![]() |
Văn Hoá Nói Tục Chửi Thề - Huy Phương
Nói tục, chửi thề có sướng không? Không khoái lỗ miệng thì người ta đã không nói. Bỗng dưng một hôm, gặp một thằng bạn nối khố bốn mươi, năm mươi năm về trước, mừng quá không dằn được tấm lòng hoan hỷ, đã kêu lên: “Tổ cha mi, tau tưởng mi chết mô mất đất rồi!” Tiếng chửi không có gì là tục tằn mà còn mang chút âu yếm chỉ dành cho những người và những gì thân ái nhất. Không tin, bạn có quen biết thì cứ hỏi các cô nữ sinh Đồng Khánh ngày nào, gặp gỡ nhau là cứ ríu ra ríu rít, “mệ nội, tổ cha” lia chia mà không thấy gì trong đó là có chút vô giáo dục. Cũng có những tiếng chửi thề “vô ý thức”, người nói luôn luôn dùng xen kẻ trong câu nói và trở thành một thói quen không bỏ được, tiếng chửi tục chen vào không có liên quan hay tỏ một thái độ gì với câu chuyện, có thể nghe trong bàn nhậu ngoài quán: “Hôm qua tao đi Las Vegas về (đ.má) đóng tiền điện mất toi gần $500, lại bị kẹt xe (đ.má), sáng nay nhức đầu quá, dậy không nỗi (đ.má)... Cũng có tiếng chửi thề khi nóng giận hay “xì nẹc” (s’énerver) về một việc gì không vừa ý: “Đ. mẹ, cái quân lừa thầy, phản bạn!” Những tiếng chửi thề này, người Việt Nam mình gọi là “xổ tiếng ... Đức”, hay rõ hơn là “tiếng Đan Mạch”. Thật là oan cho hai ngôn ngữ này. Khi người ta uất ức, giận dữ không kềm được, nói tục hay chửi thề một “phát” để bày tỏ phẫn nộ. Trong ca dao tục ngữ không nghe tiếng chửi tục, nhưng chúng ta có thể tìm thấy nó trong văn chương: “Ba hồi trống giục, mồ cha kiếp Một nhát gươm đưa, bỏ mẹ đời!” (Cao Bá Quát) Trần Dần, một nhà văn miền Bắc nổi tiếng trong nhóm Nhân Văn bị trù dập, đã có lần viết: “Và đa số là ngại học tập, ngại nghe đả thông. Ngại nghe cán bộ nói nhiều. Ngại bị nắm tư tưởng. Nắm ... nắm con cặc” (Trần Dần ghi 1954- 1960 – Văn Nghệ xb.2000). Đúng là văn chương phản kháng bằng ... chửi tục. Chửi ai, ngoài kẻ đáng chửi nhất là ... đảng. Chúng ta đừng nên coi thường và đánh giá thấp những tiếng chửi thề, vì các khoa học gia đã khám phá ra rằng chửi thề là một cách giải tỏa những căng thẳng, ẩn ức để tâm lý con người được quân bình hơn. Timothy B. Jay, giáo sư tâm lý học người Hoa kỳ, tác giả một cuốn sách mới xuất bản với cái tên lạ lùng “Tại Sao Chúng Ta Chửi Thề” cho rằng đó là một cách duy nhất để giải tỏa những nỗi ẩn ức trong lòng, như người bệnh chửi thể cho đỡ những cơn đau đớn, các nhà thể thao trên sân đấu đôi khi chửi thề để ngụy biện cho một bàn thua. Theo tác giả cuốn sách này, chính sự chửi thề có giá trị để tránh được các cuộc xung đột bằng vũ lực, bằng đấm đá, cấu xé nhau như ở loài vật, vì chúng không thể hiện giận dữ bằng ngôn ngữ được. Tuy vậy người ta vẫn thường đánh giá thấp việc chửi thề và coi như những người thiếu văn hóa mới xử dụng nó. Đàn ông lại hay xử dụng chưỉ thề hơn đàn bà và giới trẻ ngày nay cũng tham gia ...chửi thề không kém. Vậy phải chăng, nói tục, chửi thề ngoài thói quen không được kiểm soát ra, là một thái độ để giải toả những gì đã dồn nén lên con người: cơm áo, công ăn việc làm, đời sống ... Miền Bắc ngày trước, mọi lời ăn tiếng nói, hành động đều bị theo dõi, kiểm soát, hay những bất mãn sau này phải bung ra bằng ngôn ngữ. Những ẩn ức không gì giải quyết được, chỉ có nói tục, chửi thề mới hả dạ phần nào. Sau tháng 4-1975, tại miền Nam, trong ngành giáo dục, các thầy cô giáo mới thấy rõ ưu điểm của học sinh mình mà lâu nay họ không để ý tới, là học sinh miền Nam lễ phép, thật thà và không nói tục, chửi thề như học sinh miền Bắc mới theo cha mẹ vào tiếp thu miền Nam. Phải lâu lắm lớp trẻ con này mới xóa bỏ được cái thói quen ấy và bắt chước được trẻ con miền Nam. Ở miền Bắc, các bạn tù cải tạo có dịp đi sâu vào thôn xóm làng mạc xa xuôi đã chứng kiến nhiều thứ “văn hóa”viết vẽ lên tường nhà trường, hợp tác xã của con cháu bác Hồ, và “văn hóa” nói tục của phụ nữ miền Bắc, nhất là thành phần lính tráng, công an, cán bộ “gái”. Thôi thì thời chiến tranh, cha mẹ lo đi nghĩa vụ quốc gia, quốc tế, gởi con vào nhà trẻ cho các bà giữ trẻ, đồng lương ít ỏi, bất mãn, chanh chua, chửi tục, giáo dục con cái mình thành những thứ tinh hoa “xã hội chủ nghĩa” thì cũng đành chấp nhận. Nhà trẻ là những chiếc nôi của tuổi đời cũng như của giáo dục, thế mà các cán bộ nhà trẻ lại là những người lương ít ỏi, không thân thế, luẩn quân trong bốn bức tường chật hẹp, bao nhiêu bực dọc, bất mãn được đổ lên đầu con trẻ với những câu chửi rủa tục tằn. Lớn lên trong môi trường nói tục, vẽ tục, viết tục, thứ người được trồng lên trên mảnh đất ấy, không khá lên với lời ăn tiếng nói được. Vụ ông Giám Đốc Air Việt Nam trong lần được phóng viên Đài BBC phỏng vấn cách đây không lâu, tuy chưa phát ra tiếng chửi thề, nhưng lối ăn nói như thế cũng được người ta đánh giá là thiếu...”văn hóa”. |
Xin kể hầu quí bạn đọc câu chuyện sau đây, sáng tác của quần chúng vô danh, tiêu biểu kiểu ăn nói “bạt mạng”, nhân vật “tôi” cũng như sự việc trong chuyện đều “hư cấu” :
“Trong một dịp về Việt Nam, tôi đã đến thăm một người bạn cũ hiện nay là một cô giáo dạy văn tại một trường cấp 3 tại Hà Nội. Đối với một người ở nước ngoài về như tôi, đi tìm nhà một người quen trong thành phố này quả là khó khăn. Vào một con hẽm, tôi gặp một ông cụ đi ngược chiều, tôi lễ phép hỏi thăm nhà cô giáo Xuân, ông cụ nghễnh ngãng nghe tôi nhắc lại câu hỏi hai ba lần, ông lấy tay nghiêng một bên tai và lắc đầu trả lời tôi: “Tôi... đéo nghe ông nói gì cả!” Tôi không buồn, đi tiếp và hỏi hai đứa trẻ đang mãi chơi bên đường, chúng trả lời thẳng thừng, chẳng cần nhìn tới khách hỏi là ai: “Đéo... biết”. Cuối cùng tôi tìm ra nhà cô giáo. Sau khi thăm hỏi, trò chuyện, tôi trách cô về lối ăn nói, tự nhiên, sỗ sàng ...”đéo” có văn hóa ở khu xóm cô, và hỏi cô đã nghĩ gì trong khi cô là một nhà ... trồng người. Cô tâm sự: “Tôi đã cố hết sức tôi, nhưng học sinh... đéo nghe, nên cũng đành bó tay. Tôi kể anh nghe một chuyện, có lần, trong một bài học về dũng sĩ diệt Mỹ, tôi hỏi một học sinh định nghĩa về hai chữ “dũng sĩ”, em trả lời ngon ơ rằng “dũng sĩ là ...đéo sợ!” Trong một cuộc họp với một Thứ Trưởng về định hướng giáo dục XHCN, tôi đã đem vấn đề này than phiền với cấp trên. Hôm ấy, trước mấy trăm giáo chức có mặt trong phòng hội, ông Thứ Trưởng đã nói rằng: - Cô vừa nói học sinh cô định nghĩa về dũng sĩ, nếu chúng nói như vậy thì cũng...đéo sai. Tuy nhiên đây là vấn đề khá trăn trở với tôi, nhưng nhiều khi mình cũng... đéo biết giải quyết ra sao! Giáo dục thì. ..đéo có ngân khoản, trong khi có tiền cho tượng đài, văn phòng tỉnh huyện, khách sạn, sân golf thì ...đéo thiếu. Chính sách ...đéo nghĩ đến tương lai con em, chúng ta là cấp thừa hành,...đéo nghĩ làm gì cho nhọc xác. Tôi rất buồn và kết luận với cô giáo một câu rất ư là “cá mè một lứa”: “Tương lai đất nước như thế này thì...đéo khá cô ạ!” Huy Phương |
Có Bao Nhiêu Ngày Tận Thế Trong Lịch Sử Nhân Loại?
Không phải đến năm 2012 (họăc 2014) này, mà trong suốt lịch sử nhân loại, con người đã nhiều lần bị những phen “đứng tim” vì những tin đồn thất thiệt về cái ngày mà cả thế giới sẽ bị diệt vong hay người ta gọi đó là ngày tận thế. Cách đây hàng trăm năm, những trò đùa đến từ những quả trứng gà, chuyện sao chổi, chuyện về các UFO bay vào Trái đất hay những câu chuyện của sách Kinh Thánh, về sự tái sinh của Chúa hay những câu chuyện về thiên văn học đều có thể được thêu dệt thành điềm báo nhân loại sẽ bị hủy diệt. Tuy nhiên, rất may, thực tế những đồn đoán đó đều không trở thành hiện thực, đến năm 2012 này, chúng ta vẫn tạm an toàn khi sống trên hành tinh này và chờ đến ngày 21/12/2012 để xem những tin đồn về “ngày tận thế” có thực sự có thật? Câu chuyện về những quả trứng lạ năm 1806 Lịch sử có nhiều trường hợp đồn đoán về sự tái sinh của Chúa, điềm báo về ngày tận thế, nhưng kỳ lạ nhất có lẽ là tiên đoán về ngày tận thế ở một thị trấn nhỏ của Leeds, nước Anh, năm 1806. Tại đây, một con gà đẻ những quả trứng, trên đó có từ "Chúa tái sinh". Tin tức này lập tức lan truyền một cách mạnh mẽ, nhiều người đã tin rằng, Ngày tận thế đã sắp đến rồi. Mọi việc chỉ sáng tỏ cho đến khi chính quyền địa phương vào cuộc và phát hiện ra rằng đó là những dòng chữ do con người tạo ra. Dự đoán của William Miller năm 1843-1844 Một nông dân tên là William Miller ở New England, Mỹ, sau nhiều năm nghiên cứu Kinh Thánh, kết luận rằng thời gian Đức Chúa Trời chọn hủy diệt toàn bộ thế giới có thể suy đoán được từ ngôn ngữ của kinh thánh. Ông giải thích rằng, thế giới sẽ bị hủy diệt vào khoảng thời gian giữa 21/3/1843 và 21/3/1844. Ông đã đi truyền bá khắp nơi và xuất bản những cuốn sách về ngày tận thế, thậm chí đã lôi kéo được đến hàng ngàn người theo. Tất cả họ đã tham gia lập hội Millerites. Nhiều người trong hội đã bán hoặc cho đi tài sản của họ, vì nghĩ sẽ không cần thiết nữa. Thế rồi, ngày "tận thế" cũng qua đi mà Chúa Jesus lại không xuất hiện. Sự sống chấm dứt khi Trái đất đi qua đuổi sao chổi năm 1910 Khác với những lời đồn về sự tái sinh của Chúa, sự xuất hiện của sao chổi mang nhiều màu sắc khoa học viễn tưởng hơn. Sự xuất hiện của sao chổi Halley từng được xem là điềm báo tai họa trong suốt lịch sử. Cứ 76 năm, con người có thể nhìn thấy sao chổi này một lần. Năm 1881, một nhà thiên văn học, thông qua phân tích quang phổ đuôi sao chổi, đã phát hiện ra một khí độc gọi là Xyanogen. Phát hiện này gây lo ngại cho nhiều người vì các nhà thiên văn cho biết, Trái đất sẽ đi qua phần đuôi của sao chổi Halley năm 1910. Nhiều lời đồn đoán cho rằng, tất cả mọi người trên hành tinh sẽ hít phải khí độc và sự sống của nhân loại sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, cuối cùng, ngày tận thế cũng không đến. Tiên đoán của Cơ đốc giáo năm 1914 Được mục sư Charles Taze Russell sáng lập vào năm 1872 tại Mỹ, một phái thuộc Cơ đốc giáo là Chứng nhân Jehovah đã từng tiên đoán rằng thế giới sẽ chấm dứt vào năm 1914. Tuy nhân loại vẫn tiếp tục sống sau cột mốc trên nhưng tiên đoán này không hoàn toàn sai lầm, bởi lẽ 1914 là năm bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Những tín đồ của giáo phái này vẫn dự đoán rằng thế giới sẽ sớm đến hồi kết. |
Dự đoán của mục sư người Hàn Quốc – năm 1992
Năm 1992, một mục sư người Hàn Quốc có tên Lee Jang Rim, viết trong cuốn sách thuộc loại bán chạy “Đã đến gần ngày tận thế" (Getting Close to the End) của mình rằng: “Ngày 28/10/1992 là ngày tất cả tín đồ Ki-tô giáo đều được lên trời”, dẫn đến sự hỗn loạn trong xã hội Hàn Quốc. Ở thị trấn Wonju, một nhóm cuồng tín đã đốt đồ đạc ngoài đường phố và chờ để được Chúa đưa lên trời. Còn tại Seoul, 5.000 người bỏ việc, bán nhà, từ bỏ gia đình. Ít nhất 4 người tự sát trước ngày định mệnh. Tuy nhiên, cuối cùng cũng chẳng có chuyện gì xảy ra vào ngày đó. Sự xuất hiện trở lại của sao chổi và UFO năm 1997 Năm 1997, khi một loại sao chổi khác mang tên Hale-Bopp xuất hiện, hàng loạt tin đồn nổi lên ăn theo sự kiện thiên văn này. Trong đó, có việc dự đoán, tàu vũ trụ của người ngoài hành tinh sẽ ngụy trang và bám theo đuôi sao chổi để thâm nhập vào Trái đất và hủy diệt loài người. Lời lời đồn được củng cố khi vật thể bay không xác định (UFO) xuất hiện ở San Diego, Mỹ và được đưa tin trên báo chí. Mặc dù điều phi lí này đã được phủ nhận hoàn toàn bởi các nhà thiên văn học và NASA nhưng nó vẫn được công bố trong chương trình radio “Coast to Coast AM” của Art Bell. Tuy nhiên, một giáo phái tôn sùng UFO tại San Diego, Mỹ vẫn khẳng định chắc chắn rằng thế giới sẽ bị hủy diệt. Cuối cùng thế giới không kết thúc như dự báo và 39 người thuộc giáo phái này đã cùng nhau tự tử vào 26/3/1997, ngày sao chổi Hale-Bopp xuất hiện trên bầu trời. Băng tan, Trái đất chìm trong nước và thảm họa năm 2000 Thời khắc chuyển giao thiên niên kỉ năm 2000 là "nguồn cảm hứng" cho rất nhiều lời đồn tận thế. Trong cuốn sách “Thảm họa cuối cùng” được xuất bản năm 1997, nhà khoa học Richard Noone dự đoán ngày 5/5/2000, các hành tinh (gồm sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ cùng với mặt trời và mặt trăng) sẽ xếp thẳng hàng. Theo phân tích của ông, vào ngày đó, cả thế giới sẽ chìm trong nước vì băng tan hoặc động đất và núi lửa sẽ xảy ra khắp nơi trên Trái đất, dẫn đến sự diệt vong của loại người. Tuy nhiên, Trái Đất vẫn nguyên vẹn sau ngày 5/5/2000 đó. Dự đoán ngày tận thế theo công thức toán học năm 2011 Năm 2011, ở nước Mỹ đặc biệt là thành phố New York bỗng rộ lên tin đồn về ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 21/5/2011. |
Ông Harold Camping, 89 tuổi, Giám đốc Đài phát thanh Thiên chúa giáo và phụ trách trang web Family Radio khi đó dự đoán rằng, ngày 21/5/2011 sẽ là ngày tận thế theo một công thức toán học phức tạp từ những con số được lặp lại nhiều trong kinh thánh. Nhiều người tin vào điều này và đã tình nguyện mặc áo phông, cầm tờ rơi, áp phích đi khắp các đường phố để khuyên mọi người hãy tận dụng vài giờ còn lại.
Tuy nhiên, dự đoán của ông đã hoàn toàn sai khi ngày 21/5, Trái đất vẫn chưa “tận thế. Để "chữa thẹn" cho những đồn đoán sai của mình, ông cho biết, ông thực sự “kinh ngạc” khi ngày này qua đi mà thế giới vẫn nguyên vẹn và nói rằng, ông đã kiểm tra lại các lý thuyết mới và nói rằng Chúa đã ban phát cho con người thêm 5 tháng nữa, vì thế ngày tận thế sẽ là 21/10/2011. Thế nhưng, cho đến nay, Trái đất chúng ta vẫn chưa hề hấn gì. Ông đã vấp phải sự chế nhạo và phản đối của rất nhiều người vì những đồn đoán nhảm nhí của mình. Và theo những tin đồn gần đây nhất thì ngày 21/12 tới sẽ là ngày diệt vong của toàn nhân loại dựa theo sự kết thúc của lịch của người Maya. Đó là thời khắc mà thời đại của chúng ta sẽ kết thúc để chuyển sang một thời đại mới. Ngoài ra, dự đoán về ngày tận thế 21/12 này cũng gắn với một sự kiện thiên văn học có thật khi trái đất và mặt trời sẽ sắp thẳng hàng với tâm của dải thiên hà. Tuy nhiên, tất cả cũng vẫn chỉ là đồn đoán, cho đến nay chưa có bằng chứng khoa học cụ thể nào chứng minh những đồn đoán đó là có thật và chúng ta hãy chờ xem thực sự "ngày tận thế" có đến hay không. Đan Khanh (tổng hợp) Theo VnMedia |
Cô Lành Về Quảng Nam - Phạm Thành Châu
Cô Lành ở Mỹ về Việt Nam tìm thăm bạn cũ. Xuống máy bay ở Sài Gòn, cô đón xe ra Ðà Nẵng, mấy hôm sau, cô đi Vĩnh Ðiện, một thị trấn nhỏ, cách Ðà Nẵng vài chục cây số. Thực ra, trước đó vài ngày, cô có vô Vĩnh Ðiện, hỏi han vài người ở bến xe điều gì đó rồi cô lại về Ðà Nẵng. Lần nầy, cô đi Vĩnh Ðiện sớm. Trời còn lất phất mưa nên cô Lành phải mặc áo đi mưa trước khi xuống xe. Khi xe vừa ngừng thì những người chạy xe ôm vây quanh mời mọc. Họ nhao nhao lên với cô: "Ði mô cô? Tui đưa cô về nghe! Mời lên xe". Cô Lành nói: "Tôi là khách quen của anh Hai Tí. Thấy ảnh đâu không?" Mọi người dãn ra: "Phải Tí Kế Xuyên không? Hắn ngồi quán đằng kia kìa" Chữ "Kế Xuyên" dùng để chỉ những người nhà quê, bảo thủ, nhất là có giọng nói rặc Quảng Nam, giống như ta dùng chữ "Sịa" để chỉ dân Huế nhà quê. Tuy là Việt kiều nhưng cô Lành trông rất xập xụi. Cô mặc một bộ bà ba cũ, ngoài khoác áo đi mưa, mang đôi dép lẹp xẹp, tay cầm giỏ lác nhẹ tênh, giống các bà nội trợ, đi chợ buổi sáng về nấu ăn cho gia đình. Cô Lành theo hướng người xe thồ chỉ, đến một cái quán nhỏ, giống bất cứ quán nào ở bến xe thị trấn nghèo và vắng vẻ. Trước hiên quán là một chiếc bàn cũ với hai chiếc ghế dài. Một bình tích với bốn cái ly thủy tinh không được sạch lắm. Ngay bên trong là một cái kệ bày mấy thứ kẹo, bánh, chuối, ổi... Một người đàn ông, ngồi dựa lưng vào vách, tay cầm chiếc bánh ú, miệng nhóp nhép nhai, mắt nhìn tận đâu như đang suy nghĩ điều gì nên không thấy cô Lành bước vào. Anh ta khoảng trên 40, người cao, ốm nhưng rắn chắc, da đen thùi, xương gò má nhô cao, hai mắt sáng trưng thụt vào hốc mắt như mắt con khỉ. Anh mặc bộ đồ nhà binh của lính Cộng Hòa cũ, đã phai thành màu xám mốc. Một chiếc xe đạp thồ tựa vào vách quán. Cô Lành hỏi: "Anh chạy xe thồ phải không?" "Dạ. Cô đi mô?" "Tôi đi nhiều chỗ lắm. Anh biết Thanh Quít không?" "Nhà tui ở đó. Răng không biết?" "Thanh Quít, nhưng vô tuốt trong xa. Anh đi nổi không?" "Ăn thua chi! Lên Di Xiên tui cũng đi tới. Cô chờ cho chút nghe. Tui en xong cái bánh ni là đi liền" Anh xe thồ nhét phần còn lại của chiếc bánh ú vào mồm, trẹo trạo nhai rồi trợn mắt nuốt. Anh lấy cái bình tích rót một thứ nước vàng vàng vào ly, bưng uống cạn rồi lấy tay quẹt ngang miệng, coi như làm vệ sinh sau bữa ăn. Anh nói vọng vào trong quán: "Chập nữa quay lại tính tiền luôn nghe, chị Tư" Anh đẩy xe ra, lấy chiếc áo đi mưa gài ở yên sau mặc vào. Áo đi mưa màu xám tro, dày súc, giống như áo của lính cứu hỏa. Anh mặc ngược để tránh gió lùa vào áo. Anh lấy miếng giẻ nhét dưới yên xe lau cái yên sau cho hết nước mưa. Yên sau là một miếng gỗ lớn, có bọc nệm, làm thủ công nên trông thô kịch nhưng chắc chắn. "Mời cô lên xe. Chừ đi mô đây?" Cô Lành ngồi lên yên sau: "Anh cho tôi vô chợ Vĩnh Ðiện, mua ít quà cho người quen". "Cô ngồi rứa không được mô. Phải bỏ hai chưn hai bên, ôm tui cho chẹt. Ðường đất khó chạy lắm, ngồi rứa té bể đầu, tui mang họa". "Ôm anh, vợ anh có ghen không?" "Vợ con chi tui. Mà có vợ, hén cũng không ghen được, chiện lồm en. Ghen tương, đúa trơ mỏ" Anh xe thồ đạp ra đường cái một đoạn rồi rẽ xuống đường làng. Ðường tráng xi măng nhưng hẹp lại có người đi nên xe phải lách qua, lách lại như làm xiếc. Cô Lành thò tay vào trong áo mưa, vòng ra trước ôm bụng anh xe thồ. Chiếc xe đạp, vì bơm bánh cứng ngắt nên cứ nẩy lên từng lúc. Thỉnh thoảng xe thắng thình lình khiến ngực cô Lành ép sát vào lưng anh xe thồ. Ngực cô căng cứng. Anh xe thồ phải chạy chậm lại. Xe ngừng ở đầu chợ. Cô Lành bước xuống: "Anh chờ tôi ít phút. Anh biết chỗ nào bán cam, sữa hộp không?" Vì bị cô Lành ép ngực vào lưng mình nên anh xe thồ cố ý nhìn mặt cô Lành, nhưng cô trùm mũ áo mưa sùm sụp, chỉ thấy được hai con mắt ướt rượt, đuôi mắt kéo dài ra, rõ ràng cô đang cười bằng mắt với anh ta. "Trong ni không có cam, quít chi mô. Sữa bò hợp ở quán tê tề" |
Chợ Vĩnh Ðiện, gần Tết nên rộn rịp người mua, kẻ bán. Nông sản từ các làng lân cận đem đến. Khoai củ, gà vịt, rau quả. Ðặc biệt là rau và hoa, thứ hoa bình dân như vạn thọ, mào gà, phượng ta, cúc... khiến cho chợ rực rỡ, tươi mát, thơm tho. Có cả những cành mai của những nông dân đứng lóng ngóng đầu chợ, gặp ai cũng mời mua. Gà vịt cũng nhiều. Mấy chị đàn bà ngồi chò hỏ với mấy con gà, con vịt bị trói chân, nằm ngóc mỏ nhìn thiên hạ, vừa an phận vừa tuyệt vọng. Ai cũng đem hàng ra chợ để có chút tiền sắm Tết. Ðông khách nhất là mấy sạp vải, áo quần. Các bà, các cô lựa chọn, trả giá những mảnh vải nhiều màu sắc, những áo quần trẻ con đủ kiểu, lòe loẹt với hình những con thú, hoa lá... Cô Lành vào một tiệm tạp hóa mua mấy hộp sữa đặc. Cô tìm hàng cam, nho nhưng không thấy. Chợ nhà quê không có những hàng xa xỉ đó. Một lúc sau, cô Lành đi ra. Anh xe thồ đã trở đầu xe. Cô ngồi lên. "Chừ đi mô đây?" "Xong rồi. Anh đưa giùm tôi qua Thanh Quít"
Ðạp một lúc, anh xe thồ ngừng lại: "Hết mưa rồi. Ðể tui cởi áo mưa. Ðộp một chập nóng thố mồ hôi, hôi rình, cô chịu chi thấu". "Anh chở bồ, đổ mồ hôi, cô bồ có than hôi rình không?" "Bồ bịch chi mô. Chỉ có khách chịu trận thôi. Họ không núa nhưng tui biết". "Bộ thời đi học anh không chở bồ đi chơi sao? Ði ăn quà rong, đi về nhà hái ổi, hái me..." "Chiện xưa rồi cô ơi, nhớ lồm chi cho mệt óc". "Nhưng cô bồ của anh đâu có than hôi. Cô đó còn khen thơm nữa. Cô ta ngồi sau, hít hít cái lưng rồi khen, Thơm quá! Ðúng không?" "Cô tưởng tượng nghe cũng hay, giống tiểu thiết boa xu. Thôi, đi cho mau. Cô chỉ đường cho tôi". "Thì anh cứ chạy dọc bờ sông..." "Rồi tới mô?" "Gần hai chục năm, tôi cũng không nhớ rõ, nhưng trước nhà có cái máy bơm nước vô ruộng, có cái máng nước băng qua đường". "Năm bảy cái máy bơm nước, biết cái mô? Hễ thấy nhà, cô núa tui ngừng lại nghe! Cô đi thăm ai? Cô núa tên là tui biết liền. Tui sống ở đó từ nhỏ tới lớn. Ai tui không biết!" "Nói ra, sợ vừa đến là anh kêu rầm lên, Có khách đến thăm! thì đổ bể hết. Tôi muốn cho những người đó bất ngờ... cho vui" Xe băng qua đường cái, đổ dốc, vào đường làng. Ðường đã được tráng xi măng. Một bên là sông, với hàng tre giữ bờ, một bên là đồng ruộng, đôi chỗ cất nhà, có cả nhà ngói, có quán bán lặt vặt, vừa là tiệm tạp hóa vừa làm quán ăn. Người đi đường cũng nhiều, không giống như trước đây, chỉ thấy ruộng và cây cối hoang tàn, nhà cửa xụp xệ. Chiến tranh đã chấm dứt, người dân không còn sợ bom đạn tàn phá nên đã chú tâm vào việc dựng lại nhà cửa cho khang trang. Anh Tí chăm chỉ đạp một lúc, không biết cô Lành muốn đến đâu nên nghi ngờ: "Không chỉ chỗ mô, tui đạp miết, cô phải trỏa nhiều tiền, thiệt hại cô thôi". "Ôm anh kiểu nầy, anh không thấy thích sao? Nghề của anh, khi chở các cô, coi bộ anh khoái lắm. Phải không?" "Tội nghiệp tui, cô ơi! Ðộp mệt thấy mẹ, sướng ích chi? Kiếm mấy đồng sống qua ngày". "Anh sống với ai?" "Có bòa mẹ. Mà nuôi không nổi. Bữa cơm, bữa chố!" "Anh cứ đạp từ từ. Tôi không gấp. Khi chở khách, anh có nói chuyện với khách không?" "Ðộp gần thì cũng núa mấy câu. Ði xa, thở bèng mũi, bèng miệng. Khi lên dốc phải nín thở mà độp, thố mồ hôi hột. Về nhòa chưn tay rõa rời. Có chi vui mô mà chiện trò!" "Bây giờ anh cứ tưởng tượng đang chở cô bồ sau lưng, thong thả đưa người đẹp ngắm cảnh, ăn quà rong... Anh sẽ không thấy mệt" Anh xe thồ bỗng ngưng xe bên vệ đường, giọng nghiêm trang: "Tui chạy xe thồ kiếm mấy đồng chớ không chở bồ bịch chi hết. Chở bồ thì không lấy tiền công. Mà tui với cô có quen biết chi mô? Cô muốn bồ cô chở khỏi trả tiền thì mời cô xuống đây. Tui ăn cục núa hòn. Thà mất lòng trước được lòng sau. Ði mô cô không núa, lại ôm tui cứng ngắt, còn núa chiện bồ bịch. Lồm như tui ở không chở cô đi chơi..." Cô Lành không giận còn đập tay lên lưng anh xe thồ một cách thân mật, cô cười mà nước mắt ứa ra, từ từ chảy xuống má. Cô móc khăn ra chùi nước mắt, khịt mũi và nói: "Tôi thuê anh từ giờ nầy đến 4 giờ chiều, anh đưa tôi ra lại bến xe về Ðà Nẵng. Anh tính bao nhiêu, tôi trả tiền trước. Anh yên tâm chưa?" Anh xe thồ dịu giọng: "Cô núa nhòa ai, tui đưa cô tới. Xin lỗi cô. Tính tui không thích núa chiện trai gái. Tui... bậy quá. Núa chộm tự ái cô" |
Cô Lành ngồi im, không trả lời. Cô liếc nhìn anh xe thồ rồi ôm mặt khóc. Cô khóc ngon lành như cô bé bị mẹ mắng oan. Anh xe thồ bối rối. Anh không biết phải làm gì, đành vịn chặt chiếc xe cho cô ngồi khóc thoải mái. Cô khóc một lúc thì chùi nước mắt, giọng tỉnh rụi: "Hễ đạp gần đến nhà nào phía trước đường có cái máy bơm nước, dưới đường có máng dẫn nước vô ruộng thì anh nói tên người chủ nhà đó. Bây giờ cảnh vật thay đổi hết rồi. Ruộng nương đã thành nhà cửa... Xin lỗi anh, tôi khóc không phải vì bị anh rầy la mà tôi thương những người thân yêu của tôi quá!"
Anh xe thồ quay nhìn trộm cô Lành. Anh nhíu mày suy nghĩ rồi quả quyết: "Chừ ri. Tui chở cô đi dọc bờ sông. Ðến cuối đường, là chỗ con đường ni quẹo vô xóm trong, cua như hết con đường bờ sông, mà cô không tìm ra nhòa người thân của cô thì tui chở cô về lại bến xe để cô về Ðòa Nẻn. Tiền công thì tui tính như với người khoác. Chẻn thiệt hại tui mà cũng chẻn thiệt hại cô. Cô ngồi vịn cho chẹt nghe!" "Dọc đường anh biết được nhà ai thì nói tên chủ nhà đó. Như vậy tôi sẽ nhớ ra. Biết đâu cái máy bơm nước dời chỗ khác hoặc nhà tôi muốn tìm đã sửa sang, xây cất lại... Anh cứ đạp từ từ" Anh xe thồ bắt đầu nói tên những nhà nào mà anh biết. Ðộ nửa giờ, khi qua một cái máy bơm nước, anh làm như không biết tên chủ nhà, đạp qua luôn. Nhưng cô Lành đã đập tay lên lưng anh xe thồ: "Anh dừng lại để tôi hỏi thăm. Nhà nầy coi bộ đúng rồi". Cô xuống xe, xăm xăm đi đến một ngôi nhà lợp tôn coi bộ nghèo khổ hơn các nhà khác. Anh xe thồ vội đạp xe chạy ngược lại, dùng chiếc xe làm rào cản, không cho cô Lành bước vào. "Cô biết nhòa ai đây mà cô dốm bước vô? Nhòa công oan. Họ bắt nhốt cô bây chừ!" Cô Lành nhìn anh xe thồ cười: "Anh dấu em đâu có được. Em thấy là nhận ra ngay. Bộ anh không muốn em đến thăm bác sao?" Vừa lúc một người đàn bà từ trong nhà đi ra, tay cầm cái chổi, có lẽ để quét sân. Bà ta khoảng trên 60 tuổi. Cô Lành đẩy chiếc xe đạp của anh xe thồ qua một bên, bước vào sân và kêu lên: "Thưa bác. Bác còn nhớ con không?" Cô Lành kéo mũ áo đi mưa đang trùm đầu xuống, hai tay vịn lên vai người đàn bà, nhìn bà, miệng cười vui mừng và chờ đợi. Người đàn bà nhìn chăm chăm cô Lành: "Ai ri hè? Cua quen quen". "Con là con Lành đây nè. Bác nhớ ra chưa. Lâu quá! Mấy chục năm rồi..." Người đàn bà sững sờ, miệng mấp máy: "Trời đất! Lành đây hả con? Răng cua khoác quá! Nhưng boác cũng nhớ được. Con vô nhòa!" Bà ta mừng đến độ lúng túng, lập cập: "Vô nhòa, con. Trời đất ơi! Mấy chục năm mới gặp lại con. Răng, hai đứa gặp nhau ở mô mà chở nhau về đây? Ngồi đây con. Ở lại chơi, chiều về, nghe con. Hiện nay con ở mô? Chồng con ra răng? Lồm en có khá không? Núa cho boác mừng" |
Người đàn bà kéo cô Lành ngồi xuống bộ phản cũ sì, sứt mẻ, trầy trụa. Bà nói một hơi rồi nhìn cô Lành: "Choa mi! Gần hai chục năm chớ ít ỏi chi. Con ở mô mà boác bét anh Tí con roa Ðòa Nẻn tìm không thấy!" Cô Lành cúi mặt xuống, giọng giận lẫy: "Ðể đó mà ảnh tìm. Lúc nãy, gặp con ở bến xe, ảnh không thèm nhìn con. Con phải làm bộ thuê ảnh chở đi tìm người quen. Ði ngang qua nhà bác, ảnh chạy luôn. Bác nghĩ, có đáng giận ảnh không? Bác còn nhớ, lúc ảnh bị thương, nằm ở bịnh viện Duy Tân, con vô thăm ảnh, săn sóc ảnh. Vậy mà khi xuất viện về, con về đây thăm ảnh, ảnh nói đừng đến thăm nữa. Tôi sắp cưới vợ rồi. Từ đó con từ ảnh luôn, không đến đây nữa. Bác nghĩ coi. Tình nghĩa chi!"
Người đàn bà gọi "Tí! Dô biểu cua". Anh xe thồ, tên Tí, nãy giờ đứng lóng ngóng trước sân, bèn bước vô, ngồi xuống ghế, không nhìn cô Lành. "Răng con núa có vợ cho em con không đến đây nữa?" Anh Tí ngập ngừng: "Thương phế binh, nuôi cái miệng không đủ, đèo bồng vợ con cho khổ lây. Con núa rứa cho cổ không tới nữa. Mà chắc chi gioa đình cổ chấp nhận thèng thương phế binh. Phải biết thân phận mình chớ" Cô Lành thút thít khóc: "Ảnh bỏ con đành đoạn. Trước đó ảnh viết thư nói thương con. Ảnh còn hỏi ý kiến con, bảo con thưa với ba má con, ảnh xin về phép, đưa bác ra Ðà Nẵng thăm gia đình con rồi xin làm đám hỏi, đám cưới, con có chịu không? Vậy mà chỉ mấy tháng sau, sau khi bị thương, ảnh bỏ con. Chắc có bồ rồi phản bội con. Bỏ mồi bắt bóng. Rồi bị cô bồ đá cho. Ðáng kiếp!" "Thiệt. Cái thèng! Mà xưa nay hén có bồ bịch, vợ con chi mô? Thôi bỏ qua chiện đó đi. Chừ con ở lại en cơm với gioa đình boác. Tí, ngồi núa chiện với em. Mẹ ra sau bứt mớ rau nấu miếng canh, en cho moát rụt". "Khỏi nấu nướng chi cho tốn công, bác. Lúc nãy ngang qua đằng kia, con thấy có gánh mì Quảng, nhờ anh Tí đạp xe đi mua cho tiện. Con về đây thèm mì Quảng" Người đàn bà móc túi đưa cho anh Tí mấy tờ bạc: "Con mua boa tô, mượn luôn tô, chập nữa đem trỏa" Cô Lành lấy mấy hộp sữa đặt trên bàn rồi đưa cái bị cói cho anh Tí đi mua mì. Mẹ anh Tí ngồi nói chuyện với cô Lành một lát thì xuống bếp nấu nước pha trà. Cô Lành ngồi ở nhà trên, vén áo mở cái túi nhỏ đeo trước bụng lấy ra một phong bì, trong đó có một xấp tiền và một lá thư. Cô đọc lá thư, ngẫm nghĩ một lúc, gạch xóa, viết thêm mấy dòng, bỏ lại vào phong bì, cô le lưỡi liếm mép phong bì, dán lại rồi đem xuống bếp, đưa cho mẹ anh Tí: "Ðây là lá thư con gửi anh Tí, khi nào con về rồi bác mới đưa cho ảnh" Cô ôm mẹ anh Tí và khóc: "Con thấy ảnh khổ con đứt ruột. Lúc nãy ảnh chở con, con ngồi sau, ôm ảnh, thấy xương với da, lại nghe ảnh vừa đạp xe vừa thở dốc, con khóc một trận. Con biểu ảnh đạp chậm chậm, coi như chở bồ đi chơi, cho đỡ mệt, vậy mà ảnh cự con, ảnh nói chở bồ không lấy tiền công. Ảnh chạy xe thồ, chở đi thì phải trả tiền công. Không biết ảnh có nhận ra con không mà không nghe ảnh nói với con được một tiếng dịu dàng. Chắc ảnh không còn thương con, không nhìn mặt con nữa. Phải không bác?" |
Mẹ anh Tí vuốt tóc cô Lành, thở dài: "Hén không thương con thì thương ai? Hén thấy mình nghèo khổ quá nên gặp boạn bè, hén cũng giỏa lơ. Con về ghé thăm gioa đình boác rứa là quí rồi. Chừ thì đường ai nấy đi. Con cũng phải lo cho gioa đình con. Con thương hén, nhưng con phải giữ cái đức hạnh của người đàn bòa, phải bổ vệ hạnh phúc gioa đình con..." "Con đâu có chồng con chi. Ðời con, chỉ thương có mình anh Tí. Nay con về tìm thăm ảnh, tưởng ảnh đã lập gia đình rồi, không ngờ ảnh chưa có chi hết, con mừng lắm. Giả dụ như ảnh không còn thương con nữa, con cũng quyết không để ảnh với bác phải khổ đâu. Con nói điều nầy, bác khoan nói cho anh Tí biết, là con hiện ở bên Mỹ, con còn độc thân, con đi làm, không gọi rằng giàu nhưng lương khá lắm. Nếu ảnh tự ái không nhận sự giúp đỡ của con thì con gửi tiền giúp bác. Trường hợp ảnh còn thương con thì nhờ bác nói giùm con với ảnh. Con không lấy chồng vì thương ảnh, nếu ảnh không chịu cưới con thì con nhất định làm gái già chứ không lập gia đình với ai hết. Nhờ bác nói giùm con nghe bác. Hay là bác nói, ảnh không thương con cũng được nhưng phải cưới con để con về phụ với ảnh săn sóc bác, bác đã lớn tuổi rồi, bác cần một người đàn bà săn sóc khi bác ốm đau, bịnh hoạn. Thỉnh thoảng bác nói một câu, lâu ngày ảnh sẽ nghĩ lại"
Mẹ anh Tí đẩy cô Lành ra, nhìn cô và trầm trồ: "Chu choa, con là Việt kiều hả? Reng en mẹc nghèo khổ rứa? Boác cũng không ngờ. Con lồm rứa là con biết ý thèng Tí. Con mà xưng Việt kiều, hén không tiếp con mô". "Bởi vậy con mới ăn mặc như thế nầy. Bác cất lá thư đi, khi con về rồi thì đưa cho ảnh nghe bác. Thấy bác còn mạnh khỏe, con mừng lắm". "Hai boác, anh chị em con, còn ai ở đây không? Hai boác có mạnh khỏe không?" "Dạ, qua hết bên Mỹ rồi. Cám ơn bác, ba mẹ con vẫn khỏe. Ba mẹ con cứ thắc mắc, tại sao, hai đứa con, con với anh Tí, tự nhiên chia tay? Con không biết trả lời sao! Bác dọ ý ảnh, khi nào ảnh xiêu lòng thì bác nói ảnh chuẩn bị cho con một số giấy tờ. Khai sinh, bản sao hộ khẩu, chứng minh nhân dân của ảnh và của bác. Qua Mỹ, con làm giấy tờ gửi về ảnh, biểu ảnh ra dịch vụ cho họ làm giấy tờ hôn thú. Bác cứ nói đại khái. Lần sau con về sẽ lo tiếp". "Nhưng con phải núa trực tiếp với hén..." "Dạ, lát nữa ảnh về con sẽ nói với ảnh" Hai người đàn bà tâm sự với nhau một lúc thì anh Tí đem mì Quảng về. Ăn uống xong, mẹ anh Tí giành phần dọn dẹp, ra sau bếp rửa chén bát, còn lại cô Lành và anh Tí ngồi ở nhà trên. Anh Tí rót nước trà mời cô Lành: "Mời cô!" Cô Lành chống cằm nhìn anh Tí: "Anh không kêu em được hay sao? Có gì mà coi bộ anh giận em dữ lắm?" Anh Tí ngồi nhìn ra đường: "Lâu quá không gặp, thấy lọa, nên ngại, chứ chẳng có chi giận hờn". "Sao lúc chở em, anh nạt nộ em, làm em sợ anh". "Ðâu biết. Tưởng người lọa. Ðời mô tui nhìn đàn bòa, con gái" Cô Lành mở to mắt, nhìn sát mặt anh, thì thầm hỏi: "Có phải anh bị thương rồi có chuyện gì xảy ra cho thân thể anh không mà anh không thèm nhìn đàn bà, con gái?" Anh Tí bưng ly nước uống: "Chỉ bị thương cánh tay, bất khiển dụng ở tay, chớ có chi thay đổi mô! Ai cũng thay đổi hết, chỉ mình tui. Ðời ni là rứa đó!" "Vậy là em biết tại sao anh giận em rồi. Anh tưởng em thay lòng đổi dạ. Ðã có chồng hay ít ra cũng bồ bịch tùm lum. Phải không?" "Tui đâu dốm. Ai muốn nghĩ răng thì nghĩ. Có tật giựt mình" Cô Lành thò tay qua, đăït bàn tay mình lên cánh tay anh Tí, vừa dịu dàng vừa bạo dạn: "Em Lành của anh vẫn lành lặn như xưa. Em sẽ chứng minh cho anh thấy. Em để dành cho riêng anh thôi. Lúc nào anh muốn cũng được" Anh Tí quay nhìn cô Lành mắt trợn lên kinh ngạc nhưng coi bộ hết giận: "En núa kiểu chi? Học mô roa?" "Bây giờ anh nói thật cho em rõ. Trước đây, vì sao anh nói anh sẽ có vợ, đừng đến nữa? Anh có biết, anh nói câu đó mà em bịnh một tháng, khóc hết nước mắt...?" "Thân trai trỏa xong nợ nước, tàn phế, nuôi thân không xong, lấy chi nuôi vợ con? Cũng may cho cô. Cô lấy tui, sau bảy lăm, làm răng nuôi chồng trong tù, nuôi con, nuôi mẹ? Ngay bây chừ, cô nhìn nhòa tui đây, trống trước, trống sau, gộ không đủ nấu. Cô ở được mấy bữa?" Cô Lành bóp chặt cánh tay anh Tí: "Chuyện đó để em lo. Em chỉ hỏi anh. Anh còn thương em không? Mà không còn thương em, em cũng chấp nhận nữa. Miễn là anh cho em được thương anh, để em được gần anh, gần mẹ, săn sóc cho mẹ. Khi anh đi lính, em thường đến thăm mẹ. Mẹ coi em như con nên em cũng coi như mẹ ruột. Sau nầy, mẹ sẽ già yếu, anh là con trai, làm sao săn sóc cho mẹ được?" Anh Tí yên lặng, rót nước uống rồi nói: "Thôi được! Nhưng cô chờ cho tuần sau, khi tui xây lại nhòa ni thành nhòa lầu, sắm một cái TV màu, một chiếc Hon đoa mới tinh... rồi tui roa Ðòa Nẻn đón cô về". "Bộ anh hóa phép màu hay sao?" "Phép tét chi! Tui trúng độc đét, chi không có! Tuần ni không trúng thì tuần sau, tuần sau nữa. Cô cứ chờ, chớ tui đâu có phụ rảy chi cô. Chờ tới khi tui già, cô già, rồi chết là xong. Cô núa chiện trên trời! Trừ khi cô là triệu phú thì họa may. Nhưng cô giàu có, thì tui thòa chết còn hơn là nhờ cô". "Anh cũng bị tù cải tạo sao không đi diện HO?" "Tui đi tù. Bịnh sắp chết, chúng cho khiêng về chôn. Không biết răng, tự nhiên hết bịnh. Chưa đủ boa năm". "Bây giờ em lo được giấy tờ để anh và mẹ qua Mỹ. Anh nên vì em, vì mẹ mà đi Mỹ. Nghe anh!" "Lồm giấy tờ giỏa mộ chỉ có đi tù chớ đi Mỹ chi!" "Nhưng em làm giấy tờ hợp pháp, anh có đi không?" "Dại chi không đi. Nhưng tiền bọac, chi phí tính răng?" "Qua Mỹ, anh làm có tiền, trả lại em". "Nhưng có chiện chi, tui không đi tù lần nữa đâu. Tui ngán đi tù rồi". "Bảo đảm với anh không sao đâu. Miễn anh ừ một tiếng thì em lo xong ngay. Ừ đi anh!" "Tui biết cô chẻn lồm được chi mô, nhưng tui cũng ừ cho cô vui lòng". "Nhớ nghe! Hứa là phải giữ lời. Anh nhớ lúc còn đi học, mỗi khi anh và em hứa với nhau điều gì, mình thường ngoéo tay nhau. Bây giờ mình cũng ngoéo tay đi anh". "Thôi thôi, giòa đầu rồi, đừng lồm trò trẻ!" Anh Tí lại làm nghiêm, cô Lành thì tìm cách sao cho anh ta cười. Cô biết tính anh Tí, nên không lấy đó làm buồn. Cô chợt hỏi: "Con Hạnh còn ở bên nhà không?" "Hén có đi mô! Giờ ni chéc hén về rồi. Hén lồm bánh bông loan bỏ mối ngoài chợ Vĩnh Ðiện và mấy tiệm en, quán nước. Ðể tui qua cua thử" |
Khi anh Tí qua nhà cô Hạnh thì cô Lành lại kéo áo mở cái túi đeo trước bụng, móc ra một tờ trăm đô, xếp nhỏ lại bỏ vào túi. Ðây là quà cô dành cho cô bạn tên Hạnh, cũng là hàng xóm của anh Tí. Chỉ 5 phút sau, cô Hạnh theo anh Tí đi vào. Anh Tí hỏi: "Mi biết ai đây không?" Cô Hạnh nhìn cô Lành, tần ngần một lúc rồi nói: "Ai ri hè? Coi giống con Lành! Phải mi là con Lành không mi?" Cô Lành đứng lên cười cười: "Cho nói lại lần nữa. Cố nhớ coi!" Cô Hạnh la to lên: "Tổ cha mi! Mi là con Lành chớ ai vô đây?" Hai cô nhào vô, ôm nhau. Cô Hạnh ứa nước mắt: "Mấy chục năm ni mi đi mô? Tao bắt ông Tí đi tìm mi mà không biết mi đi mô?!" Rồi cô Hạnh cười: "Tính tao hay khóc. Gặp mi tao mừng quá!" "Bộ mi khóc mừng gặp lại tao không đáng mấy giọt nước mắt sao mi tiếc. Ðừng làm như ông Tí. Gặp tao không thèm nhìn, còn nạt nộ tao nữa". "Ông đó tàng tàng. Ðừng thèm để ý. Chừ mi qua nhà tao chơi. Ở lại với tao, mai về được không? Hay là sợ heo kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem mà đòi về sớm?" "Chồng con chi tao! Cầu cho có người đòi tòm tem mà người ta không thèm"
Cô Lành nói với anh Tí: "Anh Tí chờ em qua nhà Hạnh rồi về ngay nghe. Em cần nói với anh chuyện nầy" Cô Lành qua nhà cô Hạnh. Nhà vắng người. Hai cô ngồi trên giường. Cô Hạnh thò tay bóp bóp đùi cô Lành rồi dòm quanh người cô Lành: "Coi bộ còn năng gớm. Ngực cũng ngon, đùi, mông tròn vo. Mi chưa chồng con là đúng. Mi coi tao, chỗ nào cũng nhão nhẹt!" "Bộ không có ai ở nhà sao mi ăn nói tự do quá vậy?" "Ông xã tao đi làm, hai đứa con đi học. Khỏi lo! Cứ nói cho sướng miệng. Nhớ hồi còn đi học không? Mấy đứa con gái tụi mình, tụm năm, tụm ba ở nhà tao, ăn me, ăn ổi rồi nói tầm bậy tầm bạ... Sướng thiệt! Chừ khổ quá. Bao lâu nay, gặp được mi tao mới có dịp nói bậy". " Bộ có chồng, mi không nói bậy với chồng được hay sao?" "Có nói chớ, nhưng nói chuyện khác. Chờ ổng nói trước, mình nói theo. Mi lấy chồng thì biết liền. Ủa, trước giờ mi đi đâu mà chưa chồng con chi cả? Mi lấy ông Tí đi, ổng cũng còn độc thân. Ngó rứa chớ ổng còn thương mi lắm. Mà mi chịu ổng không? Già rồi mi ơi. Tối ngủ ôm cái gối, sướng ích chi!" "Năm bảy tư, gia đình tao từ Vĩnh Ðiện dời ra Ðà Nẵng, năm bảy lăm, bỏ Ðà Nẵng đi luôn. Tao cũng thương ảnh lắm chớ! Nhưng không biết ảnh nghĩ sao? Ảnh lầm lì với tao từ sáng tới giờ". "Mi biết tính ổng rồi. Ổng cố chấp lắm. Giọng Kế Xuyên quê đặc mà ổng đâu chịu sửa. Ổng muốn làm mặt lạ vì ổng mặc cảm mình đạp xe thồ, mặc cảm nhà nghèo. Mi thấy đó, Tết nhứt đến nơi mà nhà ổng có sắm sửa, chuẩn bị chi đâu! Ổng nghĩ như thời xưa, lấy vợ là phải nuôi vợ con, ổng sợ thêm miệng ăn nữa thì chết! Hơn nữa tao nghĩ, có lẽø ổng nghi mi đã lấy chồng hay bồ bịch gì đó, ổng tức mà không biết nói răng. Nhưng tao biết, ổng thương mi lắm. Mi còn nhớ, khi ổng bị thương về nhà, mi ghé thăm, không biết mi với ổng có chuyện chi mà ổng qua nhà tao ngồi khóc ngon lành. Ổng nói mi bỏ ổng rồi. Coi bộ cứng rắn, lạnh lùng chớ ổng cũng mít ướt như tụi mình chớ chẳng hơn chi". "Mi cố nói giùm tao, sao cho ảnh chịu lấy tao, thì mi có cái đầu heo". "Mi yên tâm, để tao lo chuyện đó, ổng là của mi, chắc ăn như lấy đồ trong túi. Ngó rứa chớ tao nói là ổng nghe lời liền. Ổng coi tao như bạn thân, có gì cũng kể cho tao nghe". "Có khi nào ảnh nhắc đến tao không?" "Tao có hỏi còn nhớ Lành không? Ổng nói. Không nhớ Lành thì nhớ ai? Có lẽ bây chừ Lành đã có chồng, có con rồi" Cô Lành móc túi lấy tờ bạc đã xếp nhỏ, bỏ vào túi cô Hạnh: "Tao gửi mấy đồng cho hai cháu. Bây giờ tao phải về". Cô Hạnh nghĩ rằng bạn cho mình tờ một tờ bạc Việt Nam nên chỉ nói cám ơn mà không quan tâm". "Ủa. Mi nói sẽ ở lại với tao mà? Ở lại, tối nay nằm nói chuyện với nhau cho đã". "Rồi chồng mi nằm đâu?" "Ðừng lo chuyện đó. Tao tống ổng ra ngoài phản. Hay là mi qua nằm với ông Tí, tâm sự trắng đêm, cho đã thèm bấy lâu nay". "Ðồ quỉ sứ, nói chuyện bậy bạ. Ðể tao về. Ở lại đây, đêm hôm, giấy tờ, trình thưa, tao không muốn phiền mi" |
Khi anh Tí qua nhà cô Hạnh thì cô Lành lại kéo áo mở cái túi đeo trước bụng, móc ra một tờ trăm đô, xếp nhỏ lại bỏ vào túi. Ðây là quà cô dành cho cô bạn tên Hạnh, cũng là hàng xóm của anh Tí. Chỉ 5 phút sau, cô Hạnh theo anh Tí đi vào. Anh Tí hỏi: "Mi biết ai đây không?" Cô Hạnh nhìn cô Lành, tần ngần một lúc rồi nói: "Ai ri hè? Coi giống con Lành! Phải mi là con Lành không mi?" Cô Lành đứng lên cười cười: "Cho nói lại lần nữa. Cố nhớ coi!" Cô Hạnh la to lên: "Tổ cha mi! Mi là con Lành chớ ai vô đây?" Hai cô nhào vô, ôm nhau. Cô Hạnh ứa nước mắt: "Mấy chục năm ni mi đi mô? Tao bắt ông Tí đi tìm mi mà không biết mi đi mô?!" Rồi cô Hạnh cười: "Tính tao hay khóc. Gặp mi tao mừng quá!" "Bộ mi khóc mừng gặp lại tao không đáng mấy giọt nước mắt sao mi tiếc. Ðừng làm như ông Tí. Gặp tao không thèm nhìn, còn nạt nộ tao nữa". "Ông đó tàng tàng. Ðừng thèm để ý. Chừ mi qua nhà tao chơi. Ở lại với tao, mai về được không? Hay là sợ heo kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem mà đòi về sớm?" "Chồng con chi tao! Cầu cho có người đòi tòm tem mà người ta không thèm"
Cô Lành nói với anh Tí: "Anh Tí chờ em qua nhà Hạnh rồi về ngay nghe. Em cần nói với anh chuyện nầy" Cô Lành qua nhà cô Hạnh. Nhà vắng người. Hai cô ngồi trên giường. Cô Hạnh thò tay bóp bóp đùi cô Lành rồi dòm quanh người cô Lành: "Coi bộ còn năng gớm. Ngực cũng ngon, đùi, mông tròn vo. Mi chưa chồng con là đúng. Mi coi tao, chỗ nào cũng nhão nhẹt!" "Bộ không có ai ở nhà sao mi ăn nói tự do quá vậy?" "Ông xã tao đi làm, hai đứa con đi học. Khỏi lo! Cứ nói cho sướng miệng. Nhớ hồi còn đi học không? Mấy đứa con gái tụi mình, tụm năm, tụm ba ở nhà tao, ăn me, ăn ổi rồi nói tầm bậy tầm bạ... Sướng thiệt! Chừ khổ quá. Bao lâu nay, gặp được mi tao mới có dịp nói bậy". " Bộ có chồng, mi không nói bậy với chồng được hay sao?" "Có nói chớ, nhưng nói chuyện khác. Chờ ổng nói trước, mình nói theo. Mi lấy chồng thì biết liền. Ủa, trước giờ mi đi đâu mà chưa chồng con chi cả? Mi lấy ông Tí đi, ổng cũng còn độc thân. Ngó rứa chớ ổng còn thương mi lắm. Mà mi chịu ổng không? Già rồi mi ơi. Tối ngủ ôm cái gối, sướng ích chi!" "Năm bảy tư, gia đình tao từ Vĩnh Ðiện dời ra Ðà Nẵng, năm bảy lăm, bỏ Ðà Nẵng đi luôn. Tao cũng thương ảnh lắm chớ! Nhưng không biết ảnh nghĩ sao? Ảnh lầm lì với tao từ sáng tới giờ". "Mi biết tính ổng rồi. Ổng cố chấp lắm. Giọng Kế Xuyên quê đặc mà ổng đâu chịu sửa. Ổng muốn làm mặt lạ vì ổng mặc cảm mình đạp xe thồ, mặc cảm nhà nghèo. Mi thấy đó, Tết nhứt đến nơi mà nhà ổng có sắm sửa, chuẩn bị chi đâu! Ổng nghĩ như thời xưa, lấy vợ là phải nuôi vợ con, ổng sợ thêm miệng ăn nữa thì chết! Hơn nữa tao nghĩ, có lẽø ổng nghi mi đã lấy chồng hay bồ bịch gì đó, ổng tức mà không biết nói răng. Nhưng tao biết, ổng thương mi lắm. Mi còn nhớ, khi ổng bị thương về nhà, mi ghé thăm, không biết mi với ổng có chuyện chi mà ổng qua nhà tao ngồi khóc ngon lành. Ổng nói mi bỏ ổng rồi. Coi bộ cứng rắn, lạnh lùng chớ ổng cũng mít ướt như tụi mình chớ chẳng hơn chi". "Mi cố nói giùm tao, sao cho ảnh chịu lấy tao, thì mi có cái đầu heo". "Mi yên tâm, để tao lo chuyện đó, ổng là của mi, chắc ăn như lấy đồ trong túi. Ngó rứa chớ tao nói là ổng nghe lời liền. Ổng coi tao như bạn thân, có gì cũng kể cho tao nghe". "Có khi nào ảnh nhắc đến tao không?" "Tao có hỏi còn nhớ Lành không? Ổng nói. Không nhớ Lành thì nhớ ai? Có lẽ bây chừ Lành đã có chồng, có con rồi" Cô Lành móc túi lấy tờ bạc đã xếp nhỏ, bỏ vào túi cô Hạnh: "Tao gửi mấy đồng cho hai cháu. Bây giờ tao phải về". Cô Hạnh nghĩ rằng bạn cho mình tờ một tờ bạc Việt Nam nên chỉ nói cám ơn mà không quan tâm". "Ủa. Mi nói sẽ ở lại với tao mà? Ở lại, tối nay nằm nói chuyện với nhau cho đã". "Rồi chồng mi nằm đâu?" "Ðừng lo chuyện đó. Tao tống ổng ra ngoài phản. Hay là mi qua nằm với ông Tí, tâm sự trắng đêm, cho đã thèm bấy lâu nay". "Ðồ quỉ sứ, nói chuyện bậy bạ. Ðể tao về. Ở lại đây, đêm hôm, giấy tờ, trình thưa, tao không muốn phiền mi" |
Hai người qua nhà anh Tí. Cô Lành xuống bếp ôm mẹ anh Tí, thì thầm: "Bác nói giùm con, nghe bác. Tuần sau con về lại đây. Bác nhớ lo cho ảnh ăn uống, ảnh ốm quá, con thương ảnh quá!" "Choa mi! Tao cũng đưa xương mà mi chỉ nghĩ đến hén, bét tao lo cho hén"
Cô Lành cười chống chế: "Thì bác cũng thương ảnh, thương con. Bác muốn con với ảnh yên tâm thì bác cũng phải ăn uống cho đầy đủ. Thôi, con về nghe bác" Cô tựa đầu vào vai bà như cô bé làm nũng với mẹ: "Con muốn kêu bác bằng mẹ mà sợ anh Tí rầy con". "Hén quyền chi mà rầy con?" *** Anh Tí đã đưa xe đạp ra sân, ý muốn cô Lành về sớm. Cô Lành qua chào từ giã cô Hạnh rồi bước ra, ngồi sau xe, vòng tay ôm bụng anh Tí và nói với cô Hạnh: "Mi thấy, ai đi xe thồ cũng ôm eo ảnh. Tao ôm thì ảnh cự, nói sao ôm cứng ngắc". "Ổng cự mặc kệ ổng. Cứ ôm chặt cho tao. Ôm ngày ôm đêm, ổng cự riết rồi khoái chí, bắt mi ôm nữa". "Con quỉ nói trây! Tao về nghe!" Cô Hạnh vui vẻ la to lên: "Không về thì đứng xuống, khó chi! Ê! Có phải hai anh chị hẹn hò, đưa nhau vô phòng ngủ không?" Hai cô lại cười như bị thọt lét. Cô Lành ngoái cổ lại nói "Mi thành nái xề rồi mi ơi! Nói trây không biết mắc cỡ!" Anh Tí làm thinh, đạp xe ra đường. Cô Lành ngồi sau, ôm eo, tựa đầu vào lưng anh ta. Anh Tí bực mình: "Ðừng lồm rứa, người ta thấy tề!" "Thời đi học, anh chở em đi chơi, em cũng ôm như thế nầy, sao anh không la em?" "Ði học khoác, đi xe thồ khoác. Hồi trước là quê hương, đất nước mình, lồm chi không được. Chừ, lồm thân mất nước, vui thú chi" Cô Lành không ôm anh Tí nữa, sụt sùi khóc: "Sao anh khó với em vậy?" Anh Tí yên lặng một lúc rồi thở dài: "Xin lỗi. Tui buồn quá! Mất nước rồi. Buồn suốt đời. Biết ngày nồ mới vui được? Tôi chỉ sống qua ngày để nuôi mẹ giòa, sướng ích chi mà nghĩ đến vợ con. Con cái ngụy lớn lên cũng chỉ để chúng ngồi lên đầu, hành họa, coi như trâu ngựa. Ði học chúng cũng không cho, đi lồm chúng cũng không cho". Cô Lành lại vòng hai tay, ôm bụng anh Tí: "Bây giờ có em, em phụ với anh nuôi mẹ. Anh hãy quên chuyện nước nhà, mà nghĩ đến em. Anh có suy nghĩ, buồn phiền bao nhiêu cũng không làm được gì. Vận nước nó như vậy nhưng cũng sẽ đến ngày tươi sáng. Anh đã chiến đấu, đã bị thương thì coi như nợ nước anh đã trả rồi, nay anh có quyền nghĩ đến tình nhà. Bây giờ em về đây tìm anh. Anh và em, trước đây, có biết bao kỷ niệm. Anh có biết khi anh bảo em về, đừng đến anh nữa vì anh sắp lấy vợ, em khóc hết nước mắt. Em giận anh nhưng quyết làm gái già chứ không thèm để mắt đến ai cả. Anh có thương em không?" Anh Tí yên lặng, đặt bàn tay trái, bàn tay bất khiển dụng của anh lên hai tay cô Lành đang ôm bụng anh. Anh bóp tay cô Lành, nhưng bàn tay thương tật nên chỉ mấy ngón tay là cử động nhẹ. Cô Lành ép hai bàn tay mình lên bàn tay anh Tí, dụi đầu vào lưng anh Tí: "Bây giờ còn sớm, mình dừng ở quán nước đằng kia. Em nói chuyện nầy anh nghe" |
Người Việt “Năm bờ oan” - Chu Tất Tiến
Thật đấy, nói “Người Việt Năm Bờ Oăn” không sai tí nào! Hồi Tư tôi còn ở quê, đọc thư bạn bè, bà con từ Mỹ gửi về, cứ tả oán là “Câm, Què, Đui, Điếc”, không biết nói tiếng Anh là câm, không biết đi xe là què, không biết chữ là đui, không nghe được gì là điếc. Mỹ gọi thì chỉ biết “Dét, Sơ”, lâu lâu nói lộn thành “Nô, Sơ!”, ngoài ra thì vất vả, cực khổ lắm. Thế nhưng khi qua Mỹ theo diện “hát ô”, thì Tư tôi tá hỏa tam tinh, vì thấy hoàn toàn ngược lại những gì mình nghe khi trước. Người Việt mình, sau 15 năm tái định cư, đã trở thành Năm Bờ Oăn hết rồi! Cứ đi chợ thì biết liền, các bà vô chợ lục tung tất cả trái cây, rau củ của người ta lên mà lựa tan nát, coi cuộc đời cứ như củ khoai ấy. Có những thùng Lê ngon, giá cao, đã để trong hộp đàng hoàng, và dán chữ “Xin đừng lựa”, các ông bà Năm Bờ Oăn cứ tỉnh bơ, nhặt trong chồng hộp ấy, quả nào to nhất, ngon nhất thì cho vào hộp mình, rồi tàn tàn ra tính tiền, để mặc đống quả kém kém chút chút kia nằm tụm năm, tụm ba, ngơ ngác. Túi cam cũng thế, mặc dù tính tiền theo túi, các bà cũng tháo giây cột miệng túi ra, lựa cho đã rồi cột dây lại, coi như không có gì xẩy ra. Lại còn chỉ cho nhau mánh lựa cam ngon nữa chứ! Lựa trái làm rớt lỏng chỏng dưới đất, thi lấy chân đá vào gậm, đôi khi cũng chả thèm đá cho bẩn chân. Mấy vị mua cá nhờ chợ làm giùm cũng ít khi nói lời cảm ơn với người đã giúp gọt vẩy, rửa ruột. Vài vị khác thì lựa cho đã, đưa người làm rồi bỏ đi luôn, không thèm trở lại. Ra tới quầy tính tiền, thì chả toàn thấy những bộ mặt đưa đám. Không thấy có nụ cười nào cả. Người tính tiền cứ lầm lầm lì lì làm việc, khiến người mua cũng tiếc một lời cám ơn. Chả ai cám ơn ai! Ai cũng Năm bờ Oăn mà! Bữa hổm, Tư tôi đến chợ Mỹ, đang đứng chờ một chiếc xe ra để đậu xe mình vào, khi chiếc xe trong de ra ngoài rồi, mừng húm đang tính gài số quẹo vô, chợt một chiếc xe khác phóng vèo tới, quẹo gắt một cái, thắng cái két. Tư tôi tức quá, tính “sổ nho chùm” cho bõ ghét, thì thấy cửa xe mở, một bà Năm Bờ Oăn bước xuống, mặc đồ bộ trắng muốt, nhìn thấy rõ đồ đạc bên trong, tay lại cắp cái nón lá! Tư tôi ngồi như trời trồng luôn. Thiệt! Coi nước Mỹ này y hệt cái củ khoai tây..Mặc áo ngủ đi chợ Mỹ! Lại cắp nón lá đặc trưng của người Việt nữa chứ! Hết biết luôn! Lúc ấy, nếu có ai hỏi tôi là người giống gì, chắc Tư tôi sẽ nói tôi là người Nhật! Không dám nhận cùng giòng giống Tiên Rồng nữa..Hồi mới sang, Tư tôi còn bị tá hỏa tam tinh khi đang rề rề xe vào chỗ quẹo trái ở Bolsa, thì vù một cái, một chiếc xe cù lũ sỉ ào qua mặt, thắng cái rét trước mặt mình ngay tại chỗ quẹo. Hết hồn hết vía, Tư tôi thắng gấp, bẻ tay lái đâm vào con lươn “ình” một cái, miệng rủa thầm “thằng nào chết bầm” chơi mình, tí nữa thì đụng đít nó, là bảo hiểm tăng.. Sau này, hỏi ra, mới biết đó là trò của mấy trự Năm Bờ Oăn, cứ đi xe cà là tàng, rồi tìm cách cho xe khác đụng đít để ăn tiền bảo hiểm. Vụ này xẩy ra nhiều lắm, làm các hãng bảo hiểm cứ thấy dân Mít bị đụng, nhất là thấy trên xe có mấy trự choai choai, thì điều tra rất kỹ. Nhưng nghe nói, trời không dung cái trò gian lận này, một Tổ Sư chuyên dàn xếp cho bị đụng đã bị một cú quá cỡ thợ mộc, chiếc xe dúm lại như đàn accordion, mấy mạng trên xe về chầu trời hết, nên từ đó, bớt các vụ dàn dựng. Người ta nói cộng đồng Việt hải ngoại là nơi “gió tanh, mưa máu” đúng thiệt. Cũng vì ai cũng cho mình là nhất thiên hạ, nên mỗi lần bầu bán chức chưởng gì đó, ở bất cứ tiểu bang nào, là các thứ vũ khí độc hại bay đầy trời. Từ truyền đơn, đến đài phát thanh, đến báo lá cải.. Mấy tên tay sai cộng sản nằm vùng cũng có báo tuần, lợi dụng cơ hội, là nhấy vô ăn có, thế là không gian bị nhiễm độc, người người nhức đầu, mệt mỏi, lánh xa mấy công tác cứu dân, cứu nước. Ai cũng sợ bị dính loại thuốc độc vô hình này, nên các hoạt động cộng đồng dần dần bị thu hẹp ở những nơi làm việc, nhưng điều tréo cẳng ngỗng là các hoạt động ấy lại nở ra tại các phòng tập thể dục gọi là “spa” ở gần Thủ Đô Tị Nạn. Tại các hồ nước nóng, trong các phòng xông hơi, xông nước, các trự phê bình chính trị cứ ào ào tuôn ra hàng tràng lý luận, gọi mọi người đều là “thằng, con” hết. Vì tiếng Việt bị vặn “volume” hết cỡ, nên người Mỹ từ từ lảng đi, dần dần trong mấy cái “spa” gần Bolsa chỉ thấy các vị Năm Bờ Oăn chiếm đóng. Nhất là tại chỗ máy chạy bộ, người ta đang lẳng lặng đứng chờ tới phiên, thì khi một cái máy vừa trống, một vị nữ lưu phe ta, vèo một cái phóng vô chiếm ngay, rồi nhét nút tai bằng hai cái máy nghe, tỉnh bơ đạp đạp trước mắt tức tối của những người khác. Đã có lần, Tư tôi thấy hai vị cãi lộn, rồi vị đứng dưới kéo giật vị đứng trên té sấp mặt xuống đất. Security phải mời cả hai vị ra ngoài. Mắc cở quá xá chừng! Nghe nói là trong phòng thay đồ, mấy nữ lưu Năm Bờ Oăn cứ tỉnh bơ để đồ thiên nhiên chạy qua chạy lại, í a, í ới và hát ông ổng “Đời tôi cô đơn nên yêu bao nhiêu cũng cô đơn..” làm Mỹ gái chạy tóe khói. Thời buổi thay đổi, “Lady first”, nên quý bà bây giờ bạo dạn quá. Trong các chương trình khám bệnh sản khoa trên “la-dô”, các bà cứ tưng tửng đưa chuyên phòng the, chuyện… mình ra mà hỏi những câu thật ớn lạnh. Và các bác sĩ cũng phải tỉnh bơ mà cho toa.. nghe rùng mình. Tưởng tượng các chàng trai sồn sồn chưa có vợ, mà nghe đối thoại qua lại về những căn bệnh phụ nữ thế thì chắc.. thà chết già còn hơn lấy vợ. Hãi quá! Không còn “bàn tay năm ngón kiêu sa…dáng huyền tha thướt trong gió chiều…” mà chỉ có hình ảnh người phụ nữ với đủ thứ bệnh đáng sợ! Nhất là lại gặp các bà trong các tiệm bán quần áo, đồ phụ nữ, nghe các bà “Nổ” kinh hoàng. “Tui mà hát thì người ta cứ tưởng Thanh Lan đấy!”, “Giọng tui nghe giống Lệ Thu không, mấy bạn?” Trời đất! Những Thanh Lan, Lệ Thu này, những người có thể mắng chồng trước mặt bạn bè, mà khi đi ăn nhà hàng thì nhồm nhoàm như người đói bẩy ngày, gắp lấy gắp để. Đĩa tôm hùm vừa mang ra, là bà lấy đũa của mình ra khoắng, lật tung đĩa lên mà tìm miếng nạc. Tiệc cưới chưa xong, đã vội kêu “Tu gô đi!” rồi mang về lủng lẳng hai tay mấy gói. Tư tôi đã chứng kiến môt buổi ra mắt sách đau khổ. Tác giả mua sẵn những hộp nhựa, mỗi hộp là một phần cơm nhẹ để trên bàn dài gần cửa. Chương trình chưa xong, tác giả chưa ký sách, thì các vị Năm bờ Oăn đã ẵm nhẹ hết bàn ăn rồi tửng tửng ra xe, trên tay ba bốn bịch.. làm tác giả đứng chới với, vừa cười vừa khóc. |
Về nhà hàng cũng đặc biệt hơn người. Có chủ nhà hàng ở gần khu Thủ Đô Tị Nạn thu hết tiền Tip của nhân viên, là những người tị nạn kém may mắn. Có ông chủ nhà hàng tiếp khách bằng khuôn mặt lạnh như tiền, giống như nhà vừa có đám ma, ai hỏi thêm chút rau, chút giá thì tỏ vẻ khó chịu, y hệt mấy tiệm “phở chửi ở Hà Nội”. Đặc biệt nữa là thịt gà trong phở gà ở đây, thay vì để miếng chặt vừa phải như các tiệm khác, lại thái nhỏ, xắt lát như thái thịt bò, trông thấy chán, vậy mà người mình cũng cứ nhẫn nhục đến ăn. Kỳ thiệt đó! Có lẽ ông chủ ở đây cũng là một Năm Bờ Oăn, ai thích ăn đồ của ông thì cứ lại, không cần chiều khách.
Nói về thái độ thân thiện, Tư tôi mới thấy người mình Nhất đủ thứ, coi trời bằng vung thiệt. Có những vị nổi tiếng không thích bắt tay thiên hạ, mà chỉ đưa ra năm trái chuối mềm nhũn, sắp thối cho mình nắm trong khi lại đưa mắt nhìn ra xa, suy tư, không cần nhìn mặt người bắt tay mình…Tư tôi khâm phục quá! Thế mới đúng là Dân Việt Thành Công chứ! Phải có bộ dạng thế mới là Năm Bờ Oăn! Chứ còn bắt tay chặt chẽ thì xuống giá mất! Chả thế mà trên diễn đàn, đa số các vị gửi bài lên Net, đều coi thiên hạ là những củ khoai ngu ngốc cả. Tha hồ mà bình loạn! Tha hồ mà gọi những vị đã từng lãnh đạo đất nước ngày trước, những nhà văn, nhà thơ khác, những chính trị gia đang tranh đấu cho dân tộc, những sĩ quan cao cấp cũ là “thằng này, thằng nọ”. Ngay cả Tổng Thống Mỹ cũng không thoát khỏi bị goi là “thằng”! Không cần kính trọng ai! Cứ chửi tá lả! Rồi phê bình lịch sử dưới cặp mắt của những anh chị Cầu Ông Lãnh, nghĩa là muốn áp đặt ý kiến của mình vào bất cứ giai đoạn nào, bất cứ nhân vật nào cũng được, ai viết khác ý là đập tơi bời, bằng cả tiếng Đan Mạch nữa! Thiệt đáng nể cho dân Việt ta trên mọi phương diện! Nhớ lại trong thập niên trước, cả Bolsa tưng bừng cảnh sát đi bố ráp một loạt những ông làm luật, những Lương Y bán thuốc, khám bệnh mà gian lận tiền bảo hiểm, tiền Medical… Có điều là chính phủ vì sợ dân Việt nên vẫn bỏ qua các vị chuyên viên nắn bóp, châm cứu mà tự xưng là Bác Sĩ, dụ ngon dỗ ngọt thiên hạ mua cao đơn hoàn tán, trị bá bệnh luôn! Chỉ mấy viên bột tròn tròn, pha trộn thuốc Tây, mà chữa đủ thứ, từ ung thư đến bao tử, từ cao mỡ đến cao máu, đến đau nhức phong thấp, tim mạch và cả làm đẹp ra nữa. Gần đây, sau vụ Sữa Ong Chúa bị bể, lại có vụ bán “tế bào gốc” để làm đẹp! Rẻ hề! Tuy người nghe đôi khi thắc mắc là lấy đâu ra tế bào gốc nhiều thế và rẻ thế, nhưng có lẽ vì tin rằng người mình luôn Năm Bờ Oăn, nên lại tin theo. Nhất là lại nghe nói chắc chắn rằng “Thuốc này đã được FDA chấp thuận”, nên mua ào ào làm giầu cho mấy Vị Bác Sĩ mà Hải Thượng Lãn Ông cũng có lẽ phải gọi bằng Sư Phụ! Thôi, thì được thế thì cũng mừng cho dân tộc ta, tiến nhanh, tiến mạnh hơn các sắc dân khác cũng ngụ cư trên đất Mỹ này. Sang sau mà khá hơn người cũ thì đó là điềm tốt. Chúc mừng! Chúc mừng! Chỉ xin một điều là đừng có tiến nhanh lên giai cấp lừa đảo, lưu manh, gạt gẫm đồng hương, gà què ăn quẩn cối xay, thì xấu hổ lây cho cả cộng đồng Việt trên toàn thế giới. Chu Tất Tiến |
Sunday, January 11, 2015
Tại Sao Đàn Ông Việt Mất Giá? Trong khi xã hội phát triển thì vai trò của phụ nữ Việt Nam dần được cải thiện. Ngày nay phụ nữ Việt tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội và trở nên rất thành đạt. Phụ nữ Việt sống ở ngoại quốc phần nhiều có học thức, công ăn việc làm và khả năng tự chủ về tài chánh nên ít lệ thuộc vào đàn ông. Nhưng khi nói về phụ nữ Việt Nam người ta vẫn thường sử dụng mỹ từ phụ nữ “giỏi việc nước, đảm việc nhà”, để khẳng định vai trò không tách rời của người phụ nữ vào các công việc nhà. Trong khi đó vai trò của người đàn ông trong gia đình vẫn chủ yếu được coi là người kiếm tiền nuôi gia đình, còn chuyện chăm sóc con cái, giặt giũ, cơm nước đương nhiên vẫn là việc của phụ nữ. Tuy vậy quan niệm sống của phụ nữ ngày nay phóng khoáng và độc lập hơn những thế hệ trước đây. Một khi có thể tự làm chủ về tài chánh thì phụ nữ muốn có quyền được lựa chọn cuộc sống hạnh phúc, yên bình cho cả cuộc đời, bao gồm luôn cả việc hôn nhân. Một điều đáng nói là phụ nữ Việt ngày nay có xu hướng lấy chồng ngoại quốc hơn là chồng Việt vì đàn ông Việt đã làm phụ nữ mất đi niềm tin quá nhiều. Nhiều khi không phải là do kinh nghiệm bản thân mà do định kiến của các cô gái Việt đã lớn lên trong văn hóa trọng nam khinh nữ và chứng kiến những người mẹ, cô, dì được đối xử như sao trong gia đình. Trường hợp bất đồng tư tưởng càng xảy ra nhiều hơn trong các cuộc hôn nhân giữa người Việt. Bài viết này chỉ nêu ra các yếu tố chính được xem là đặc tính khiến đàn ông Việt mất giá chứ không đề cập đến các yếu tố phụ như vũ phu, rượu chè bê tha mà hầu như xã hội nào cũng có. Bảo thủ, lạc hậu Có lẽ do ảnh hưởng văn hóa truyền thống của người Á đông nên đàn ông Việt vẫn giữ quan niệm bảo thủ và lạc hậu đối với phụ nữ và hôn nhân. Đàn ông rất mâu thuẫn trong tiêu chuẩn chọn lựa vợ, một mặt thì họ muốn một người vợ tân thời, thanh lịch để “nở mày nở mặt” với bạn bè, nhưng về bản chất thì phải giống phụ nữ thời phong kiến, có nghĩa là phụ nữ lập gia đình chỉ cần biết làm vợ, làm mẹ, và lo các công việc nội trợ hàng ngày cho tốt. Tự ái đàn ông khiến họ nghĩ rằng phụ nữ học nhiều cũng không bằng ai, làm việc nhiều cũng thua đàn ông, phụ nữ nên học ít và làm tiền cũng ít. Đàn ông Việt khó chấp nhận khi vợ làm nhiều tiền hơn hoặc thành công hơn mình. Ngược lại đần ông Tây luôn khuyến khích và hãnh diện khi có một người vợ thành công. Thêm nữa, các ông chồng Việt sau giờ làm đều muốn hưởng sự tự do, gặp gỡ bạn bè nhậu lai rai, hoặc đi uống cà phê vào ngày nghỉ, nhưng phụ nữ thì phải lập tức về nhà sau giờ làm để cắm đầu vào việc cơm nước, lo cho con cái; những suy nghĩ nhỏ nhen này không phải quá bất công đối với phụ nữ sao? Chẳng lẽ vợ phải lủi thủi ăn những bữa cơm vắng chồng trong sự tủi thân trong khi chồng cứ hết ngày này đến ngày khác tiếp diễn như vậy. |
Phụ nữ, dù độc thân hay có chồng đều thích mua sắm, nhất là đi mua sắm với bạn gái, và cũng cần những khoản thời gian gặp mặt và giữ mối liên hệ với bạn bè. Quan niệm đức hạnh và trinh tiết cũng là sự khác biệt lớn nhất giữa đàn ông Việt và Tây. Tôn trọng quá khứ của nhau là nguyên tắc của đàn ông Tây phương, nhưng điều này không dễ đối với người chồng Việt.
Gia trưởng Đàn ông Việt từ bao đời nay đa số được nhận định có thói gia trưởng được xem là “di truyền” từ các thế hệ trước. Đây là những người đàn ông thích thích chỉ đạo, thích người khác phục tùng mình, thích thể hiện quyền lực với vợ con và những người này coi cách sống bề trên, kẻ cả làm tâm niệm sống của mình. Người đàn ông gia trưởng có cá tính ích kỷ, độc đoán, và hay áp đặt vợ con làm theo ý mình và ít khi thấu hiểu tâm lý người khác. Mọi việc lớn nhỏ trong gia đình đều nhất nhất nghe theo anh ta, nếu làm trái, hậu quả sẽ khôn lường. Đàn ông gia trưởng có cách biểu hiện khác nhau, người thì đùng đùng như sấm, như sét, người thì im lìm như đá nhưng không thể lay chuyển. Sở dĩ nhiều người đàn ông Việt có tính gia trưởng là vì từ bé con trai đã được bố dạy là phải quyết đoán, mạnh mẽ và khi lớn lên theo truyền thống ở Việt Nam, đàn ông phải gánh vác trách nhiệm kiếm tiền nuôi sống gia đình chứ không phải như văn hóa Tây phương mà trách nhiệm nuôi gia đình được san sẻ đồng đều. |
Không ga lăng
Sau khi lấy chồng, phụ nữ không cảm thấy mình được chiều chuộng nâng niu, và quan tâm. Trong khi người chồng Tây phương luôn sẵn sàng giúp vợ làm việc nhà thì đàn ông Việt lại xem việc nội trợ là bổn phận của người vợ. Ít khi thấy đàn ông Việt đẩy xe cho vợ đi chợ nhưng đàn ông Tây thường xuyên làm việc này. Đó là chưa nói đến khi về nhà, vợ tay xách tay khiêng những bao túi còn chồng Việt thì ngồi vắt chân đọc báo hoặc xem ti vi. Đến khi nấu cơm thì chồng Tây luôn hỏi có cần phụ giúp gì không, chồng Việt đợi vợ dọn cơm ra bàn rồi cứ việc ngồi vào. Thậm chí ngay cả những việc thường ngày như rót nước cho chồng thì người phụ nữ cũng sẽ nhận được câu "Thanks", từ chồng Tây. Văn hóa Tây phương đặt phụ nữ lên hàng đầu (Ladies first) nên ở các nơi công cộng như trên xe bus, phụ nữ là người được ưu tiên nhiều nhất, kế đến là người già, trẻ em, sau cùng mới đến người đàn ông. Ở Âu Châu, gặp bất cứ một người phụ nữ nào xách đồ đạc nặng trên phố là sẽ có đàn ông đến giúp. Trên xe buýt, đàn ông luôn nhường chỗ ngồi cho phụ nữ một cách tự nguyện. Không thể phủ nhận có nhiều anh chàng Việt sẵn sàng giúp đỡ các chị em như xách đồ, tuy nhiên, không ít các chàng làm việc đó vì mục đích riêng là để chinh phục cô gái trong khi các anh chàng Tây ra tay chỉ đơn giản vì đó là thói quen của họ. Ở các nước Âu Mỹ người đàn ông vào bếp được xem là một người đàn ông hiện đại. Cảnh chồng ngồi tiếp khách đợi vợ bưng món ăn lên mời các ngài xơi đã lỗi thời, không được giới trẻ chuộng nữa. |
Không lãng mạn
Đàn ông Tây coi trọng đời sống tinh thần, những khoảnh khắc hạnh phúc giữa vợ chồng nên khi ra đường họ nắm tay vợ và mỗi ngày vào buổi sáng hay trước khi đi ngủ cũng trao cho vợ một nụ hôn. Chung quy cũng là do khác biệt văn hóa mà thôi. Nếu ở nơi công cộng mà một người đàn ông Việt Nam “dám” ôm hôn vợ hoặc bạn gái thì sẽ bị cho là lố bịch, chướng mắt, nhưng ở phương Tây điều đó là bình thường. Sinh nhật, kỷ niệm ngày thành hôn, lễ Mothers Day, Valentines cũng đều nhớ tặng quà cho vợ, trong khi đàn ông Việt chỉ chiều chuộng lãng mạn khi chưa cưới. Lãng mạn ở đây còn có ý nghĩa quan tâm đến tinh thần, cảm nhận của đối phương, và biểu lộ những cử chỉ tuy nhỏ nhưng ân cần. Người vợ Việt mặc chiếc váy hơi ngắn thì chồng sẽ trợn mắt hay quát tháo, trong khi chồng Tây sẽ có những lời khen cho vợ. Họ coi đó là việc làm đẹp mặt chồng chứ không nghĩ là để "đong trai" như những ông chồng Việt thường hay nghĩ. Chung quy thì cũng là do sự khác biệt văn hóa mà thôi. Mặc dù những nhược điểm của đàn ông Việt có thể nhìn thấy được và nhận phải nhiều lời chỉ trích nhưng thực tế, cuộc hôn nhân với người nước ngoài cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Ở đâu cũng có người này, người kia, không phải đàn ông Tây nào cũng tốt và không hẳn tất cả các ông chồng Việt đều vô tâm, gia trưởng, hẹp hòi. Đàn ông Việt cũng có vô số những người trách nhiệm, chung thủy, chịu khó, và hết mình yêu thương vợ con. Đàn ông Việt cũng có người rất tốt và ga lăng nhưng cách thể hiện của họ lại khác với đàn ông Tây. Ví dụ người Tây phương có quan niệm sống độc lập và cho rằng một khi đã lập gia đình thì cuộc sống hôn nhân thuộc về lứa đôi và, chứ không có trách nhiệm với đại gia đình bên vợ hoặc chồng. Ngược lại người chồng Việt chấp nhận không những phải lo cho vợ con mà còn cả gia đình vợ nữa. Ở các nước phương Đông, tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn rất nặng nề. Không phải chỉ đàn ông mới trọng nam khinh nữ mà cả đàn bà cũng xem con trai hơn con gái. Như vậy, tính gia trưởng của đàn ông vừa có tính gia truyền, vừa có tính lịch sử của cả một hệ ý thức tồn tại biết bao đời nay. Có lẽ phải qua 1-2 thế hệ nữa đàn ông Việt mới cởi mở, khảng khái và biết tôn trọng ý kiến của phụ nữ như Âu, Mỹ được. Diễn Quyên |
Về Việt Nam Cưới Vợ, Bài Học Chưa Thuộc - Huy Phương
Theo báo chí trong nước, ngày 24 tháng 5 năm 2011, tại Trà Vinh, Việt kiều Luân Quyền Ðạt 46 tuổi, đã nổi cơn điên dại và được đưa vào bệnh viện tâm thần ở Biên Hòa, lý do là ông về việt Nam cưới vợ, và bị gia đình vợ đưa vào bẫy lừa để lấy số tiền trên 20,000 Mỹ kim. Chuyện ông Việt kiều này bị lừa như thế nào, báo chí bên nhà không nói rõ, nhưng cũng chẳng ai nghe chuyện này mà ngạc nhiên. Về Việt Nam lấy vợ là chuyện dài, là những bài học đắt giá nhưng lại là những bài học rất khó thuộc. Khó thuộc là vì những bài học này không giống nhau và những người đàn ông ở xứ văn minh, tử tế này thường lấy cái tâm địa ngay thẳng hiền lành để về kết hôn với những người đàn bà lớn lên trong một xã hội, đất nước đã tha hóa, những con người đã đổi thay từ gốc rễ mà lối hành xử của họ khó có thể lường được, nó đã vượt qua ranh giới của đạo đức, luân lý, và lòng chân thật của một con người bình thường. Tôi có một người cháu họ là một người thợ máy sửa xe hơi, 40 tuổi, ở Mỹ trên 20 năm, đã ly dị vợ, có dịp về Việt Nam, được người quen giới thiệu với một gia đình có cô con gái mới 18 tuổi. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên, anh chàng đã ngây ngất vì nhan sắc của cô này, nhất là sự trẻ trung hiếm có, mà ở Mỹ, với địa vị của anh, nằm mơ cũng không thấy. Tuy tuổi tác hai bên có đôi chút chênh lệch, nhưng một bên thì có vợ trẻ, một bên thì được lấy chồng Việt kiều, được sang Mỹ, nên một lễ hỏi được cấp tốc cử hành và anh chàng lên đường về Mỹ với tấm lòng thơ thới, hân hoan, đợi ngày có visa để “rước nàng về dinh”. Tuần trăng mật qua mau, và để cho vợ dễ hòa nhập với đời sống mới, anh chàng sắp xếp cho vợ đi học ESL. Chính trong những ngày này, cô vợ đã thường xuyên liên lạc với một nhân vật giấu mặt nào đó bên kia đường dây điện thoại, để cho đến một ngày kia “cánh hồng bay bổng tuyệt vời, đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”, nàng ra đi, không một lời từ giã và không để lại một dấu vết nào. Ba năm sau, cơn hận tình nguôi ngoai, chàng nghĩ là đã nhầm lẫn vì đã lấy một cô vợ còn quá trẻ, nên lần này quyết tâm làm lại cuộc đời, đi tìm một cô 22 tuổi. Ba năm sau gặp lại cậu cháu, mới biết rằng số anh chàng Việt kiều này quá hẩm hiu, hai lần cưới vợ Việt Nam thì hai lần làm tò vò nuôi nhện, bây giờ chỉ còn biết “ngồi khóc tỉ ti”, vì hai cô vợ chẳng biết đi đường nào! Nhiều ông bạn già góa hay bỏ vợ, nghĩ mình với sức mạnh của đồng đô la trong tay, có thể hưởng thụ với thời gian cuối đời cho bõ những ngày gian khổ, tù đày hay bị vật vã bởi gông cùm hôn nhân, đã về Việt Nam cưới những cô vợ trẻ hơn mình bốn, năm mươi tuổi, để con cháu xa lánh, người đời cười chê (hay ganh ghét mà đàm tiếu!) Nhưng những cuộc hôn nhân này thường sớm gãy đổ, vì bạn tôi thì sức tàn lực kiệt, đồng đô la giới hạn, cô em thì chỉ mượn đường ra đi, tương lai phơi phới trước mặt. |
All times are GMT. The time now is 08:37. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.