chiếc máy bay 130, A-37, trực thăng bay lượn trên ṿm trời xanh mây trắng... th́ ít ai có thể ngờ rằng đất nước tôi ṛng ră buồn vui suốt mấy chục năm vẫn c̣n khói lửa tơi bời.

Khói lửa ở xóm thôn, ở ven đô, có khi trong đô thị. Khói lửa ở các địa danh cao nguyên, đồng bằng, sông rạch, đường xá, vị trí đóng quân, phục kích, hành quân... Nơi mỗi người dân là một mối u sầu lởn vởn.






T́nh h́nh quân sự coi ra phía địch được tiếp tế viện trợ tối đa,
c̣n phe ta bị hạn chế, cắt ngân khoản, cắt đủ mọi thứ. Người bạn đồng minh đă trở cờ, chuẩn bị rút lui. Chỉ c̣n lại một quân đội can trường kiêu dũng, đánh giặc với các điều kiện hoàn toàn bất lợi. !






T́nh h́nh chính trị càng ngày càng thê thảm hơn.
Nhóm ngụy ḥa, thân Cộng ồn ào chống đối chính quyền. Người quốc gia ngao ngán trước t́nh cảnh nguy vong đổ vỡ.

Trong bối cảnh thất điên bát đảo ấy, tôi vẫn vác sách đi học đêm, nghe các giáo sư diễn giảng về chính trị, ngoại giao. Các thày đều là hành chánh gia, lư thuyết gia, chính trị gia, luật gia, nói như nước chảy hoa trôi thao thao bất tuyệt khiến sinh viên cứ ngồi vểnh tai lên mà nghe rất sướng.

Sướng nhất là nghe thày bàn về t́nh h́nh chiến sự và chính trị. Với những luận cứ chắc hơn bắp, thày bảo rằng t́nh thế tuy nó là thế nhưng chưa hẳn đă là thế đâu. Nghĩa là dẫu ta có mất vài tỉnh, rút quân từng phần nhưng đôi bên sẽ phải ngưng ở một nơi có chuyến đ̣ vĩ tuyến.

Vĩ tuyến ấy ở chỗ nào th́ thày đưa ra vài cái rồi quả quyết rằng ta cứ yên chí, chớ có ồn ào, rối trí, mất b́nh tĩnh mà hỏng việc.

Có thày lại viết báo Chính Luận bày tỏ lập trường, dự đoán t́nh h́nh đất nước và lạc quan nhận định dẫu có bề ǵ, ḿnh vẫn c̣n giữ được một phần lớn miền Nam.

Giới trí thức, chính trị mà đă quan sát, phê b́nh như thế, tất nhiên đám sinh viên chúng tôi phải coi là khuôn vàng thước ngọc rồi nên rất an tâm. Có một điều lạ là ngoài phố thiên hạ bàn ra tán vào rất khác lập trường của các thày đại học.

Giới chị em ta có liên lạc mật thiết thân t́nh với quân nhân Mỹ coi ṃi hoạt động mănh liệt hơn cả. Mặc dù t́nh thế rối tơ ṿ, chả ai hiểu đường đi nước bước ra sao, nhưng các chị em ta có lập trường rơ rệt. Ấy là đưa người vào phi cảng, vào DAO để đi Mỹ.

Tôi cũng có giao dịch với chị em ta, tuy không mặn mà như G.I. Mỹ nhưng cũng thu thập khá đủ t́nh h́nh tin tức t́nh báo chiến thuật để quyết định một phùa chót chuyến này.

Nhận thấy rằng nghe theo các thày có vẻ hay đấy nhưng không có lợi. Đàng này, phía chị em ta được đồng minh rỉ tai nên có chương tŕnh ra đi chớp nhoáng mà lại mần x́n khá gọn.

Tôi gia nhập vào băng của họ, chuyên mối lái các gia đ́nh giàu có muốn đi. Thế là tôi thu xếp cho người ta vào DAO, mỗi người chỉ phải nạp ít vàng hoặc đô-la xanh là OK xong việc.

Những chuyến đi như thế, tôi có thể kiếm dăm bẩy ngàn đô-la như bỡn, hoặc dăm mười lượng vàng nhanh như cắt.

Gần cuối tháng 4 năm 1975,
t́nh h́nh coi ṃi bết bát, lần lượt các tỉnh lỵ bị Cộng Sản tràn ngập. Chiến sự đă gần kề đô thành. Chính phủ thay đổi. Tôi cũng t́m đường dọt cho mau vào phút chót.

Ngày 28 tháng 4,
gia đ́nh tôi đă nằm trong DAO Tân Sơn Nhất, đêm đó Cộng sản pháo kích phi trường, đạn réo như xé lụa, rít lên thật là rùng rợn và kinh hoàng.chót.

Trưa ngày 29 tháng 4,
mấy ngàn người cả Việt lẫn Mỹ kẹt trong DAO th́ tôi thấy có xe Mỹ đi nhổ cột điện, chướng ngại vật khu sân rộng. Lính Mỹ nói rằng sẽ có máy bay đến đón chúng tôi và đưa ra biển. Khu DAO ồn ào hẳn lên, nhốn nháo bàn tán, chờ đợi.

Lối 3 giờ chiều,
ba chiếc trực thăng từ ngoài Vũng Tàu bay tới, hạ cánh khoảng 100 lính Thủy Quân Lục Chiến, súng ống đầy ḿnh để giữ an ninh cho khu DAO.

Trên trời, mấy chiếc phản lực thay nhau vần vũ. Đám người Việt, người Mỹ được chia từng khu, từng toán trật tự, có lệnh mới a-la-xô lên máy bay. Cứ ba trực thăng đi th́ chút xíu lại có ba cái khác đáp xuống.


Chuyến bay tôi rời DAO lúc 5 giờ chiều.
Chiếc trực thăng bán phản lực, chở 60 người cất cánh, bụi tung mù mịt, động cơ ầm ầm, hở phía đuôi, có thể nh́n xuống dễ dàng.

Không ai bảo ai, những người lớn đều ôm mặt. Có người nghẹn ngào nức nở, có người khóc thành tiếng bi thương. Tôi không khóc, không ôm mặt mà lại mở thật to đôi mắt để nh́n quê hương lần cuối.

Dưới đó, là Tân Sơn Nhất, là Gia Định, G̣ Vấp, Thủ Đức, Long Thành, Vũng Tàu... Dưới đó là những mái nhà tôn nhà lá nhà gạch, những con đường nhựa đường làng, những thửa vườn, luống rau, những đồn bót đơn vị, những kỷ niệm chồng chất, dập vùi...

Khi sống trên quê hương, tôi chả bao giờ thiết tha đến những thứ đó, trái lại nhiều lúc c̣n dửng dưng coi rất tầm thường. Mà sao khi mất mát nó rồi mới thấy nhớ nhung, quư báu, xót xa.






Giá trước khi chạy ra máy bay, tôi vốc được một nắm đất bỏ vào túi làm kỷ vật có phải là đẹp biết mấy không cơ chứ. Chiếc trực thăng bay gần 50 phút, chúng tôi ra tới hải phận quốc tế, đáp trên chiến hạm.

Chưa đầy một tiếng đồng hồ, tôi đă là người tỵ nạn lênh đênh như con thuyền không bến. Đoàn người được tiếp tế ăn uống và chờ đợi di chuyển qua tàu khác. Tôi vẫn ôm khư khư cái túi đựng đô-la và vàng Kim Thành, không lúc nào chểnh mảng.

Với số tiền dăm chục ngàn đô-la và vàng lá, qua Mỹ tôi sẽ tự tậu một cái nhà, sắm một cái xe hơi Huê-Kỳ mới toanh và mua một cơ sở tự lập khỏi phải nhờ vả ai phiền phức.

Đến đêm, mấy tàu Mỹ bật đèn như sao sa, sáng choang một vùng biển, nom tựa một thành phố nổi vậy. Nhờ trời mây quang tạnh, các xà-lan chở người qua tàu khác không mấy khó khăn. Chỉ có một chút khó khăn là sóng biển chập chùng, lắc lư cái xà-lan và khi từ xà-lan lên tàu lớn th́ phải trèo thang giây, có người đỡ.

Tôi đă cẩn thận luồn cái túi tiền qua cổ qua vai, thế là yên chí lớn. Đến lượt tôi bắt đầu trèo thang giây, bỗng dưng trời nổi gió. Sóng nước lao đao, c̣n con người cũng lảo đảo. Những người già trẻ lớn bé, đang trèo thang giây, sợ hăi, ḥ hét om ṣm. Tôi lúc đó cũng hoảng hồn chỉ sợ té. Trong khoảnh khắc, tôi cảm thấy người nhẹ hẳn đi, th́ ôi thôi, chiếc túi tiền với vàng đă rơi ṭm xuống biển.

Tôi chết điếng cả người, không dám hé răng v́ c̣n phải cố gắng ṃ thang giây leo lên tàu buôn lớn. Cái tàu buôn này chuyên môn chở hàng, thủy thủ đoàn lối hơn chục người nhưng khi được Hoa Kỳ thuê chở dân tỵ nạn nó đă chứa tới năm ngàn mạng.

Đó là con tàu “Pioneer Commander” . Khi cả nhà lên tàu, kiểm điểm thấy vợ chồng con cái đầy đủ, kiếm được một góc tạm cư, lúc bấy giờ tôi mới nhớ lại cái túi tiền và vàng rớt xuống biển mà ḷng đau như cắt. Mụ vợ tôi thấy tôi thở dài sườn sượt cứ ngỡ rằng tôi buồn nhớ cố hương, mặc dù mụ ấy cũng đang khốn khổ khốn nạn, an ủi rằng:

- Thôi th́ vận nước như thế, ḿnh phải chịu ! C̣n biết bao nhiêu người kẹt lại không đi được th́ sao? Ḿnh phải chấp nhận hoàn cảnh. Trời sinh voi trời sinh cỏ, có người có ta...

Nghe mụ vợ nói lải nhải, tôi đâm cáu:

- Có cái con khỉ ! Mất bố nó cái túi tiền rồi !

Mụ vợ tôi nghe chưa dứt câu đă khóc rống lên như bị ai chọc tiết, làm bàn dân thiên hạ chung quanh quay lại, tưởng bọn tôi nhớ nước thương ṇi nên vỗ về an ủi. Tôi ngồi thừ người ra, c̣n mụ vợ tôi không khóc thống thiết bi ai nữa mà khóc như cha chết !

Thế là của thiên trả địa, vơ vét một vố tưởng ngon ơ, ai ngờ tay trắng lại hoàn tay trắng, nay ngồi trơ mắt ếch !


Con tàu trực chỉ hướng Guam, sau mấy ngày ăn cầm hơi, uống cầm chừng, đoàn người tỵ nạn nối nhau thành hàng dài đặt chân trên đảo.

Nơi đây đă chuẩn bị sẵn sàng các lều nhà binh rộng lớn, các tiện nghi tối thiểu vệ sinh để tiếp đón mọi người. Chúng tôi tạm trú ở Guam ba tuần rồi lại lên máy bay 707 ghé Hạ-Uy-Di, Washington State, xuyên ngang nước Mỹ, hạ cánh tại Florida, về nhà người bảo trợ.

Người này không xa lạ ǵ với tôi v́ ổng chính là cố vấn của Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp mấy năm trước, tên là Schroepfer. Cái tên Đức hơi khó đọc, khó nhớ nên tôi tạm phiên âm là “ Xốp-Phơ ” cho tiện.

Ổng về hưu, ở Spring Hill, cách Tampa vài chục dặm. Khu này đa phần là người già, xa đô thị nên quanh quẩn chỉ có vài trăm gia đ́nh. Chúng tôi tới nhà ông bảo trợ, ăn rầm ở rề ba tuần, ngày ngày theo chân ông Xốp-Phơ đi xin việc.

Ông dẫn tôi lên Tampa xin việc văn pḥng luật sư th́ luật sư chỉ cần thơ kư biết nói tiếng Tây Ban Nha và tiếng Tàu. Hai ngoại ngữ đó tôi mù tịt.

Đến siêu thị xin chân xếp đồ trong kho, bấm máy tính tiền th́ họ không thiếu người. Lại ngân hàng địa phương xin chân kế toán th́ tôi chưa đủ khả năng chuyên môn, cần đi học một thời gian họa may họ có cần mới mướn.

Ghé cơ quan bảo hiểm xin tập sự th́ chủ nhân lắc đầu bảo tiếng ăng-lê của tôi mịt mùng quá, đấu sao nổi với thân chủ Mỹ.

Tạt vào xưởng mổ ḅ th́ mới vô đă choáng váng mặt mày v́ thấy máu chảy lênh láng, mùi hôi lợm giọng, đồ tể nào cũng to con trông thật dữ tợn như muốn mần thịt ḿnh luôn, tôi chùn chân thật gấp trở lui.

Chỉ có cái nghề leo thang lên cây hái cam là được trọng dụng.


Lương trả ba tiền, làm ngày tám tiếng, không có quyền lợi ǵ khác cả. Phần lớn các công nhân ngành này là dân Mễ nghèo rớt mồng tơi mới lănh việc. Làm ngoài trời mùa hè đă nóng, mà cái nạn muỗi đốt, kiến cắn, bọ chui vào đầu vào tai vào ḿnh mẩy, vừa ngứa ngáy bẩn thỉu, lại vừa mồ hôi mồ kê nhễ nhại, gai góc đâm bừa băi, sơ ư là té bổ nhào què chân gẫy tay ḿnh lănh đủ.

Tự lượng sức ḿnh không sao cáng đáng nổi, tôi đâm ra thất vọng năo nề, coi như đường hầm trước mặt.





Ông bảo trợ nhanh trí mới tô-lô-phôn lên thủ đô Hoa-Thịnh-Đốn nhờ cơ quan nào đó cho tên tôi vào “computer” kiếm việc làm.

Cách một tuần sau, có cú điện thoại từ Lakeland - cách ổng chừng 40 dặm - một chủ trạm xăng cần người phụ tá, được computer thông báo mới kiếm được một hiền tài nhập cảng từ Việt Nam. Hắn liên lạc với ông bảo trợ hẹn gặp nhau họp thượng đỉnh tại Lakeland.

Ông Xốp Phơ dẫn tôi đến nơi, lại trạm xăng gặp ngay anh chủ tên là Bill Gruter, gốc Ḥa Lan cao lớn đẹp trai, cũng di cư 12 năm trước, lập nghiệp với hai bàn tay trắng mà nay chủ ba trạm xăng, có dăm bẩy cái nhà cho thuê, nhà cửa như dinh thự, nào hồ bơi nước nóng nước lạnh, nào sân nuôi ngựa, nào xe hơi hai ba cái láng coóng.

Hắn đưa tụi tôi thăm cơ sở, thăm nhà một ṿng rồi mời ăn trưa tại một tiệm Tây khá sang trọng.

Tôi có xách cái cặp, mở ra tŕnh bằng cấp giấy tờ, kinh nghiệm th́ tên Bill nói rằng:

- Tôi chỉ cần một người khoẻ mạnh, bằng ḷng làm trạm xăng, thế thôi. Các món giấy tờ của anh, tôi không cần ngó làm ǵ cả.

Sau khi hỏi điều kiện làm việc, lương bổng, tôi tính nhẩm có thể nuôi tạm gia đ́nh lúc này, đỡ phiền lụy ông bảo trợ nên gật đầu xin hẹn ba bữa nữa đem cả nhà xuống Lakeland định cư.

Thế là cái số tôi trước sau ǵ rồi cũng dính tí xăng nhớt mới khá.


Ở Việt Nam, mần việc ngành Quân Nhu th́ tôi cũng học qua loa về xăng nhớt và bán xăng rất lẹ. Sang đến đất Mỹ, lại chui đầu vào trạm xăng, kể như định mệnh đă an bài, tránh không khỏi số.

Từ đó, tôi quản trị 12 ṿi xăng, một máy rửa xe, chuyên thay dầu mỡ xe hơi, đặc trách vá lốp các cỡ, thanh tra vệ sinh và bảo tŕ dụng cụ.

Ngoài các nhiệm vụ chánh tôi c̣n túc trực đi câu xe, chạy cờ cho mấy tên thợ sai bảo đi mua cà-phê, mua săng-uưch, mua la-de hoặc đi mua đồ sửa xe dưới phố.

Làm việc được đâu chừng một năm, tôi khá thông suốt đường lối hoạt động, chủ trương, chính sách của chủ nhân và chẳng bao lâu nghiễm nhiên là một phụ tá tín cẩn đắc lực. Từ khi chiếm được ḷng tin của chủ rồi, tôi mới dở tṛ xưa tích cũ ra thi thố tài năng.

Cái tỉnh tôi ở là tỉnh nhỏ đêm buồn, lèo tèo dăm bẩy gia đ́nh tỵ nạn, phần lớn có việc tốt như làm hăng đóng máy bay, làm hăng hoá chất, làm chỗ bán hàng, chỉ có tôi bơm xăng làm chuẩn cho nên ai nh́n tôi cũng thấy là tôi thấp hèn kém cỏi.

Cái giá trị ở xứ Mỹ này được tính bằng tiền lương giờ, lương tháng. Thiên hạ làm gấp hai, gấp ba lương tôi th́ giá trị tôi nào có hơn ǵ cỏ mọn hoa hèn. Để trả thù đời, cho thiên hạ biết mặt, hễ gặp ai tôi cũng gợi chuyện Saigon, hỏi han xem họ làm ǵ rồi nhân đó đem cái tôi ra để hù thiên hạ.

H́nh như thiên hạ qua đây coi mấy cái đó là đồ bỏ cho nên tôi chả buồn nhắc đến nữa. Nhưng dần dà, có thêm dân ta qui tụ quanh vùng, họ qua lại mua xăng th́ tôi lại thừa cơ hội để ra tay, bổn cũ soạn lại, đánh bóng cái tôi một thời vang bóng, cộng thêm, nhân thêm vài ba chi tiết vơ quàng để làm như ta đây nào có kém chi ai. Chỉ bởi mất nước mới ra nông nỗi.

Từ khi được chủ tín nhiệm, biết việc, tôi làm ca đêm từ sáu giờ chiều đến hai giờ sáng, một ḿnh một chợ tung hoành. Dù chủ cho đủ lương sinh sống, cho nhà ở, xe đi, xăng đổ líp ba ga, ăn uống tự do, tôi vẫn tính nào tật ấy kiếm cách mần x́n.

Đối với vụ bán xăng th́ bán bao nhiêu máy chạy số bao nhiêu, thành tiền bắt buộc. Nhưng c̣n các mục khác, tôi t́m được lối mần tiền riêng. Như vá một cái vỏ xe không ruột, chỉ cần đủ dụng cụ nhà nghề và thời gian không quá 60 giây, tôi sửa xong cái vỏ xe thủng mà không cần trục xe tháo lốp.

Tôi lấy bốn tiền bỏ túi dễ dàng, chả ai biết, chả tốn kém là bao, bất quá một hai chục xu là nhiều.

Xe nào lốp cũ bị bể, chủ xe không đủ tiền mua lốp mới, tôi đề nghị bán lốp cũ, thay niềng, làm “ba-lăng” chỉ tính 15 tiền chẵn không thuế.

Xe nào cần thay dầu mỡ, lọc gió th́ tôi vừa làm vừa đổ xăng, cỡ 20 phút xong xuôi, lại c̣n cho chủ xe rửa chùa một cú.

Tiền phụ tùng, tiền công cỡ 20- 25 đô-la, th́nh thoảng tôi bỏ túi một vụ là có tí tiền c̣m. Những mục linh tinh đại khái như thế, chủ trạm xăng không thể nào biết được. Nó không có sổ sách ǵ ráo trọi, giao khoán cho tôi. Có khác ǵ giao trứng cho ác. Đem mỡ để ngay miệng con mèo. Hắn cứ tưởng rằng tôi là một người đứng đắn, đáng tin cậy nên giao tay ḥm ch́a khoá cho tôi.

Tôi thừa hiểu rằng mở một trạm xăng là tiền nhà, tiền đất, tiền thuế, tiền nhân công, tiền điện nước, tiền dụng cụ, tiền ăn uống, tiền may sắm quần áo, trăm thứ đổ vào đầu chủ, mà trạm xăng không kiếm ra tiền, không thu vén th́ chả bao lâu mà vỡ nợ.

Tôi vẫn cứ bơ đi, sống chết mặc bây tiền thày bỏ túi. Tiền đây là tiền ăn cắp của chủ chứ nào phải tiền của ḿnh.

Có nhẽ cái máu ăn cắp đă nhập tới xương tủy của tôi rồi, không sao gột rửa sạch nữa.

Th́ cũng đành coi như định mệnh đă an bài, chứ biết làm chi ?

Một thoáng hối hận, ăn năn rồi lại như nước chảy qua cầu. Biết là thế mà làm lại không như thế. Khó thật !


C̣n tiếp ,


hoathienly19 12-12-2020 20:15

CHƯƠNG 11
 



CHƯƠNG 11



Ấy thế là cuộc đời của tôi gắn liền với cái trạm xăng Amoco, có hơn chục ṿi bơm, có ga-ra sửa xe và có máy rửa xe hút bụi. Tôi bầu bạn với Mỹ Trắng, Mỹ Đen, Cuba, Mễ-Tây-Cơ thuộc đủ tầng lớp xă hội, đủ mọi thành phần già trẻ nam nữ.

Quanh quẩn bên ḿnh là các máy đo b́nh điện, máy xạc b́nh ắc-quỵ, dầu nhớt mỡ, lốp xe, ḱm búa, mỏ lết, kích, giây điện, bu-gi.

Trang bị bản thân với chiếc quần màu xanh, cái áo sơ-mi trắng cộc tay có nhăn hiệu Amoco, túi sau nhét chiếc khăn lau nhỏ màu cam ṭng teng, tôi chạy qua chạy lại lạch bạch như con vịt bầu.

Thân h́nh đă thấp bé, lại đa mang cái tuổi già tóc ngả muối tiêu, nom ḿnh chả giống ai th́ chắc bạn bè có ai trông thấy ḿnh hẳn cũng động ḷng trắc ẩn. Đành rằng ở cái xứ người văn minh tân tiến, một anh trước rửa bát, hoặc chăn ḅ, hoặc đóng phim xi-la-ma mà sau nhờ chí lớn, gặp thời cơ vẫn có thể thành nguyên thủ quốc gia và lấy làm hănh diện về cái thuở thiếu thời, thuở hàn vi với những thành tích lẹt đẹt như thế.

Nhưng ḿnh là người phương Đông, sau lại học cái học bên Tây cho nên đầu óc bao giờ cũng phân ngôi thứ hạng sĩ, nông, công, thương, binh rất là lớp lang rành rẽ. Những giai cấp xă hội đă minh định phân miêng, không thể lộn xộn.

Ngẫm trước kia, dẫu ǵ ḿnh cũng ngạch ngỗng như ai, mần việc chính phủ đ́nh huỳnh, kẻ đưa người đón, vẫy vùng một cơi biên thùy, đến nay qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn ḷng, đang thày xuống thợ, đang ông xuống thằng, đang làm công dân Việt Nam Cộng Ḥa bỗng thành kẻ tỵ nạn ngơ ngơ ngẩn ngẩn.

Mọi chuyện đảo lộn tùng phèo. Gia đ́nh ly tán, bè bạn trôi dạt như bèo như mây, như gió thoảng.

Dẫu làm thân mất nước vẫn ôm khư khư cái dĩ văng tô màu vàng son rực rỡ lung linh, cho nên khổ. Và không muốn để ai coi ḿnh hèn mọn nên đă thổi phồng, đă đánh bóng cái tôi để lừa dối ḿnh, để mong người khác kính nể, để tự măn tự hào trong giây lát.





Thế nên, gặp Mỹ hỏi han ba điều bốn chuyện về Việt Nam th́ tôi khoa chân múa tay diễn tả thời cuộc, chính trị, quân sự như một chính khứa. Mỹ hỏi về nghề nghiệp, th́ tôi có sẵn “résumé” trong đầu, phóng ra nào là :


Phó Tổng Giám Đốc Ngân Hàng, Giáo Sư Đại Học, cố vấn cho Hội Sư Tử,Chủ Tịch đoàn thế XYZ... Một lô com-pa- nhi chức tước khiến Mỹ nghe xong cũng phải giây phút ngậm ngùi.

Các nhà thờ, trường học, hội “Li-ông” , Thanh Thương Hội, ṭa báo địa phương cứ quấn quít mời đến cơ sở họ để nói chuyện. Tất nhiên là tôi rất lịch sự từ chối.

Bởi nếu tôi mà tới nói chuyện cho Mỹ nghe th́ chắc chắn Mỹ sẽ vỡ mộng thiên đường, c̣n đâu là huyền thoại một anh cu-li bơm xăng ḿnh đầy chữ nghĩa, hiểu biết và danh vọng ở Việt Nam !

Gặp đồng hương lạ hoắc,
tôi vẫn tự nhận ḿnh là dân nhà binh, cấp bậc Trung Tá cho nó hách x́ xằng.

Này nhé, cái hồi đi Thủ Đức, sau ba năm tôi đă đeo hai bông mai vàng. Nếu ở lại ngành cho đến khi mất nước, vị chi sơ sơ tám năm, thế nào mà chả lên ít ra Thiếu Tá ? Mấy thằng bạn đồng khoá, chúng nó đeo mai bạc gần hết đấy chứ !

Nếu không mất nước,
ba, bốn năm nữa làm chi chả lên Trung Tá, Đại Tá mấy hồi. Tôi cứ trung dung chi đạo, nhận Trung Tá là nhũn nhặn.

Chả bù với bà cụ già cùng tỉnh Lakeland,
mới gặp cụ ấy đă khoe rằng con rể bà cụ là Mỹ, nó mần việc với “ông tướng có hai ngôi sao” tức là thân cận, làm lớn lắm. Sau ḷi ra hắn là trung sĩ hầu cận cho ông tướng chứ lớn lao cái khỉ mốc ǵ. Ấy, chỉ hù nhau như thế cho đời mua vui và hy vọng một chút an ủi.

Chưa bằng thằng bạn học cũ của tôi, hồi ở Việt Nam làm sở Mỹ mà khi qua Mỹ gặp nhau, nó bảo bây giờ vẫn làm cho sở Mỹ lớn lắm, trong hăng có cả ngàn người mà nó đứng hàng thứ tư, thứ năm cơ mà ! Tôi nghe, quả thực là hăi và phục nó sát đất. Sau mới biết rằng nó vẫn làm cái chân lèng tèng phiên dịch chứ có làm ông làm cha ai đâu.

Có nhẽ khi hăng chụp h́nh, nó đứng ở hàng thứ tư, thứ năm trong đám nhân viên của hăng chăng ? Nếu vậy th́ nó vẫn tự trọng, nói đúng. Chỉ có tôi hiểu nhằm v́ đầu óc sẵn tối ṃ ṃ ám ảnh.






Ḿnh đă là thằng chuyên môn phóng đại tô màu, thế mà có bữa đụng ông bạn đồng hương, bà vợ ổng khoe hồi ở Việt Nam, nhà có mấy cái bin-đinh cho Mỹ thuê, c̣n gia đ́nh ở vi-la đường Cách Mạng. Ông chồng khoe làm việc sát Tổng Thống, coi ra vẻ rất trịnh trọng, ác liệt.

Bẵng một dạo, t́nh cờ tôi lại nghe về gia đ́nh ông bà này lộn xộn, thiên hạ bới chuyện kể cho vui mới tiết lộ rằng họ ở thuê trong hẻm Trương Tấn Bửu gần phở gà Nam Xuyên, chồng làm tống thơ văn phủ Tổng Thống.

Những cảnh hù nhau như thế đă chẳng giữ được bao lâu, cũng chẳng no béo vinh hoa ǵ mà chỉ làm tṛ cười cho thiên hạ. Rất may, Mỹ không có khoản thuế nào đánh thuế những đứa nói khoác, chứ không ngân sách Mỹ biết đâu chả nhờ thế mà trang trải hết nợ nần.

Sau này, sống trên đất Mỹ lâu hơn, tôi hiểu rằng cái thang giá trị của người nó khác của ta. Xứ người, có đủ điều kiện, đủ sức khoẻ, đủ tiêu chuẩn, đủ khả năng, và có thêm chút may mắn là bắt được “dóp” .

Dóp tốt hay xấu, nặng hay nhẹ, lương cao hay thấp tùy nơi, tùy việc, tùy người. Người có việc đều đặn, nhiều “crê-đít” tốt là người ấy được nhiều nơi chiếu cố mời-mua nhà, mua xe, mua đồ đạc, máy móc, mua cả ngàn thứ tiện nghi tân kỳ tưởng chừng như chỉ có trong thần thoại.

Thời gian thấm thoát như thoi đưa khung cửi, như bóng ngựa phóng qua mành, mới quay đi mà ngoảnh lại đă ba, bốn năm quê người lủi thủi tấm thân, một tháng đôi ba kỳ tôi vẫn cứ mơ về chốn cũ để nhớ để thương để buồn để tủi.

Trong cơn mê, chập chờn bóng dáng cha già c̣m cơi hắt hiu, ba mươi năm chưa thấy mặt thằng con bất hiếu. Khi mộng mị, gặp những bóng ma leo đèo lội suối phá rừng thi đua cải tạo, thấp thoáng đây đó những ánh mắt quen thuộc, h́nh như ngày xưa cùng đơn vị, cùng nhiệm sở với ḿnh mà nay thân tàn ma dại tù đầy lao tác lầm than.

Lúc thoát hồn, nh́n rơ những đứa nằm vùng, những tên công an, những thằng đi ḍ la ŕnh ṃ bắt bớ giam cầm, những vùng mang tên “ kinh tế mới ” của chế độ có tên “kinh tế thụt lùi” , những khoai sắn bo bo thế chân gạo nàng hương, gạo tám thơm, gạo nanh chồn, gạo dự. Cuộc sống được bủa vây bằng một bức màn tre đầy chông gai, hầm bẫy và bao trùm bởi một tấm màn đen vĩ đại rợn người.






Có lần, tôi mơ bị Cộng Sản lùa vào trại cải tạo hành hạ sỉ nhục không xong, chúng nó lôi tôi ra băi đất dùng mă tấu chém đầu...

Thanh mă tấu vừa dơ cao, tôi vùng vẫy hét lớn và tỉnh mộng. Mồ hôi trên trán nhỏ giọt. Vừa lúc thức dậy đi làm.

Có lần, tôi mơ được trở lại thăm nơi chôn nhau cắt rốn là cái tỉnh nhỏ bé Hải Dương, ra bờ sông leo lên đê đi tới tận Bến Bè, Cống Trắng, cầu Phú Lương, vườn hoa Bảo Đại, phố Khách... Rồi thoắt cái có mặt tại Hải Pḥng, lượn qua đường Cát Dài, phi trường Cát Bi, ăn kem Thủy Tinh, ra vườn hoa Con Cóc.

Theo quốc lộ số 5,
tôi ghé Bần Yên Nhân, đến Gia Lâm, vượt cầu Long Biên bắc ngang sông Hồng Hà vào thủ đô ngàn năm văn hiến Hà Nội. Cái chợ mà tôi thích nhất là Chợ Đồng Xuân, quà bánh ngon số một. Khu Hàng Đường, Hàng Đào, Hàng Ngang tấp nập bán buôn. Khu bờ Hồ Hoàn Kiếm có cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn, Tháp Rùa, có xe điện chạy leng keng khắp nẻo đô thành.

Vùng Bách Thảo, Hồ Tây có bánh tôm, có bơi thuyền, có chùa Một Cột, có đền Quan Thánh. Hà Nội có nhà hát lớn lâu lâu lại tuyển lựa ca sĩ, lại diễn kịch “Bến Nước Ngũ Bồ”, “Vân Muội”, “Tiếng Trống Hà Hồi”, sau có Ban Thăng Long tŕnh diễn ca nhạc vui như ngày hội lớn.

Hà Nội có tới năm cửa ô xưa, có đến ba mươi sáu phố phường, có cả trăm ngàn cô gái đẹp nơn nà, đài các kiêu sa. Hà Nội có trường Chu Văn An, trường Nguyễn Trăi, trường Trưng Vương, trường Puginier, trường Albert Sarraut. Hà Nội có Tháp Bút, Văn Miếu, g̣ Đống Đa oai linh hiển hách...

Tôi được sống trong mơ với những kỷ niệm học tṛ bát ngát hương hoa, với những tham lam quấn quít vấn vương của thời trẻ dại. Những h́nh bóng xa xưa ấy cứ nương náu tiềm tàng trong vô thức để những lúc sắp quên hay những chiều tưởng nhớ th́ kỷ niệm lại ồ ạt tuôn ra tựa thác lũ mưa ngàn, nhất là khi thu tới, đông về, khi hoa cúc hoa đào chúm chím môi chào chờ đón chúa xuân sang...

Để diễn tả nỗi nhớ nhung vời vợi ấy, tôi nẩy ṇi ư định làm thơ. Và căn cứ -vào câu nói “mỗi người Việt Nam là một thi sĩ”, nên tôi luận lư học theo tam đoạn luận rằng:

“Tôi là người Việt Nam. Vậy tôi đích thực у boong là một thi sĩ.”
Bèn phóng bút moi vần chờ điệu ra cái điều ta đây cũng văn nghệ văn gừng.

Nhân dịp năm con Ngựa sắp qua, năm con Dê tựu chức - tức năm 1979 - tôi thừa thắng xông lên mần một bài “phú” kể lể cà kê dê ngỗng như mang nặng tâm tư chất ngất u hoài, phong kín nỗi buồn ảo năo, tang thương. Sợ rằng bài phú không đúng khuôn phép, vi phạm các điều cấm cản, tôi gọi đó là “Phú... Tự Do”để tiện đường vi vút, vẽ vời. Lại lựa vận “A” cho dễ dàng ê а hợp điệu.






Và đây là bài “ Phú... tự do ” của tôi sau bốn năm tỵ nạn, với tựa đề:

Xuân Viễn Phương

Ngựa dọt đấy a ?

Dê sang đó hả?

Trộm nhớ thuở giang sơn có bốn ngàn năm lịch sử gấm hoa.

Nghe rằng xưa ḍng dơi Rồng Tiên, toàn liệt nữ hùng anh chí cả.

Đất nước mến yêu, này đây:

Huế, Saigon, Hà Nội, Thiên Mụ, Lăng Tả Quân, Chùa Một Cột, Chùa Hương...

Cơ đồ báu vật, ô ḱa:

Hương Giang, Trà Khúc, Cửu Long, Đồng Nai, Kinh Cái sắn, Sông Hồng, Sông Mă...

Chả biết tại “ nàm thao ’’chiến chinh cứ mù mịt rối bời

Đâu có hiểu “ thế lào ” tang thương c̣n nát tan vất vả.

Đến nỗi đời trai bỏ thây chiến địa

Để cho má đào tàn một kiếp hoa

Đàn trẻ nhỏ lạc loài thiếu nơi nương tựa

Lũ em thơ thui thủi không chỗ vào ra

Rồi bỗng một ngày chướng khí âm u, quân Cộng tràn về bắn vào thành phố

Té ngửa ra rằng bọn chúng chính là lũ quỷ hiện h́nh ôm súng A-Ka.

Tháng Tư Đen, Việt Nam ch́m trong ngục tối

Bốn năm buồn, đoàn người lê gót bốn ba.

Những tưởng qua đây văn dốt vũ dát

ngây ngô như mán xá gà tồ

Ai ngờ thấm thoát đă vi vút tiếng Mỹ tiếng Tây ăn đong quá xá!

Người lớn đi làm th́ chủ mến xếp yêu lương tăng cái rụp

Trẻ c̣n học hành được thày nựng cô chiều chiếm độc hạng A.

T́m bạn tri âm, đó đây thanh niên thiếu nữ

Họp bạn lăo niên, nọ kia hà cả ông già

Chợ búa Á Đông mọc lên c̣n mau hơn nấm

Sách báo An Nam phát hành đẹp tựa muôn hoa

Các mợ, các em nấu nướng đan may,

thảy đều số dách,

Nhiều bác, nhiêu bà tứ đức tam ṭng

liệt phụ khả gia

Đến nay, dân tỵ nạn ta:

Vẫn nghe nhạc Phạm Duy nỉ non lời ru Việt Nam ngàn năm bất diệt,

Thường khóc cùng Thái Thanh ngậm ngùi tiếng hát muộn phiền cay đắng thiết tha vẫn ăn cơm nước mắm

Vẫn rau muống quả cà

Đau niềm đau ruột thịt

Xót t́nh mẹ t́nh cha

Ngoài kia Xuân, trời đất cỏ cây đẹp như tranh vẽ

Trong ḷng Sầu, gió trăng mây nước

buồn tựa sân ga

Tuy sống ấm no

Vẫn vọng tưởng quê nhà

Vẫn tâm tư buồn bă

Thương mấy chục triệu đồng bào đói rách ốm đau

Nhớ bao nhiêu vạn con người lầm than tơi tả

T́m ‘‘ Tự Do ” , vẫn có kẻ thuyền mành hát khúc viễn du

Gọi “ Nhân Quyền ”, chả thấy ai chỉ toàn bóng chim tăm cá

Nghĩ lắm lúc miệng hộc máu tươi, đầu óc nát như tương

Lại suy ra tay đứt ruột mềm, lệ đầm rơi lă chă

Ngán nhỉ ?

Cuộc đời đôi ngả

Dâu bể phong ba

Sao không nghĩ trăm năm là mấy, để rắc reo t́nh thương, xoá bỏ hận thù

Mà cứ hành thân xác ốm o, rồi đấu tố tùm lum hỡi quân Hà Bá ?

Chả có nhẽ, măi tang thương ngẫu lục để khiến cho cả nước căm hờn

Đă hay rằng, dù vật đổi sao dời

th́ cứ biết toàn dân sẽ khá

Nay dịp Xuân sang

Xin gửi nhớ thương chất ngất nghẹn ngào về nơi đất tổ quê cha

Xin b́nh an lặng ru những tấm ḷng héo hon tàn tạ.

Xin gửi các chiến sĩ Phục Quốc Quân

Thêm cảm mến kính yêu vào niềm tin sắt đá

Bởi chính các anh

Là những thành tŕ xây dựng giang sơn đấy ạ!

Xin khẩn cầu Thượng Đế

Nam Mô Phật Thích Ca

Ban ân phước độ tŕ chúng con

Đám con dân vẫn ước mơ có một ngày về bến cũ cây đa

Có con đ̣ êm ái triền miên trên ḍng sông ơ hờ đầy tôm đầy cá

Xin đoàn tụ yên vui đến với những người chờ mẹ mong cha

Xin vợ chồng anh em nâng chén men say bên cạnh ông bà

Xin v́ t́nh yêu nhân loại đậm đà

Phổ hiến “nhân quyền” như quảng cáo Coca

Xin cho nhau t́nh thương, hởi t́nh thương rộng răi thiết tha

Và hai nữa, bởi nó lại c̣n rẻ hơn nước lă

Chỉ ước mơ niêm ước mơ nhỏ bé thế thôi

Tràn vào Việt Nam từng bao nhiêu năm lầm than

v́ bị chiếu sao quả tạ

Để ấm no, đoàn tụ, t́nh thương về dưới mái nhà

Và cuối cùng

Xin ơn trên phù hộ chúng ta...


C̣n tiếp ,




All times are GMT. The time now is 18:21.

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.26606 seconds with 9 queries