![]() |
Chỉ Tại Cái Dấu Phẩy
Ông Phan Tôn Công nói dối vợ rằng ông đă kiếm thêm được job thứ hai, làm ca đêm ở môi trường độc hại nên tạm thời không chung chăn chung gối được, nhưng chẳng bao lâu bà vợ biết rơ cái job thơm này của chồng là đi ngủ với vợ hai, bà bèn đi thưa. Quan ṭa ra lệnh cho Công ngủ với vợ cả, Công không được ngủ với vợ hai. Công thi hành án lệnh, nhưng bà vợ cả lại đi kiện, v́ chồng không thi hành đúng. Quan ṭa tức giận đập bàn la bị cáo rằng sao dám coi thường pháp luật, cho nên gia tăng h́nh phạt, không cho Công ngủ với vợ nào nữa mà c̣n bị làm “công chức”, tức nhặt rác một tháng ở bên lề xa lộ. Công kêu oan, tŕnh lên quan bản án đánh máy, có chữ kư của quan và đóng mộc đàng hoàng, bản án ghi rằng:
“Ngủ với vợ cả không được, ngủ với vợ hai”. Thực ra ai cũng hiểu ư quan ṭa, nhưng thư kư ṭa đă ăn hối lộ của Phan Công, xê dịch cái dấu phẩy (,) đi một ly để chuyện sai đi một dặm, đúng hơn là đảo lộn án lệnh. Bút sa ông ṭa hết căi, Công cứ y án ngủ với vợ hai. Chuyện khác, có cụ Tổng biết ḿnh sắp chết nên gọi vợ chồng đứa cháu nội đến nhận di chúc và căn dặn đứa cháu dâu rằng phải có nhiều con th́ vợ chồng cháu mới vui vẻ hạnh phúc, chứ như ông nội chỉ có 1 con nên buồn lắm. Thằng cháu nội nháy mắt với luật sư viết di chúc, nên di chúc viết như sau: “Gia đ́nh cháu phải có nhiều con vợ, chồng cháu mới vui vẻ hạnh phúc”. Từ đó mỗi khi vợ chồng lục đục về chuyện cơm với phở th́ thằng cháu lại mang di chúc của ông nội ra dẫn chứng. Hắn than với vợ rằng “mệt lắm”, nhưng v́ chữ hiếu mà phải vâng lời ông nội mà thôi. Chuyện khác nữa, cô em vợ đi thưa thằng anh rể Odam về cái tật hay sờ mó, quan ṭa phán “Sờ mó vợ, cấm sờ mó em vợ”. Thằng thư kư ṭa mổ c̣ trên computer sai vị trí và thêm cái dấu phẩy: “Sờ mó vợ, cấm, sờ mó em vợ”. Trăm tội rắc rối cũng chỉ v́ cái dấu phẩy (,) đứng lộn chỗ. Đó là chuyện của các ông có đầu óc kỳ thị phân chia ngôi thứ, chứ c̣n tôi th́ không bao giờ phân chia giai cấp, sống phải cho công bằng, vợ cả, vợ hai, vợ ba, 3 vợ đều là vợ cả. Chuyện tôi muốn nói hôm nay là mong các vị cao tay chỉ dẫn cho biết cách dùng đúng chỗ những cái dấu phẩy (,), dấu chấm phẩy (;), dấu chấm (.), dấu 2 chấm (:), dấu 3 chấm (…), dấu gạch nối (-), dấu chấm than (!), dấu chấm hỏi (?), dấu ngoặc đơn (), dấu ngoặc kép (“..”), dấu chấm vân vân (v.v..) v.v.. trong các bài viết. Ngày xưa có những ông thợ c̣ chuyên môn sửa lỗi chính tả cho các tờ báo, ngày nay nghe nhà văn Ấu Tím nói có cái xốp-gue sửa lỗi chính tả, sau khi viết bài xong, chỉ cần click một cái là mọi sai sót đều được điều chỉnh, ông nào “dê” không đúng chỗ là máy sửa lưng ngay. Đó là chuyện của các nhà văn nhà báo chuyên nghiệp, c̣n nhà báo cô, tức là báo hại cô vợ như tôi, ăn xong không giúp vợ rửa chén, lau nhà, đổ rác mà ngồi hí hoáy viết, viết xong rồi xóa, xóa rồi lại h́ hục viết th́ thật là phiền toái về mấy cái lỗi chính tả thổ tả này. Không biết có sách văn phạm tiếng Việt nào dậy về việc dùng các dấu kể trên hay không, nên tôi đem chuyện rắc rối đi hỏi ông Vấn Vẩu, chuyên viên tài chánh th́ ông ấy bảo Mỹ Việt khác nhau, coi chừng mang họa với cái dấu phẩy, dấu chấm khi viết chi phiếu. Hỏi nhà văn nhà thơ lăo thành Khôi Phạm Kim th́ ông bảo việc dùng những dấu kể trên rất dễ nhưng cũng rất khó, dùng sai dẫn đến câu văn “què”, mà viết văn què là thiếu tôn trọng độc giả, dù nội dung có hay. Ông khuyên tôi chỉ nên dùng dấu phẩy, dấu chấm, chấm hỏi, chấm than cho những bài báo, câu chuyện b́nh thường là được rồi. _ Ông là nhà văn, ông nói th́ dễ mà ông làm cũng dễ luôn, nhưng c̣n những dân chuyên môn bóp c̣ như chúng tôi, nói lại cho rơ là bóp c̣ súng kẻo lại hiểu lầm là “nâng bi”, nay gẫy súng rồi, không c̣n c̣ mà bóp nữa nên muốn gơ vài trang kể lại chuyện cây súng gẫy, cây súng bất khiển dụng th́ thật là vất vả quá! _ “Đă bảo rằng càng đơn giản càng dễ hiểu, bày đặt chi những cái gạch nối (-), gạch nối (-) không thể thay thế dấu phẩy, những cái 3 chấm (…). Dấu 3 chấm là dấu bỏ lửng, tức là khi muốn nói một điều ǵ đó nhưng khó nói th́ bèn chấm chấm ( …) ra vẻ ngập ngừng, bỏ lửng để người đọc tự t́m hiểu. Thí dụ câu sau đây: “Em xinh quá, anh muốn …”. Ba cái chấm là lấp lửng ư muốn làm quen, muốn cầm tay, muốn hôn má em v.v.. em cho điều nào anh nhận điều đó, không than phiền. Ngoài những cái dấu ngắt câu không đáng yêu chút nào, người miền Nam tôi cỏn gặp rắc rối về dấu hỏi và dấu ngă, nói th́ đúng, nhưng khi viết th́ lộn tùng phèo, chữ “hỏi” th́ viết thành “hơi”, chữ “ngă” th́ viết thành “ngả”, mà “ngă, ngả” th́ ư nghĩa khác nhau. Tôi có đọc bài viết của một chuyên gia chữ nghĩa hướng dẫn về những quy tắc, luật lệ dùng dấu “hỏi, ngă” mà cứ như đi vào bát quái trận đồ. Thôi, chịu thua, cố gắng được phần nào hay phần nấy, phần c̣n lại nhờ mấy ông gốc miền Bắc sữa dùm hay sửa dùm tùy ư. Nhưng c̣n một nguyên nhân dẫn đến lộn dấu “hỏi ngă” mà bất cứ ai, không kể Bắc Trung Nam, đều mắc phải là khi “mổ c̣” trên computer. Hai ngón tay trỏ to bằng quả chuối mắn, c̣n hai số 3 và 4 tượng trưng cho hai dấu “hỏi ngă” ở trên hai ô vuông nhỏ nằm sát nhau, giống nhau như hai chị em sinh đôi, nên mấy anh (gơ) lộn cũng là chuyện b́nh thường, lỡ có lộn th́ xin lỗi, chỉ cần chú ư một tí là lần sau có thể tránh được, trừ khi cố t́nh với ư đồ “mía ngon đánh cả cụm”. Hỏi với ngă đă mệt rồi lại c̣n thêm rắc rối của 2 chữ C và t nữa! Trong một lần ngồi đánh tứ sắc với mấy bà bạn hàng xóm, tôi bốc bài lên, không có đôi mà cũng chẳng khạp, toàn là cọc-cạch, đứt đầu tướng, xe ngựa có rồi nhưng thêm hai chàng pháo gác hai bên, đánh chừng nào mới “xên” đây? Tôi chán nản toan vỗ đùi người ngồi bên cạnh mà than “rát (rác) quá” nhưng liếc thấy cô vợ BK nho nhỏ đang ḍm chừng tôi đành bèn than với nàng rằng: _ Em ơi, “rác” hay là “rát”, là c hay là t? _ Rơ nỡm, anh hỏi thật hay đùa đây? Muốn “rác” (c) th́ đi đổ cho em thùng rác, c̣n muốn “rát” (t) th́ vào đây em cạo gió rồi xoa dầu cho là biết thế nào là “rát” ngay. Nghe nói th́ biết vậy chứ vẫn cứ lộn giữa c và t, “cắt” và “cắc”. Muốn diễn tả thời tiết khắc nghiệt, lạnh như cắt hay như cắc đây? Nếu là “cắc” mà gặp chàng gốc sông Hương núi Ngự như Phu Nhơn mà than “trời lạnh như căc” th́ dễ bị hiểu lầm đấy. Việc nọ xọ sang việc kia, cái việc “dê” thế nào cho đúng lúc đúng chỗ cũng vất vả lắm. Đọc cuốn “Can Trường Trong Chiến Bại”, tác giả viết: “Khi tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh buôn súng..”. Tôi phải hỏi cô vợ BK gốc rau rằng buôn có “g” hay không? Nàng bèn đi một đường giải thích: _ Buôn (không g) là buôn bán, là đi mua, “buôn súng” là đi mua súng, ông DVM tuyên bố đầu hàng th́ bắt quân đi buôn súng để làm ǵ? Ổng ta ra lệnh cho quân đội bỏ súng xuống, vứt súng đi, tức buông (có g) súng xuống. Thôi, anh làm ơn buông em ra, để em c̣n đi buôn, đừng có mượn cớ rồi nắm tay em măi. _ Thế th́ làm cách nào để biết “dê” (g) sao cho đúng lúc, đúng chỗ? _ Phải để ư ḍm chừng câu văn hay đối tượng có muốn “g” hay không, anh mà “dê” lộn xộn là em cắt. “G” không đúng chỗ là có ngày mang họa vào thân. Dù nàng có đe dọa cắt, nhưng biết làm sao tránh được, “dê” không đúng chỗ là cái tật dễ thương của anh em chúng tôi. Tóm lại những lẫn lộn vể dấu hỏi, ngă, về c hay t, g hay không g là chuyện bất khả kháng, ráng sửa được chừng nào hay chừng nấy, xin độc giả thông cảm cho anh em niềm Nam chúng tôi, nhất là khi chúng tôi mới tập tễnh viết để ghi lại những kỷ niệm “đơn vị cũ, chiến trường xưa” sau khi đă hoàn tất mọi công việc nội trợ. Việc nội trợ là việc của đàn bà như đi chợ, nấu cơm, quét nhà, rửa bát, lau chùi v.v.. Ừa th́ ngày xưa c̣n khỏe, c̣n chiến đấu, c̣n làm công việc của đàn ông, nay không c̣n sức để làm nhiệm vụ “đàn ông” nữa th́ lo việc nội trợ có sao đâu, cũng đều là những hành động yêu vợ cả đấy mà. Hết chuyện rắc rối v́ mấy cái dấu nhỏ bằng móng tay, nay tôi quay qua hỏi chuyện viết hoa. Nếu đọc các bài viết trên các tạp chí, đặc san, lỏng san, tập san v.v.. th́ chúng ta sẽ hoa mắt lên v́ các chữ viết hoa, nhất là các bài viết có dính dáng đến quân đội, tôi không biết phải viết làm sao cho đúng nên t́m thầy hỏi. Thầy HVP, tục danh Phú-Phét, một nhà văn nổi tiếng viết hay, hay viết về các đề tài như kho đạn, băi ḿn, TNT, C4 v.v… _ Thưa thầy, viết hoa khi nào và thế cho đúng, thí dụ 2 cách viết tên sau đây: Huỳnh Văn Phú và Huỳnh văn Phú. Cách thứ nhất ở giữa viết hoa (to), cách thứ 2 ở giữa nhỏ. _ Sách vở đă dậy rằng danh từ chung th́ không viết hoa, c̣n danh từ riêng là phải viết hoa, tên người là danh từ riêng th́ phải viết hoa, viết tất cả họ, tên đệm, tên, dù tên đó dài hay ngắn. Thí dụ ngắn như ông Vơ Kỉnh, dài như cô Công Tằng Tôn Nữ Thị Kim Chi, trung b́nh như Nguyễn Hồng Miên, Trần Tiễn San, Huỳnh Văn Phú v.v.. Đa số các cụ ngày xưa thường dùng tên đệm “văn” cho nam, ư chỉ việc học hành văn chương chữ nghĩa, c̣n “thị” là tên đệm cho phái nữ. Chữ “thị” c̣n có nghĩa là cái chợ, là ồn ào, không biết các cụ nghĩ sao mà lại trọng nam khinh nữ như vậy? V́ có sự hiểu lầm đó là danh tử chung nên không viết hoa hai chữ đệm “văn” và “thị”, điều đó không đúng. Nguyễn Hồng Miên, chữ “Hồng” là tên đệm, viết hoa th́ tại sao lại viết Phạm văn Phú? Văn cũng là tên đệm vậy, cũng là chữ ở giữa, không lẽ có sự kỳ thị hay so sánh? Tóm lại, tên người là viết hoa tất cả _ Thế c̣n Cần Thơ, Cần thơ hay cần Thơ? Hạ Lào, Hạ lào hay hạ Lào? Quảng Trị hay Quảng trị? _ Rơ là bạn bị tẩu hỏa nhập ma rồi. Ngay từ tiểu học, văn phạm đă dạy chúng ta phải viết hoa những danh từ riêng, không viết hoa những danh từ chung, cứ theo nguyên tắc này mà đi th́ không bị lạc đường. Cần Thơ là danh từ riêng, tên riêng một thành phố, Hạ Lào là tên riêng một địa danh, cả thế giới chỉ có một tên Cần Thơ thôi, vậy th́ phải viết hoa cả hai chữ Cần và Thơ, ai viết Cần thơ, cần Thơ là không đúng. Hạ Lào, chứ không phải Hạ lào, tệ hơn nữa là viết “hạ Lào”. Cũng thế, phải viết hoa cả 2 chữ Quảng Trị. _ Thế c̣n câu này: “Tôi sinh ở Tỉnh Mỹ Tho, Quận Cai Lậy” th́ thế nào? _ Những danh từ chỉ xóm làng, xă, quận, huyện, tỉnh, thành phố, thủ đô, chùa, nhà thờ, thánh thất v.v.. đều là những danh từ chung. Có biết bao nhiêu cái xóm, nào là xóm Ông Năm, xóm Bà T́nh, xóm Chị Quư v.v.. văn phạm đă dạy không viết hoa, trừ khi nằm ở đầu câu hay sau dấu chấm. Tỉnh cũng là danh từ chung, không viết hoa, v́ vậy phải viết là tỉnh Mỹ Tho, quận Cai Lậy. Tôi ghi lại đoạn văn sau đây để xin thầy giải thích về những chữ gạch đít nên viết hoa hay không? “Rời hậu cứ ở Xă Khoai Hà, Quận Thủ Thừa, trực chỉ về tỉnh Phong Dinh, nghỉ qua đêm ở thị trấn Cái Răng. Hôm sau từ Phi Trường Trà Nóc được trực thăng vận vào vùng chiến trận”. Như đă nói ở phần trên th́ những chữ xă, quận, tỉnh, thị trấn, phi trường đều là danh từ chung, không cần viết hoa. Trong đoạn văn trên, tác giả đă không dựa vào luật, mà viết “hoa và không hoa” tùy hứng, cùng là danh từ chung th́ viết Xă Khoai Hà, Quận Thủ Thừa, nhưng lại tỉnh Phong Dinh. Thế “nà” thế “lào”? _ Thưa thầy và thưa quan DinhDauBac, con xin trích nguyên văn câu sau đây trong tập san BĐQ số 32 để xin thầy và quan chỉ dẫn về mấy danh từ đơn vị viết hoa và không viết hoa (những chữ gạch đít) “Trong trận Ấp Ba, một tiểu đoàn của trung đoàn 9, Sư đoàn 5 BB trong khi xung phong….” _ Coi chừng bị Cọp bắt đấy (bắt chứ không phải bắc). Trong đoạn văn trên, câu “một tiểu đoàn” là nói đến một tiều đoàn nào đó của Trung Đoàn 9 nên không viết hoa là đúng rồi. Nhưng “trung đoàn 9” và “Sư đoàn 5BB” chỉ rơ danh xưng, là danh từ riêng nên cần phải viết hoa. Không viết hoa danh từ “trung đoàn 9” mà lại viết hoa danh từ “Sư đoàn 5 BB” là không công bằng, là nhất bên trọng nhất bên khinh. Đây là tác giả biết nhưng không chú ư mà thôi. Đề nghị câu trên nên viết cho hợp lư như sau: “Trong trận Ấp Ba, một tiểu đoàn của Trung Đoàn 9, Sư Đoàn 5/BB trong khi xung phong ..” Tóm lại các danh xưng đơn vị như tiểu đội, trung đội, tiểu đoàn, sư đoàn, quân đoàn v.v.. đều là danh từ chung, không cần viết hoa, nhưng khi có danh từ chỉ định đi theo sau th́ nhóm danh từ này trở thành danh từ riêng nên viết hoa cho đẹp ḷng nhau. Đó là đơn vị, c̣n về con người th́ sao? Cùng nhau đọc câu này: “Tôi thấy một hạ sĩ làm tài xế cho Đại Tướng”. Trong câu trên, hạ sĩ hay đại tướng đều là danh từ chung, phải được đối xử công bằng như nhau, không có chuyện coi thường hạ sĩ mà nịnh Đại Tướng được. Nhưng nếu hạ sĩ tên là Bé, đại tướng tên là Lớn th́ câu trên nên viết cho đúng để vui vẻ đôi bên là: “Tôi thấy Hạ Sĩ Bé làm tài xế cho Đại Tướng Lớn”. Ngoài ra chúng ta cũng nên để ư đến một số danh từ cần viết hoa như ngày, tháng, hướng, mùa. Thí dụ như Thứ Hai, Tháng Ba, Đông, Tây, Nam, Bắc, Xuân, Hạ Thu, Đông. Những cái rắc rối về lỗi chính tả trong các bài viết tiếng Việt đă được các chuyên viên chữ nghĩa giải đáp, có thể do kinh nghiệm nghề nghiệp, có thể họ căn cứ vào tài liệu, tuy chưa đầy đủ nhưng cũng đă giúp cho chúng tôi rất nhiều điều hữu ích. Có những lỗi rất khó chữa do thói quen địa phương, nhưng có những lỗi rất thông thường nếu người viết chú ư một tư, chịu khó đọc lại th́ có thể tránh được và sửa được, tức là tác giả đă tôn trọng độc giả rồi đấy. Tôi xin ghi tóm tắt lại để quư vị tùy nghi chứ tôi không hề có ư chẻ sợi tóc làm tư làm tám, không hề có ư dám vẽ chuyện và cũng xin quư vị góp ư, bổ sung thêm hầu cùng giúp nhau tránh được những lỗi sơ đẳng. Điều chính yếu tôi muốn nói trong bài viết này là mượn câu chuyện “cái dấu phẩy” để “phết” vào đít những ai khi thấy danh từ mới XHCN là vội vàng vồ lấy mà dùng. “Thấy sang bắt quàng làm họ” đă là điều đáng chán, chữ nghĩa XHCN không sang, chẳng sáng mà tối ṃ, có khi lại lộn lèo vậy mà một số báo chí và xướng ngôn viên các đài phát thanh hải ngoại cứ nhận là bà con! Thu em hỏi quá! Ừa, thôi th́ mấy người này thấy ngôn ngữ XHCN đo-đỏ th́ cũng ráng nói theo, viết theo, làm theo cho có vẻ đỏ đít một tư, nhưng c̣n những người anh em tôi, đồng đội tôi, những người gốc lính th́ hà cớ chi mà dính vào những thứ “bân hỏi bẩn” này! Thật là ngứa tai, chói mắt khi một số đồng đội của tôi nói và viết cái thư ngôn ngữ thổ tả này. Có ông c̣n cố bào chữa rằng v́ ở tù lâu nên quen mất rồi! Nguy hiểm là ở chỗ này đây, “cải tạo” lâu ngày chuyện sai trái cũng thấy quen quen!. Chẳng phải tôi cực đoan, cái ǵ dính tới VC là chê đâu, thực ra cái ǵ của họ hay hay th́ tôi cũng phải khen chứ, thí dụ như họ dùng chữ “cải tạo” để nhốt những người vô tội. Rất nhiều vị chê chữ “cải tạo” mà tự nhận ḿnh là “tù”, đó là quyền của quư vị, riêng tôi “tù” là phải đi với “tội”, cả thế giới này đều bỏ tù kẻ phạm tội, trừ VC, không nhốt kẻ cướp của công mà dùng chữ “cải tạo” để nhốt người vô tội! Tôi đếch có tội ǵ cả nên không nhận là tù. Tù có thời gian, dù 1 ngày đến 1 thế kỷ, cỏn “cải tạo” là không hạn định, khi nào tiến bộ th́ được về. Tôi xin kể câu chuyện vui mà quư vị đă nghe nhiều lần về cái đáng sợ của 2 chữ “cải tạo” “Ba nhà lănh đạo Pháp, Mỹ, Liên Sô đi dạo phố Bombay, xứ thờ ḅ, nhưng bị đàn ḅ nghênh ngang giữa đường, TT Pháp xin ḅ nhường đường sẽ bồi thường “La vache qui rit”. Nghe TT Pháp nói thế đàn ḅ bèn cười hô hố. TT Mỹ năn nỉ ḅ tránh ra sẽ cho nhiều dollars, đàn ḅ giở thói cao-bồi nghinh lại. Tổng bí thư Nga ghé tai nói nhỏ, đàn ḅ té đái văi cứt ù té chạy bán sống bán chết. TT Pháp, Mỹ quá đỗi ngạc nhiên hỏi lư do, Nga bảo: “Thứ nhất tôi nói tiếng súc vật, thứ hai tôi bảo chúng tránh ra, nếu không th́ tôi cho đi cải tạo”. Vậy th́ XHCN dùng chữ “cải tạo” đối với chúng ta là “hay” lắm đấy. Cải tạo là nạo óc, ghê gớm hơn tù nhiều, ghê gớm đến độ ngu như ḅ mà c̣n sợ té đái, huống chi người. Nó “hay” ở chỗ VC dấu kín được cái ác độc hơn tù nên tôi mắc nỡm, t́nh nguyện đi “cải tạo”! Có bác luật sư kết tội rằng tôi khen “cải tạo” là tầm bậy, phải nói là “đi tù”. Thưa cái đó là tùy quan niệm cá nhân, ls thích coi ḿnh là tù th́ tùy. Về cách dùng chữ mới, cũng có nhiều bác thanh minh rằng chữ này chữ nọ có trong tự điển, đâu phải là của VC. Tôi hoàn toàn đồng ư, thí dụ như những chữ “tiếp cận”, “đăng kư” “thân thương” “khẩn trương” v.v.. có trong tự điển, nhưng thời VNCH chúng ta không dùng, hoặc chỉ dùng vào những trường hợp chính xác mà thôi, nay nó xuất hiện tùm lum theo XHCN mà các bạn lại theo đuôi th́ chán mớ đời. Chúng ta có dùng chữ “khẩn trương”, t́nh trạng khẩn trương, nhưng không bao giờ nói “đái khẩn trương lên”. Xuống xóm ngắm hoa Mai, Lan, Cúc, Huệ mà nghe các em dục “khẩn trương lên anh” th́ chán chết. Tạm thông cảm, nhưng c̣n những cái quá sai, quá ngược đời, lộn lèo mà cũng nhắm mắt làm theo là sao? Nghe VC than “thiếu đói” là hải ngoại ào ào quyên góp dollars để cứu tụi “thiếu đói” ư?. Chả hiểu tiếng Việt ǵ cả! Báo chí trong nước loan tin nhiều xe hơi đụng nhau “liên hoàn” trên xa lộ, nghe hoàn-hoàn là các bác cứ “hoàn” theo! Sai hoàn toàn, khi nào xe trước ṿng quay đầu lại húc vào đít xe sau th́ mới gọi là liên hoàn. Tại sao không dùng chữ “liên tiếp”? Cầu thủ Backham “vào bóng bẳng gầm giầy” là cái quái ǵ vậy? Gầm là gầm giường c̣n giầy th́ là “đế”. Có thế thôi mà cũng bày đặt sáng tạo đỉnh cao trí tuệ! Khổ quá đi thôi, chuyện của “người ta” th́ kệ chúng, không nên xen vào nội bộ của họ, c̣n chúng ta, những quân nhân VNCH th́ hăy tránh xa chữ nghĩa XHCN đi. Nói hoài nói măi th́ các anh lại bảo tôi nói nhiều, đàn ông mà sao lắm mồm lắm miệng thế! Nhưng không nói, không nhắc nhở nhau để giữ ǵn tiếng Việt cho trong sáng th́ thật buồn. Mất nước là mất tất cả, danh ngôn của TT Thiệu, đă mang kiếp lưu vong tỵ nạn CS, chỉ c̣n một chút tiếng Việt để nhớ để thương mà cứ tự nguyện cho chữ nghĩa VC xâm lăng vào nữa th́ thật lăng nhách. Tôi xin trích một vài đoạn văn “tiệc-tác” trong các tác phẩm mà tác giả là gốc lính với cấp bậc cao cao để mời huynh đệ thưởng thức: 1. Ta phải dùng hỏa lực từ xa bằng súng SKZ57 và 2 cây đại liên 30 bắn khống chế đám VC đang có mặt từ trên cao để tiếp tục tiến vào. ….Tôi đề nghị ĐĐ vẫn tiếp tục khống chế hỏa lực từ trên cao của địch bằng 2 cây SKZ 57 …(trích nguyên văn trong bài Nghiệp Lính) “Khống chế” có hay không có trong tự điển tiếng Việt tôi không cần biết mà chỉ biết nó xuất hiện ở trong nước sau 30/4/75 mà thôi, vậy mà đại bàn(g) đang là tỵ nạn CS ở hải ngoại lại vồ lấy mà dùng th́ cam đảm thật! Tiếng Việt Nam Cộng Ḥa thiếu ǵ chữ hay ho thay cho chữ “khống chế” chết tiệt này. 2. Đă mấy tiếng đồng hồ rồi mà chưa có trực thăng đế tải thương, nh́n những anh em bị thương đang rên la cùng những poncho bọc thây đang căng dần lên v́ sức nóng mà tôi bức xúc. (trích Hạ Lào). Đoạn văn thật đúng và hay để diễn tả một t́nh trạng đau ḷng, bi thảm của lính trận trong cuộc chiến, vậy mà tác giả nỡ đem 2 chữ VC vào làm đau ḷng lính VNCH! Có biết bao nhiêu ngôn ngữ hay để tác giả biểu lộ cảm xúc, thí dụ như: bực ḿnh, khó chịu, phiền hà, lấn cấn, áy náy, giận dữ, lo âu, đau đớn, muốn văng tục, muốn chửi thề, muốn nổi điên và tục-tục một chút là là là chửi thề đ..m.. Có biết bao nhiêu chữ để dùng, vậy mà bạn viết trong tác phẩm của bạn 2 chữ “bức xúc” khiến tôi cũng muốn “bực và xục” theo. Xin lỗi các đại “bàn” nha. Captovan. |
Nghe độc tấu
Tay chơi đàn khó kiếm |
Và câu chuyện như sau
2 Attachment(s)
Những Nén Hương Thắp Muộn Trên Đỉnh Tiền Đồn 5
(Xin phép Tác Giả được post câu chuyện thật cảm động) Đang tản bộ trong một công viên ở London với mấy đứa cháu ngoại, tôi bất ngờ nhận được tin nhắn từ Việt Nam qua Viber. Khi ấy ở Việt Nam đúng 11 giờ trưa ngày 28.7.2019: -Cháu đă nh́n thấy ngọn núi Tiền Đồn 5 ngay trước mặt và đang chuẩn bị vượt con suối để đến đó, chỉ c̣n cách chừng hơn một cây số. Gần một giờ sau, tôi nhận mấy tấm ảnh và vài cảnh phim được quay bằng điện thoại trên đỉnh Tiền Đồn 5. Bây giờ chỉ là một khung cảnh hoang tàn, đầy lau sậy, vương văi một số mảnh bao cát, mấy đoạn kẽm gai concertina, đế của một chiếc giày trận và một vài chiếc vỏ đạn rỉ sét. Tôi cảm động hơn khi h́nh ảnh người con trai tật nguyền, chỉ c̣n một cánh tay trái, đang qú lạy tứ phương với một bó nhang nghi ngút khói hương. Và đó cũng chính là người vừa nhắn tin và gởi những h́nh ảnh cho tôi. Cháu Nguyễn Thế Vinh đang đứng trên vị trí mà cha cháu đă hy sinh và nằm lại đây đúng 45 năm, bây giờ đứa con trai mới biết được nơi này. Khi các chiến thắng liên tục của những người lính Việt Nam Cộng Ḥa vào mùa Hè 1972, không những đă giữ vững được thành phố Kontum mà c̣n gây thiệt hại rất nặng nề cho các đại đơn vị thuộc Mặt Trận B-3 của Cộng Sản, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn F 10, Sư Đoàn 2 và sau này có thêm Sư Đoàn tân lập 968. Tất cả buộc phải rút về vùng biên giới Tây Nguyên và Lào để tái lập, bổ sung, th́ bất ngờ Hiệp Định mạo danh Ḥa B́nh được Hoa Kỳ và Bắc Việt thỏa thuận kư kết tại Paris vào ngày 27/1/1973, sau khi chính phủ Nixon đă đi đêm, mặc cả với Trung Cộng, bất chấp sự phản đối của chính quyền Nam Việt Nam. Hiệp định này chẳng khác nào một huyệt mộ được đào lên nhằm chôn sống VNCH. Các vùng địch xâm chiếm bỗng dưng trở thành an toàn khu của chúng. Nhiều sư đoàn cùng với chiến xa vũ khí hạng nặng, nhiên liệu, đạn dược từ miền Bắc ồ ạt xâm nhập công khai vào Nam theo đường ṃn Hồ Chí Minh, cùng lúc Quốc Hội Mỹ cắt hết mọi viện trợ quân sự cho VNCH. Đầu năm 1974, lợi dụng t́nh thế bất lợi này của VNCH, Bắc Việt đă tung đại quân tràn ngập, ngang nhiên lấn chiếm một số căn cứ, đơn vị của ta. Đặc biệt tại các vùng mà lực lượng của chúng được phép nằm lại theo hiệp định Paris quái đản, trong khi Hoa Kỳ và tất cả các nước cùng kư tên trong bản hiệp định đều im tiếng, không một lời phản đối. Đặc biệt, mặc dù Dak Tô, Tân Cảnh đă bị Cộng quân lấn chiếm từ cuối tháng 4/ 72, nhưng Căn cứ Biên pḥng Dak Pek và Chi khu Dak Pek vẫn đứng vững nhờ hệ thống công sự liên hoàn kiên cố và tinh thần chiến đấu vô cùng dũng mănh của các chiến sĩ Biệt Động Quân. Qua rất nhiều lần tấn công, địch quân đều thảm bại. Căn cứ Dak Pek nằm ngay giữa ngă ba biên giới Miên-Lào-Việt, án ngữ con đường huyết mạch của Cộng quân, cách thị xă Kontum 98 cây số về hướng Tây Bắc, được pḥng thủ bởi Tiểu Đoàn 88 Biệt Động Quân Biên Pḥng của Thiếu Tá Vơ Ngọc Di, bên cạnh là Chi Khu Dak Pek được bảo vệ chỉ một đại đội ĐPQ và khoảng 8 trung đội Nghĩa Quân. Cuối tháng 4/72, sau khi Cộng quân chiếm Dak Tô, Tân Cảnh, Dak Pek trở thành một tiền đồn cô lập, nằm giữa ḷng địch, việc tiếp tế chỉ giới hạn bằng phi cơ. Ngày 15.5.1974, Cộng quân tập trung một lực lượng hùng hậu cấp sư đoàn, do tướng CS Vương Phú, Tư Lệnh Phó Mặt Trận B-3 tổng chỉ huy, gồm Trung Đoàn 3 (ĐoànThuận Hóa) thuộc Sư Đoàn 324 được điều động từ A- Lưới, Trị Thiên vào Tây Nguyên, phối họp cùng Trung Đoàn 66 (Đoàn Pleime) của Sư Đoàn 10, Trung Đoàn 40 Pháo hạng nặng, Trung Đoàn 37 Pḥng Không, được tăng cường một tiểu đoàn đặc công, và đại đội chiến xa T 54, tràn qua sông Pô-Kô đánh chiếm Căn cứ Dak Pek và Chi Khu Dak Pek. Căn cứ thất thủ chiều ngày 16.5. 74, sau gần hai ngày chống trả một lực lượng địch gấp 20 lần. Sau đó, để tránh đụng độ với các đơn vị chủ lực của ta, gồm Sư Đoàn 23 BB và các Liên Đoàn BĐQ hoạt động ở phía Bắc và Tây Bắc Kontum, chúng kéo xuống phía Đông Nam bao vây Măng Buk, đồng thời tăng cường lực lượng địa phương, tiếp tục tấn công về hướng thị xă Kontum, cô lập Chương Nghĩa (Platoni), Măng Đen nằm về hướng Ba Tơ, Quảng Ngăi. Khu vực này hoàn toàn do lực lượng ĐPQ của Tiểu Khu Kontum đảm trách. Tiền Đồn 5 trở thành pḥng tuyến đầu để ngăn chặn làn sóng xâm lăng của Cộng Sản. Đây là một trong dăy tiền đồn của Tiểu Khu Kontum, nằm phía Đông Bắc, cách thị xă Kontum khoảng 15 cây số đường chim bay, trên một ngọn đồi có cao độ đúng 1200 mét (so với mực nước biển trung b́nh), và cách con đường tỉnh lộ nối liền Kontum – Quảng Ngăi (khi ấy đang bỏ hoang) khoảng bốn cây số, được pḥng thủ bởi một tiểu đoàn ĐPQ của Tiểu Khu Kontum. Đầu tháng 6/1974, Cộng quân mở nhiều đợt pháo kích, bao vây Tiền Đồn 5 nhằm tiêu diệt lực lượng trú pḥng và phục kích các đơn vị tiếp viện của Tiểu Khu. Lực lượng và vũ khí quá chênh lệch, bên ta bị thiệt hại nặng. Nhờ Không yểm, tiểu đoàn trú đóng mở đường máu di tản, nhưng hơn một nửa quân số bị tổn thất, hai đại đội đóng quân bên ngoài phải phân tán, thất lạc. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chỉ định Sư Đoàn 23 Bộ Binh mở các cuộc hành quân khẩn cấp giải tỏa áp lực địch và sau đó đưa một tiểu đoàn đến trú đóng tại Tiền Đồn 5, thay thế cho đơn vị ĐPQ đă phải triệt thoái, nhằm ngăn chặn đường tiến quân của địch. Tiểu Đoàn 1/44 nhận lănh trách nhiệm gay go này ngay sau khi có một vị chỉ huy mới, Đại úy Dương Đ́nh Chính (Khóa 20 Vơ Bị) vừa thay thế Thiếu Tá Phan Văn Khánh (Khóa 12 Vơ Bị) đi nhận nhiệm vụ mới. Ngày 12.7.1974, Tiểu Đoàn 1/44 được trực thăng vận xuống Tiền Đồn 5, vừa củng cố lại công sự pḥng thủ đă bị phá hủy bởi các cuộc pháo kích và tấn công của địch, vừa hành quân tảo thanh chung quanh căn cứ để hổ trợ Tiểu Đoàn ĐPQ t́m gom những binh sĩ c̣n đang thất lạc. Do vị tiểu đoàn trưởng ĐPQ mang cấp bậc thiếu tá, nên khó khăn trong việc chỉ huy, phối hợp, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn chỉ thị Trung Đoàn 44 BB phải thành lập ngay một Bộ Chỉ Huy Nhẹ đến Tiền Đồn 5 để chỉ huy tổng quát. Ngày 14/7/1974, BCH Nhẹ gồm Thiếu Tá Lê Thái Như, Phụ Tá Hành Quân của Trung Đoàn Trưởng cùng một toán tháp tùng được thả xuống Tiền Đồn 5, trong số này có Đại úy Nguyễn Đức Vinh, là sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233 PB. Thiếu Tá Lê Thái Như nguyên là Quận Trưởng Quận Phụng Hiệp (Phong Dinh) vừa mới thuyên chuyển đến Trung Đoàn 44 BB, chưa có chức vụ chính thức, tạm thời làm sĩ quan phụ tá hành quân cho Đại Tá Phùng Văn Quang và sau đó là Trung Tá Nguyễn Hữu Lữ, Trung Đoàn Trưởng. Lúc này trên Tiền Đồn 5, ngoài BCH Nhẹ Trung Đoàn 44, BCH Tiểu Đoàn 1/44 và Đại Đội Chỉ Huy Yểm Trợ, được bảo vệ bởi Đại Đội 2/1 của Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang, Quyền Đại Đội trưởng. Các đại đội c̣n lại hoạt động ở các cao điểm và hành quân lưu động chung quanh, cách Tiền Đồn 5 từ 2 đến 5 cây số. Hai ngày sau, các công sự pḥng thủ chưa được sửa chữa xong, vào sáng sớm ngày 16.7.1974, khi sương mù c̣n đang phủ kín cả một vùng núi non và thung lũng, Cộng quân pháo kích dồn dập vào Tiền Đồn 5 từ nhiều hướng khác nhau trong suốt một tiếng đồng hồ bằng đủ các loại pháo 120 ly, 122ly và 155ly bắn thẳng. Lúc này, Pháo Binh của ta đă bị hạn chế tác xạ v́ không c̣n đủ đạn dược và Không Quân cũng không thể yểm trợ được bởi thời tiết quá xấu. Ngay những loạt đạn pháo đầu tiên, hầm chỉ huy bị sập, hệ thống truyền tin bị phá hủy và một số đông quân trú pḥng đă bị tử trận, trong số đó có Đại úy Dương Đ́nh Chính, Tiểu Đoàn Trưởng, Đại úy PB Nguyễn Đức Vinh và Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang, Q.Đại Đội Trưởng ĐĐ 2/1. Riêng Thiếu Tá Lê Thái Như bị thương nhẹ, chạy thoát ra ngoài, nhưng bị bắt làm tù binh sau đó. ( Năm 1976, khi bị chuyển tù ra miền Bắc, người viết bất ngờ gặp lại Thiếu Tá Lê Thái Như ở Trại 6 Nghĩa Lộ. Chính Thiếu Tá Như đă kể lại chi tiết trận đánh này). Cộng quân tràn ngập. Tiền Đồn 5 trở thành một địa điểm “oanh kích tự do” sau đó. Tất cả tử sĩ đều phải đành vùi thây nơi chiến địa. Gia đ́nh họ nhận “Tờ Tŕnh Ủy Khúc” (một h́nh thức báo tử) để chỉ biết người thân của ḿnh đă hy sinh tại một địa danh xa lạ nào đó, với tọa độ AR 863-994 mà chỉ có những nhà quân sự mới có thể biết được. Bà quả phụ Nguyễn Xuân Quang cũng nhận được “Tờ Tŕnh Ủy Khúc” như thế, nhưng bà không tin là chồng đă chết. V́ trước đây, vào giữa năm 1973, bà cũng nhận được giấy báo tử tương tự, nhưng sau đó mấy tháng th́ bất ngờ nhận được tin chồng c̣n sống và đang được điều trị tại quân y viện Quảng Ngăi. Lần đó, Thiếu úy Quang bị địch bắt tại trận Ngô Trang, phía Bắc Kontum, nhưng v́ anh bị thương khá nặng, nên địch quân bỏ anh lại trên đường áp giải tù binh ra Quảng B́nh, họ nghĩ là anh sẽ chết, nhưng anh đă may mắn được trực thăng bên ta phát hiện cứu sống. Sau khi được điều trị lành vết thương, anh xin trở lại đơn vị cũ tiếp tục chiến đấu. Thiếu úy Quang ra đi, để lại cho người vợ trẻ bốn đứa con thơ. Cháu lớn nhất chín tuổi và đứa út chưa tṛn một tuổi. Cuối tháng 3/75 gần cả miền Trung lọt vào tay Cộng sản sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và cuộc di tản trên Tỉnh Lộ 7B đă trở thành một nỗi kinh hoàng. Cuối cùng đến ngày 30/4/75 cả miền Nam cũng hoàn toàn bị nhuộm đỏ. Kể từ đó, những mồ mả của tử sĩ miền Nam được chôn cất tại các nghĩa trang trong thành phố c̣n bị CS đập phá, san bằng, th́ chuyện đi t́m những người thân hy sinh trên các vùng núi non vô danh xa lạ, như Tiền Đồn 5 đă trở thành câu chuyện hoang đường. Hơn nữa ở thời điểm ấy, người sống chưa giữ được mạng ḿnh th́ làm sao c̣n có thể lo cho người đă chết. Bà Nguyễn Xuân Quang không c̣n cách nào khác, rời bỏ ngôi nhà nhỏ bên khu trại gia binh Sông Mao, dắt bốn đứa con thơ về tá túc nhà cha mẹ ở Phan Thiết. Khổ nỗi, bà c̣n có người anh là một sĩ quan cấp tá tốt nghiệp (Khóa 16) Trường Vơ Bị Đà Lạt và hai cậu em đều là sĩ quan Thủ Đức, nên cha mẹ bà cũng bị đuổi ra khỏi nhà. Bây giờ ông bà già phải cưu mang cả cô con gái và bốn đứa cháu ngoại tuổi c̣n thơ dại. Ông bà, con cháu cùng dắt díu nhau, bỏ thành phố Phan Thiết thân yêu, chạy về vùng quê Chợ Lầu, dựng tạm căn nhà lá bên bờ sông Lũy, kiếm sống qua ngày bằng khoai sắn tự trồng và cá lưới dưới ḍng sông. Vậy mà cuộc sống lang bạt ấy vẫn chưa một ngày yên ả. Những hành xử và lời nói khắc nghiệt của những người bên thắng cuộc đă làm cho bà Quang không c̣n con đường sống. Bà đă uống mấy chai thuốc rầy để chết đau đớn trước mặt cha mẹ ḿnh và bốn đứa con thơ. Bà xin lỗi v́ đă để lại cho cha mẹ già một gánh nặng, và xin lỗi các con đă phải đành ḷng bỏ con lại bơ vơ, bà không thể bắt các con phải chết theo ḿnh. Sau đó vài năm, đứa con trai lớn cũng đă uống thuốc rầy theo mẹ. Đứa con trai thứ nh́, Nguyễn Thế Vinh, năm 1975 mới lên năm, bây giờ trở thành người phụ giúp đắc lực cho ông ngoại trong cuộc mưu sinh đầy khốn khó. Nhưng đau đớn thay, “họa vô đơn chí”, năm chín tuổi, khi chăn hai con ḅ của Hợp tác xă, lấy mấy kư lúa phụ ông ngoại, Vinh bị té xuống đất từ trên lưng ḅ. Cánh tay phải bị găy. Do không có thuốc thang và băng bó không đúng cách, cánh tay bị nhiễm trùng, hoại tử phải bị cắt bỏ đến gần bả vai. Ông bà ngọai lần lượt qua đời, mấy chị em Vinh lại được bà d́ Út không lấy chồng, ở vậy cưu mang. Dù khốn khó, bữa no bữa đói, nhưng Vinh không chịu bỏ học hành. Bị tật nguyền, nhưng cậu bé lên mười vẫn thừa hưởng ư chí sắt đá của người cha để lại, Vinh vượt qua tất cả khó khăn, làm đủ thứ nghề để học hành thành đạt, mặc dù với cái lư lịch rất “đen”, Vinh không chút hy vọng ǵ ḿnh có thể được ngoi lên trong một xă hội đang c̣n đầy dẫy những đố kỵ, hận thù. Đỗ Đại học Kinh tế ưu hạng, nhưng không kiếm được việc làm. Ngày tốt nghiệp có hai ba nơi gởi thư chọn Vinh khi thấy số điểm tối ưu của Vinh, nhưng không bao giờ gọi Vinh đi nhận việc. Vinh đi dạy kèm, mở các lớp luyện thi, và đặc biệt hơn, Vinh đă thành công bằng nghề tay trái – với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: Đánh đàn – tất nhiên chỉ bằng tay trái. Những năm c̣n nhỏ, đặc biệt khi cậu hai Minh vừa trong tù cải tạo trở về, như để giải sầu trước một tương lai mịt mờ đen tối, ông thường ngồi đàn trong đêm vắng, lúc chỉ c̣n có hai cậu cháu. Vinh đă say mê, v́ dường như chỉ có tiếng đàn mới làm tan biến những đau buồn, trắc ẩn trong ḷng, làm cho Vinh tạm quên đi bao nỗi bất hạnh khi tuổi đời mới lớn, mà chung quanh tưởng chừng chỉ c̣n là bóng tối luôn bao trùm chụp phủ lấy Vinh. Chuyện đàn guitar bằng một tay mà lại là tay trái là một điều không tưởng, nhưng rồi với đam mê và ư chí, Vinh đă thành công. Tài năng và nổ lực phi thường của cậu bé chưa thành niên đă được Nhạc sĩ Nguyễn Ánh Chín biết tới, nâng đỡ, chỉ dạy thêm, và cuối cùng chính ông đă giới thiệu Vinh đến đàn cho Pḥng Trà ATB của nữ ca sĩ Ánh Tuyết. Sau đó Vinh được một số đài truyền h́nh mời biểu diễn. Người nhạc sĩ một tay, đàn guitar bằng tay trái và thổi harmonica, đặc biệt những bản t́nh ca của Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng đă làm rung động ḷng người, được cả nước tán dương. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là điều mà mọi người biết đến để ngưỡng mộ Nguyễn Thế Vinh như sau này. Từ lúc bỏ Sài g̣n lên Bến Cát, B́nh Dương mở các lớp dạy kèm và luyện thi đại học, Vinh có dịp được gặp nhiều học sinh nghèo, mồ côi, tật nguyền nhưng hiếu học. Suy nghĩ từ thân phận của chính ḿnh, Vinh đă vận động bạn bè, đi khắp nơi kêu gọi những nhà hảo tâm, đứng ra mở Trung Tâm Hướng Dương, bảo bọc, nuôi dạy trên một trăm các em học tṛ nghèo, mồ côi và khuyết tật. Bây giờ thầy giáo Vinh trở thành chủ gia đ́nh Hướng Dương, là cha, là anh cả của đám học tṛ mà chính Vinh đă đi khắp nơi, những vùng xa xôi, nghèo khổ để gom góp dắt díu về đây nuôi dạy. Đến hôm nay, trong số những học tṛ ấy, đă có nhiều em tốt nghiệp đại học, trên ba mươi em du học tại Nhật Bản, một em du học tại Úc Châu và một em đang du học tại Hoa Kỳ. Cậu bé, có cha là lính VNCH tử trận khi chưa tṛn bốn tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm lên bảy, mất cánh tay phải từ năm lên chín, giờ trở thành người nổi tiếng được bao nhiêu người trong và ngoài nước yêu thương cảm phục. Nhưng Vinh vẫn vậy, hiền lành, nhân hậu, chân chất, không ai t́m thấy trong nụ cười đôn hậu của Vinh một nét kiêu hănh hay mối hận đời nào. Điều đáng phục hơn, trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay cả khi được các đài truyền h́nh và báo chí trong nước phỏng vấn, lúc nào Vinh cũng hănh diện để nói về người cha quá cố, một sĩ quan QLVNCH đă hết ḷng chiến đấu và hy sinh cho lư tưởng của ḿnh. Để có đủ tiền trang trải việc điều hành và nuôi dạy các em tại Trung Tâm Hướng Dương, hằng năm Vinh đều phải đi vận động, tŕnh diễn khắp nơi ở hải ngoại, qua chương tŕnh “Góp Lá Mùa Xuân” từ Úc, Âu, Á đến Mỹ Châu, phối họp với các cơ quan từ thiện khác, đặc biệt cùng tham gia tổ chức “Ngọc Trong Tim”, Vinh được mọi nơi hưởng ứng và hỗ trợ hết ḷng. Đến đâu Vinh cũng hănh diện để nói về người cha của ḿnh, một sĩ quan VNCH đă anh dũng hy sinh. H́nh ảnh người cha khá mơ hồ trong kư ức nhưng lại là một động lực để Vinh đứng lên từ nỗi bất hạnh tột cùng, và giúp tha nhân bằng tất cả trái tim ḿnh. Tâm sự với bạn bè, Vinh bảo, điều hạnh phúc nhất của Vinh là nghĩ cha mẹ đang dơi bước chân ḿnh và mỉm cười nơi chín suối. Tháng 7/ 2019 trong dịp đến Úc Châu, Vinh cũng tŕnh bày về cái chết của cha và ước mong được liên lạc với những người đồng đội cũ cùng đơn vị của ông ngày trước để được biết tường tận hơn về cái chết và địa điểm nằm xuống của cha ḿnh. “Tờ tŕnh ủy khúc” cũng đă thất lạc sau ngày mẹ Vinh qua đời. Vinh được Luật sư Nguyễn Văn Thuần giới thiệu đến tôi, v́ Thuần là người bạn đồng hương khá thân, biết tôi từng phục vụ gần mười năm ở Trung Đoàn 44 BB, đơn vị cuối cùng mà cha của Vinh, Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang đă hy sinh. Vợ chồng LS Nguyễn Văn Thuần cũng là những người có nặng tấm ḷng, tích cực hỗ trợ tổ chức “Ngọc Trong Tim”, gom góp yêu thương mang đến cho những người khuyết tật cùng các anh Thương Binh VNCH c̣n đang sống khốn khổ ở quê nhà. Tôi liên lạc với Vinh qua điện thư, rồi qua điện thoại. Ngay sau khi biết rơ cấp bậc, tên họ và đơn vị cuối cùng của người đồng đội Nguyễn Xuân Quang, tôi liên lạc hỏi thăm một số bạn bè cùng Tiểu Đoàn 1/44 với anh Quang lúc xưa, được biết chắc chắn là anh Quang đă hy sinh tại Tiền Đồn 5 ở Kontum. Tôi nhớ ngay đến trận đánh tại địa danh này qua lời kể của Thiếu Tá Lê Thái Như, lúc chúng tôi bất ngờ gặp nhau tại trại tù số 6 ở Nghĩa Lộ. Thiếu tá Như là người may mắn sống sót và bị bắt làm tù binh trong trận này. Tôi c̣n nhớ mang máng Tiền Đồn 5 nằm không xa, nh́n xuống con đường đất nối liền Kontum – Quảng Ngăi, lúc ấy bỏ hoang v́ chiến tranh, nhưng không biết ở quăng nào, thuộc địa danh nào, hơn nữa thời gian đă quá lâu, hơn 45 năm rồi, có biết bao biến đổi. Tôi t́m cách liên lạc với một số sĩ quan thâm niên ở Tiểu Khu Kontum, may mắn gặp một anh đồng hương với vợ tôi, trước kia anh là Đại úy Chi Đoàn Trưởng Chiến Xa M-48, v́ phản đối một khẩu lệnh hành quân của cấp chỉ huy mà anh cho là vô lư, chắc chắn sẽ đưa Chi đoàn của ḿnh vào sa lầy, thảm bại, như trường hợp một chi đoàn bạn, anh bị kỷ luật, cho ra khỏi binh chủng, chuyển về Tiểu Khu Kontum giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn ĐPQ. Anh đă từng đóng quân tại Tiền Đồn 4, Tiền Đồn 5, và giữa tháng 10/1974, đơn vị anh bị địch quân tràn ngập ở Chương Nghĩa, anh bị bắt làm tù binh, khi ấy anh vừa được thăng cấp Thiếu Tá hơn một tháng. Anh ngồi vẽ lại vị trí Tiền Đồn 5 cho tôi, và để bảo đảm chính xác hơn, anh gọi cho một anh trung úy, đại đội trưởng dưới quyền của anh lúc xưa, là người Kontum và cũng đă từng đóng quân một thời gian dài tại Tiền Đồn 5. Trí nhớ anh bạn này rất chính xác. Tôi liền viết một điện thư khá dài cho Vinh : “Hai hôm nay, chú đă liên lạc với chú Sơn, chú Khanh (ở cùng Tiểu Đoàn 1/44 với ba cháu) và vài người khác, đă tham dự các trận chiến trong cùng thời gian, cùng và chung quanh địa điểm mà ba cháu đă hy sinh, đặc biệt trong số này có người từng sinh ra, lớn lên và đi lính tại Tiểu Khu Kontum. Đến hôm nay chú và chú Sơn, chú Khanh đă có được một số chi tiết tương đối chính xác về trường hợp hy sinh của ba cháu. Ba cháu hy sinh tại Tiền Đồn 5 (khác với Căn Cứ 5 ở Tân Cảnh). Tiền đồn này nằm bên con đường từ Kontum đi Quảng Ngăi (lúc ấy bỏ hoang, không sử dụng từ lâu v́ chiến tranh), bây giờ là Quốc Lộ 24. Tiền Đồn 5 này nằm cách Thị Xă Kontum khoảng 15 km, gần khu vực Kon Xom Luh, giữa 2 địa danh có tên Kon Cha Re và Kon Se Tieu (không t́m thấy tên trên Google Map, có lẽ v́ hai địa danh quá nhỏ). Đặc biệt, tại Kon Xom Luh hiện có nhà thờ Kon Xom Luh.Nếu có dịp đến Kontum, cháu t́m đến nhà thờ này hỏi thăm các vị linh mục, nhờ quí ngài chỉ giúp, hay hỏi thăm người dân địa phương (lớn tuổi) Kon Cha Re và Kon Se Tieu nằm ở đâu. Riêng ngày mất của ba cháu, chú nghĩ trong khoảng 15 đến 30 Tháng Sáu, 1974, nhưng chú Sơn và chú Khanh đang t́m hiểu từ những bạn bè có tham dự trận đánh ấy, để cho cháu một ngày chính xác hơn. Tiếc quá, nếu cháu c̣n giữ ‘giấy báo tử’,lúc ấy được gọi là “Tờ Tŕnh Ủy Khúc”, dành cho người mất tích (Lính hy sinh nhưng không t́m thấy xác đều gọi là mất tích), trong đó có ghi rơ ngày giờ và đặc biệt là tọa độ (địa điểm chính xác nhất) nơi ba cháu hy sinh. Thời gian đă quá lâu, mọi sự đă thay đổi, các dấu tích chiến tranh và cả xương thịt những người lính hy sinh, chắc cũng không c̣n. Tuy nhiên tất cả đều để lại trong ḷng những người c̣n sống như các chú và nhất là cháu, những vết thương khó lành cùng với một nỗi hoài niệm khó nguôi. Các chú xin được thành tâm chia sẻ về sự mất mát và nỗi buồn lớn lao này của cháu và cầu nguyện ơn Trên che chở và giúp cháu t́m lại được những điều mà cháu từng mong ước…” Vinh nhận được email này của tôi lúc đang trên đường ra phi trường Sydney để rời Úc trở về lại Việt nam. Vinh chỉ kịp gởi cho tôi vài hàng tin nhắn qua Viber: -Cháu sẽ lên Kontum ngay sau khi về lại Việt nam, cháu sẽ làm theo lời hướng dẫn của chú. Có ǵ cháu sẽ gọi chú qua Viber. Trời đă không phụ ḷng những con người hiếu thảo, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn giữ được trái tim, đặc biệt đối với một tâm hồn không hề vướng chút bụi bẩn của một xă hội kim tiền, vô cảm, Vinh đă được tất cả mọi người giúp đỡ tận t́nh, từ các vị nữ tu, đến người lính Thượng miền Nam thuở trước và cả những người lái xe ôm nghèo khổ, tận t́nh hướng dẫn và giúp Vinh đến Tiền Đồn 5. Vinh kể: “Cháu đến chân núi của Tiền Đồn 5 là 11 giờ trưa ngày 28 Tháng Bảy, 2019. Lúc đó trời muốn mưa và mây phủ kín hết ngọn đồi của Tiền Đồn 5. Những ngọn đồi thấp hơn nằm chung quanh th́ c̣n thấy thấp thoáng. Nhiều người dân nơi đó lo lắng cho cháu, khuyên không nên lên v́ đường khó đi, nhưng ḷng cháu lại cảm thấy rất nôn nóng, muốn đi liền ngay tức khắc. Với sự giúp đỡ của người dân, hai thanh niên địa phương dùng hai chiếc xe gắn máy mà bánh xe phải ràng dây xích, một chiếc chở cháu, một chiếc chở đồ ăn, thức uống, hoa quả, bắt đầu leo núi. Sau một tiếng leo núi bằng xe Honda qua nhiều đồi khác nhau, khi đến chân đồi của Tiền Đồn 5 th́ không c̣n đường để xe gắn máy chạy nữa, nên cháu bắt đầu đi bộ, vừa đi vừa phải dùng rựa chặt cây mở đường. Sau 30 phút, cháu đến được đỉnh đồi của Tiền Đồn 5. Những bao cát dùng làm chiến hào bị rách nát, vài đế giày bốt-đờ-sô vương văi, những cục pin dẹp nằm chỏng chơ, những cọng kẽm gai phần chôn dưới đất, phần ló lên trên… là những ǵ cháu nh́n thấy trên khoảng đồi trống của Tiền Đồn 5. Cháu có cảm giác dấu tích trận đánh và âm thanh súng đạn năm nào vẫn c̣n hiển hiện, phảng phất nơi đây. Nh́n những ǵ c̣n sót lại đó, cháu cảm thấy rất xúc động. Và thật lạ, là từ lúc lên đây sương mù đă phủ kín hết bầu trời, nhưng khi cháu lấy hoa quả bày ra và thắp bó nhang cho ba cùng các chú, các bác đă nằm lại nơi này, th́ trời lại bỗng dưng ló nắng”. Cuối cùng th́ Vinh cũng đă đến được đỉnh Tiền Đồn 5, nơi mà xác thân Thiếu úy Quang, người cha thân yêu của Vinh đă nằm lại đó từ 45 năm trước, giờ chắc cũng đă tan cùng tro bụi. Quỳ giữa đỉnh đồi vắng lặng, bàn tay trái duy nhất cầm chặt bó nhang, Vinh cúi đầu khấn vái hồn thiêng của cha và những người lính miền Nam đă chết cho quê hương và lư tưởng cao đẹp của ḿnh. Bốn mươi lăm năm, đă trải qua biết bao chia ĺa, khốn cùng, bi thảm, nhưng Vinh đă vươn lên, vượt qua những thử thách cay nghiệt nhất, để ngẩng cao đầu trong một xă hội mà cả gia đ́nh ḿnh từng là nạn nhân, luôn bị bên thắng cuộc cố t́nh xô đẩy ra bên lề xă hội, đến bước đường cùng, bởi một thứ hận thù không c̣n nhân tính. Nhưng cuối cùng, nhờ ḍng máu của người cha c̣n luân lưu trong huyết quản, Vinh đă chiến thắng. Không chỉ thắng được số phận của chính ḿnh, mà cao cả hơn, cũng giống như cha ḿnh và những đồng đội của ông, Vinh đă thắng được ḷng người. Cái thắng xem chừng vinh quang và bất diệt nhất. Vinh đă được mời lên nói chuyện ở các đài truyền h́nh, tọa đàm trong các buổi tu học tại các cơ sở Phật giáo trước hàng vài ngàn Phật tử, được ví như “Cây Xương Rồng Trên Cát”, nói chuyện trong các hội văn nghệ, văn học. Cuốn tự truyện “Ông Giáo Làng Trên Tầng Gác Mái” của Vinh được độc giả cả nước b́nh chọn là “Tác phẩm Xuất Sắc Nhất của năm 2018, với nội dung truyền cảm hứng và động lực nhất để sống và để cống hiến”. Vinh nhận được giải thưởng lớn,100 triệu đồng, và đă góp hết vào ngân quỹ của gia đ́nh Hướng Dương. Trong cuốn tự truyện của ḿnh, Nguyễn Thế Vinh cho biết: “Chính những ngày tháng dạy học cho các trẻ em nghèo, mồ côi, khuyết tật… đă làm nảy nở trong tôi ước mơ về một ngôi trường, cũng là mái nhà cho mấy đứa trẻ thiệt tḥi ấy chui ra chui vào, vừa học chữ, vừa học làm người. Lũ trẻ và tôi sẽ dũng cảm bước đi trên con đường hướng tới tương lai bằng tinh thần tích cực và độc lập nhất”. Một nhà phê b́nh đă viết về cuốn tự truyện của Vinh: “Cuốn sách này kể cho bạn nghe chuyện đời của một “hạt bụi” ngát hương, hết sức hồn nhiên trong cơi trăm năm đi về. Sức sống của “hạt bụi” ấy có thể khiến những ai đang bị cuộc đời dồn ép hoặc thấy ḿnh sắp bị đời xô ngă sẽ kiên cường đứng vững và chân thật mến yêu cuộc đời” Một nhạc sĩ tên tuổi đă từng thổ lộ: “Một lời tử tế chưa đủ để nói về Vinh”. Hầu hết học tṛ của Vinh đều bảo “Thầy Vinh là cha, là bạn và cũng là vĩ nhân” Vinh dự trù sẽ tổ chức một buổi tưởng niệm và cầu siêu cho cha và những đồng đội của ông đă hy sinh trên ngọn đồi Tiền Đồn 5, vào dịp cuối năm hay Tết Nguyên Đán với sự đồng tế của các vị lănh đạo tinh thần các tôn giáo. Tất cả sẽ cùng thắp sáng lại trong tâm hồn một mùa Xuân, mùa của ḷng biết ơn và hy vọng. Vinh cũng nhờ các cơ quan truyền thông, báo chí và đồng đội của cha, giúp t́m cách thông báo đến thân nhân của những chú, bác đă cùng hy sinh với cha Vinh. Xin hăy liên lạc với Vinh để cùng tham dự buổi lễ tưởng niệm đặc biệt này. Người đầu tiên đă nghe được tiếng gọi của Vinh, một thanh niên hiện định cư ở bên Úc , chính là trưởng nam của cố Thiếu Tá Nguyễn Đức Vinh, sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233/PB cũng đă nằm lại trên Tiền Đồn 5 ngày ấy. Điều may mắn là cậu ta c̣n giữ được “Tờ Tŕnh Ủy Khúc” trong đó có ghi rơ ngày giờ và địa điểm chính xác nơi cha anh đă hy sinh: ngày 16 tháng 7 năm 1974, tại Tiền Đồn 5, Tọa độ AR 863-994. Những chi tiết mà cháu Nguyễn Thế Vinh cũng đang cần muốn biết. Sau đó Vinh cũng đă liên lạc được với con của Cố Thiếu Tá Dương Đ́nh Chính ở Sài G̣n, và sẽ gặp một thuôc cấp cũ của ba Vinh ở Sông Mao, để có thể liên lạc với gia đ́nh những tử sĩ khác. Cuộc chiến đă kết thúc – dù trong tột cùng bất công và tức tưởi – nhưng măi đến 45 năm sau, hơn nửa đời người, những người con mới t́m đến được nơi cha ḿnh đă hy sinh, xác thân vùi chôn ở đó. Nh́n h́nh ảnh người con trai chỉ c̣n một cánh tay với những nén nhang thắp muộn trên ngọn đồi hoang vắng, điêu tàn, từng xảy ra bao trận chiến đẫm máu đồng đội, ḷng tôi lắng xuống. Hồi tưởng lại thời gian cuối cùng của cuộc chiến, tôi bỗng thấy đồng cảm, thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh” (All Quiet On The Western Front), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Erich Maria Remarque, mặc dù câu chuyện đă xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến: “Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn c̣n tiếp tục…” Chỉ có một điều khác biệt. Anh Paul Bäumer may mắn hơn chúng tôi, đối phương của anh dù là người không cùng một nước, nhưng chắc chắn không tàn ác và man rợ như kẻ thù đă chiến thắng chúng tôi, những người có cùng ḍng giống nhưng không hề có trái tim người. Phạm Tín An Ninh |
Áo Gấm Về Làng
1 Attachment(s)
Ngoài sảnh cả một biển người loi nhoi dáo dác t́m người thân của ḿnh, Dean D mũ lệch, kiếng đen bước đi khệnh khạng ra vẻ lắm, nhiều ánh mắt nh́n theo tỏ vẻ thèm thuồng pha lẫn ngưỡng mộ. Dean D thấy khoái chí nhưng giả vờ làm lơ, ra vẻ ngóng t́m người nhà nhưng thực ra đang cố khoe mẽ với đám đông đang bị mê hoặc bởi cái gió hải ngoại. Dean D tận hưởng cái sự xênh xang áo gấm về làng, cái giây phút thấy ḿnh trở nên có giá cao hơn hẳn đồng loại của ḿnh một bậc, phút giây hănh diện này đánh đổi bằng cả một thời gian dài đằng đẵng cày như trâu ở xứ người. Y c̣n đang dương dương tự đắc th́ người nhà trông thấy kêu gọi ầm ĩ, chưa kịp tay bắt mặt mừng th́ y đă kêu toáng lên: - Nóng quá, ồn quá sao chịu nổi? Những người xung quanh cũng chẳng ai quan tâm y nói ǵ, vả laị ai cũng chăm nh́n ở cữa ra xem người nhà ḿnh xuất hiện chưa, ấy thế mà sau lưng y laị có một khứa nhổ toẹt một băi nước bọt xuống sàn. Dean D laị kêu lên: - Trời đất, sao mà mất vệ sinh thế! Người nhà bèn keó y đi thẳng ra xe, sau khi chạy khoảng bốn tiếng th́ tấp vào một quán nước ven đường để nghỉ ngơi và đi vệ sinh. Mọi người kêu bia ra uống, Dean D tợp một ngụm rồi nhận xét: - Bia ở đây lạt quá, không biết đá lạnh có hợp vệ sinh không nữa? Mấy người anh em của y thoáng nhíu trán nhưng nhanh chóng lấy laị vẻ b́nh thản và bâng quơ đùa: - Anh Dean về đây chơi nhớ cẩn thận, nếu không mấy em chân dài sẽ móc sạch bóp. - Dễ ǵ, anh đây đâu phải tay mơ, Dean trả lời Mà quả thật vậy, ăn được tiền của y quả là không dễ đâu! Dean đi chợ c̣ kè so giá từng xu, chín đồng rưỡi ráng góp thành mười, làm ǵ có chuyện cho ai khơi khơi bao giờ! Về đến nhà, Dean cho thằng cháu đi mua chục két bia về ăn nhậu tưng bừng, tiếng khui bia lốp bóp, tiếng cụng ly leng keng, tiếng cười hô hố, tiếng tranh nhau nói…ầm ĩ cả xóm. Dàn karaoke được mở hết cỡ, những giọng ca giật giải miệt vườn thi nhau tra tấn lỗ nhĩ bà con lối xóm. Men vào th́ lời ra, ai ai cũng tranh nhau hát, tranh nhau nói… nhưng hễ Dean tỏ ư muốn hát là lập tức mọi người nhường micro cho Dean liền. Dean cũng là người nói nhiều nhất: Chuyện chính trị, chuyện bóng đá, chuyện tôn giáo, chuyện trên trời dưới đất, chuyện giàu sang xứ mẽo, chuyện lạ có thật… nhưng thật bao nhiêu phần trăm th́ chỉ có y mới biết, quả thật người ta nói đâu có sai:” Mạnh v́ gạo bạo v́ tiền”! Ở cái xóm naỳ th́ Dean là mạnh nhất rồi nên nói thao thao bất tuyệt. Thằng Tí trong xóm, vốn là bạn thân từ thuở c̣n cởi truồng tắm mưa bất chợt hỏi:(hồi ấy Dean c̣n là cu Đực, sau này sang mẽo mới đổi thành Dean) - Cu Đực, ở bển mầy làm ǵ dzậy? Dean thoáng vẻ không hài ḷng v́ kiểu thân mật gọi cái tên ngày xưa nhưng vẫn trả lời: - Tao làm kỹ sư hoá chất. - Thế bà xă mầy làm ǵ? - Vợ tao làm chuyên viên săn sóc sức khoẻ Nhiều tiếng xuưt xoa thán phục - Hồi ấy cu Đực cũng như bọn ḿnh, vậy mà giờ thành công quá, giỏi giang quá! thảo nào tiền bạc rủng roẻn, xài mát trời ông địa luôn. Lần này Dean tỏ vẻ khó chịu khi nghe gọi tên cu Đực, mặt sa sầm xuống, bọn bạn có kẻ lanh trí liền tâng y lên: - Nó giờ là Dean D nghe tuị bay! Lập tức y cười khoái chí nhưng giả đ̣: - Gọi sao cũng được mà, không quan trọng! Suốt buổi nhậu Dean cứ chêm vào: Oh my God, Bullshit, oh yeah, perfect… có người hiểu, có người không hiểu nhưng ai ai cũng chăm chăm nâng ly, dô dô trăm phần trăm chứ chẳng hơi đâu mà t́m hiểu tiếng Tây, tiếng u. Cuộc vui tưng bừng đến tận giấc xế luôn, men đă ngà ngà, Dean lè nhè: - Honey biết hông? tức chết đi được, tuần rồi anh đắp bộ móng cho con Barbara, móng ǵ mà khó đắp quá trời, đă vậy làm xong nó chê xấu, không trả tiền. Anh phải tháo bỏ, vừa tốn công vừa mất thời giờ, thế mà nó c̣n cà chớn hỏi:” Tụi bay làm nails bao lâu rồi? có bằng không?”. Anh phải nhịn nó, v́ lúc ấy trong tiệm c̣n nhiều người khách khác. Jenny L, vợ Dean cất giọng oang oang: - Honey, vậy là c̣n đỡ đấy! em chà chân cho con đen cả tiếng luôn, chân ǵ mà dơ và thúi hoắc, da th́ dày như da trâu… chà xong hết muốn ăn cơm! Ấy vậy mà nó tính quỵt, la lối ầm ĩ, chê bai đủ thứ…kiếm được đồng tiền quả chua cay quá! Đám bạn có người cười mỉn, có kẻ cười khúc khích. Riêng thằng cu Đẹn th́ cười hô hố: - Không ngờ tụi mẽo cũng cà chớn, cứ tưởng xứ ḿnh mới có ăn quịt! Cu Đẹn là bạn học từ phổ thông, nó là người nhiều chữ, học cao nhất trong đám bạn. Nó lấy được bằng cử nhân văn chương, mọi cuộc gặp mặt ai cũng khoái nghe nó kể chuyện. Nó kể rất duyên, hóm hỉnh và hài hước, chuyện ǵ nó cũng biết cả: Đông- tây-kim-cổ…Dĩ nhiên cuộc vui hôm nay cũng không ngoại lệ, mọi người yêu cầu nó kể chuyện nghe chơi. Cu Đẹn uống cạn ly bia rồi thủng thẳng: “ Năm ấy Tề vương ngồi đọc sách ở bên đ́nh thủy tạ, anh xà ích dắt ngựa đi qua thấy bèn hỏi: “Đaị vương đọc sách ǵ?” Tề vương đang vui nên muốn hí lộng:” Ta đọc sách ngu tử”. Tay xà ích tán:” Người ngu biết ḿnh ngu là trí, người trí không biết chỗ ḿnh ngu ấy là ngu vậy! trí – ngu tuy giống mà khác, tuy khác mà giống!”. Tề vương cười hứng chí bảo:” Ngươi nói tiếp “. Anh xà ích tám:” Người trí không có tiền cũng thành ngu, người ngu có tiền cũng thành trí. Thời thế mà không có tiền th́ thời thế bỏ đi, có tiền cũng có thể tạo ra thời thế. Anh hùng mà không có tiền th́ khác ǵ tiểu nhân, có tiền mà không có đức th́ chẳng sao, có đức mà không có tiền th́ lấy cức ǵ ăn…” Tề vương cau mày bảo:” Thôi! đừng nói những ǵ vượt quá cái bánh xe ngựa của ngươi!” Cả bọn cười ḅ lăn ḅ càng, có người bảo:” May cho anh xà ích, Tề vương chưa nổi giận.”. Bạn bè cũng ngầm thấy cu Đẹn có ư chỉnh cu Đực, Dean gỡ thẹn: - Cái móng tuy nhỏ nhưng laị lớn, nhờ nó mà người ta mới mua nổi nhà, xe, nuôi con ăn học, gởi tiền về quê mua đất, rồi những chuyến “y cẩm hồi hương”… Có vài người bất chợt nh́n cái móng của ḿnh, có kẻ c̣n lấy tay sờ mà tặc lưỡi. Dean nói đúng, nếu không có nghề nails th́ sẽ vất vả lắm đấy! Buổi tối, cả đám kéo vào vũ trường trong thị xă chơi. Dean giày bốt áo thun, cu Đẹn giày đen, thằng Tí và mấy khứa khác chơi đôi giày thể thao. Vừa lọt qua cữa cách âm là cả một không gian khác, đèn led chớp quét loang loáng, âm thanh dập muốn bể tim. Dean làm ra vẻ sành điệu, bảo anh bồi: - Em trai, cho anh chai sương mù. Anh bồi nói: - Ở đây giá chót phải là Chivas anh ơi, không ai uống sương mù cả! Dean bóp bụng: - Vậy th́ Chivas. Rượu mang ra, mấy em cave vây quanh ưỡn ẹo ngọt xớt, tự khui rượu rồi mời cả bọn. Phải công nhận mấy em uống như rồng lấy nước, nâng ly liên tục, nghề của mấy em mà, làm không lương, chỉ hưởng tiền boa của khách và ăn chia trên số chai. Để làm giá cho cả bọn, thằng Tí giới thiệu với mấy em: - Đây là anh Dean, Việt kiều Mẽo mới về chơi. Mấy em cave lập tức nâng ly mừng anh Dean, mấy em rành sáu câu ba cái vụ này quá mà, bởi thế càng ra sức tâng bốc Dean để kiếm tiền boa, một em tên Kim chả chớt: - Mấy ảnh ở bển về toàn là dân kỹ sư, bác sĩ không hà. Mấy ảnh chơi sộp lắm, năm rồi có anh ga lăng cho em một chiếc xe future đời mới luôn! Kim trang điểm giống hệt mấy em hàn Quốc, Dean thấy khoái, kéo laị định hôn. Kim ơng ẹo: - Anh ở bển về chắc hổng biết luật chơi ở vũ trường? Dean bèn lấy tờ hai mươi đô nhét vào khe ngực để trễ tràng của Kim, cô ta hôn cái chụt lên má Dean. Cả bọn nhảy tưng tưng, quất hết hai chai Chivas, một giờ sáng gọi taxi về. Hôm sau tỉnh rượu, Dean tiếc đứt ruột, bụng bảo dạ:” Mất toi một tuần lương cho một đêm”. Đă thế vợ c̣n tru tréo: - Ông đi bia ôm chơi bời, coi chừng dính sida. Thế rồi cô ta bỏ cơm nhà, ra chợ ăn quà. Dean theo năn nỉ găy lưỡi, tụi thằng Tí, cu Đẹn, con Mén… cười: - Tưởng sao, té ra hổng phải hàng xịn. Cu Đẹn c̣n văn vẻ, bệnh nghề nghiệp mà: - Nhác trông ngỡ tượng tô vàng Nh́n ra mới biết chẫu chàng ngày mưa Thế là mấy ngày kế nghỉ nhậu, ngày thứ ba mới gầy độ laị, lần này thằng Mùi tham gia. Nó mới về từ cao nguyên, mang theo hũ rượu cần chính gốc của người Ba Na. Ban đầu Dean ngaị, thấy mọi người hút chung mấy cái ṿi nên chê dơ. Tụi bạn khích tướng: - Mầy hút thử đi, ngon lắm! vi trùng nào sống nổi với lượng cồn này! Dean hút thử một hơi, chép chép miệng khen: - Tuy không sang trọng và mắc tiền như rượu Tây nhưng thơm và ngon, cái quư nữa là không có hóa chất. Thằng Mùi góp vui: - Nghe nói ở bển tân tiến và hiện đaị lắm phải không mậy? phi thuyền của nó bay là là sát mặt đất sao hoả. Cả bọn ừ à, Dean cũng chưa nói ǵ th́ nó tiếp: - Nói th́ nói vậy chứ cũng cách mặt đất một gang tay. Tụi Nga cũng giỏi lắm, tàu ngầm nó lặn sát đáy biển, cũng chỉ cách một gang tay. Các nhà khoa học giỏi thật nhưng không nhằm nḥ ǵ so với các bà mẹ của họ. Nhiều người nhao nhao: - Bộ các bà mẹ của họ cũng chế được phi thuyền, tàu ngầm sao? Thằng Mùi đủng đỉnh một tí rồi mới bảo: - Các bà mẹ của họ tạo ra họ cũng chỉ cách rốn một gang tay! Bàn nhậu cười ngả nghiêng, cứ thế những cuộc nhậu kéo dài suốt hai tuần liền. Những ngày gần tết, hội ruột rà yêu nước tổ chức hội nghị trên thành, địa phương cử người đến nhà Dean D. - Anh hăy ủng hộ địa phương một ít tài chánh để xây dựng quê hương, địa phương sẽ cử anh lên thành dự hội nghị yêu nước. Dean đồng ư đóng một số tiền và lên thành phó hội, sau khi nhiều tay có máu mặt đăng đàn phát biểu. Những tay cơ hội làm ăn cũng lên ba hoa kế hoạch này nọ, khi gần kết thúc, ban tổ chức cho mời Dean đaị diện tỉnh nhà phát biểu: - Chúng tôi xin tri ân triều đ́nh, các ban ngành đoàn thể đă tạo điều kiện cho anh em chúng tôi về xây dựng tương lai. Chúng tôi vô vàn cảm kích sự lănh đạo sáng suốt tài của triều đ́nh. Suốt bao năm dài tha hương chúng tôi luôn được các cấp theo dơi, quan tâm, chỉ đạo sâu sát, thật không sao nói hết ḷng biết ơn của chúng tôi… Báo chí đưa tin, ti vi phát sóng ồn ào. Dean thấy ḿnh trên ti vi th́ hănh diện lắm, vẻ mặt nhơn nhơn, cuộc nhậu nào cũng khoe: - Mấy anh em có xem ti vi tối hôm hăm ba tháng chạp hông? Bạn nhậu có kẻ cười kh́, người cười mím chi, riêng thằng Mùi th́ huỵch toẹt - Mầy được lên ti vi chứ ǵ? mầy là thành viên hội ruột rà yêu nước ǵ đó, ai mà hổng biết! mầy phát biểu như pháo chuột nổ lẹt đẹt hôm đưa ông táo dzià trời. Dean giận xám mặt nhưng không biết ăn nói làm sao nên nín thinh Dean ở chơi đến tháng thứ tư mới bay về laị. Xóm giềng thắc mắc: - Bộ thất nghiệp hay sao ở lâu vậy? người khác về có hai tuần là vội vàng đi rồi cơ mà! Trong xóm có kẻ ra vẻ thông thái: - Thằng Đực làm nghề tự do, thích th́ làm không thích th́ thôi, có ràng buộc ǵ đâu mà sợ. Dean bay về laị Mẽo, mọi người thở phào: - Thằng Đực về laị mẽo, thế là bớt một giọng ca karaoke, nghe đâu sang năm nó laị về! ư quên, giờ nó là thằng Dean. TIỂU LỤC THẦN PHONG |
Quote:
Vấn đề thứ hai : chưa lần biết đường vào yêu.? Hay là bạn thử chuyển hệ xem sao . Đây không phải là ư kiến của ḿnh mà của ông lang mù ở cuối làng quê của một vùng núi Tà Lơn.. |
Quote:
|
Con Gái Tôi Đâu?
3 Attachment(s)
"Kế hoạch trăm năm không ǵ hơn là trồng người" (của tên Đại Việt Gian HCM )
Mụ cô cha hắn chứ trồng người! Té ra trồng người là chôn sống người! Con Gái Tôi Đâu? - Ngô Viết Trọng VC THẢM SÁT 6,000+ ĐỒNG BÀO TẾT MẬU THÂN 1968 - VC THẢM SÁT DÂN LÀNH VÔ TỘI TẠI KHE ĐÁ MÀI, HUẾ DỊP TẾT MẬU THÂN 1968 Con Gái Tôi Đâu? hay Vết Hằn Mùa Xuân để nhớ lại Mùa Xuân năm nào Công Sản đă gieo rắc đau thương trên người dân vô tội. D́ Sáu đang giúp bà Thái lượm những hạt cứt chuột, những hạt sâu cùng những thứ khác lẫn lộn trong mấy thúng nếp th́ Liên về. Cô gái với khuôn mặt bầu bĩnh tươi như hoa, dựng chiếc xe đạp trước sân, hớn hở bước vào nhà nói như khoe khoang: - Chào d́ qua chơi! Mạ với d́ thấy chiếc xe đạp của con chưa? Hai người đàn bà đều ngừng tay nh́n ra. Một chiếc xe đạp đàn bà mới toanh láng coóng, sườn sơn màu tím óng ánh, ghi đông, vành, tăm đều sáng choang. - Trời! Chiếc xe của công chúa có khác! Cho d́ mượn đi phố một bữa đi! Bà Thái ngắm nghía chiếc xe, mặt bà cũng tươi rói, hết nh́n Liên lại nh́n d́ Sáu hài ḷng, hănh diện: - Mất của tôi gần ba chục thúng lúa đấy! Rứa là cô ưng chi tôi cũng thỏa măn cho cả rồi. Vô thay quần áo đi mà ra phụ mạ làm sạch sẽ ba cái nếp để lo bánh trái cho rồi! Tết ni đ́nh chiến chắc mấy thằng anh mi cũng về. Tổ cha mi hai ngày nữa là lên mười tám rồi, phải siêng siêng lên cho mạ nhờ một tí chứ! Liên cười qua con mắt, nũng nịu nh́n mẹ: - Th́ con lo học chứ có lười nhác đâu nào! Mạ lo chuẩn bị quà thưởng khi con đậu Tú Tài cuối niên khóa đó! - Th́ đă thưởng trước chiếc xe đạp rồi cô! Cô liệu hồn để trượt vỏ chuối là chết với tôi đó chứ đừng nói! D́ Sáu cười chung ḥa niềm vui: - Th́ thưởng cho hắn một thằng dôn cao ráo đẹp trai, cháu có chịu không? Cô gái vẫn mặt tươi như hoa cười khúc khích: - Con không cần tới một thằng dôn cao ráo đẹp trai đâu d́! Con chỉ cần một anh chồng xấu ỉn thôi. Cả ba người cùng cười ṛn ră. D́ Sáu hỏi: - Mụ nội mi nói cái chi lạ đời rứa! Răng không ưng chồng đẹp mà lại ưng chồng xấu nói cho d́ nghe thử coi! Liên lại cười khúc khích: - D́ không nghe người ta nói “củi nè dễ nấu chồng xấu dễ sai” đó sao? Con dại ǵ mà lấy chồng đẹp! D́ Sáu cười nghiêng ngửa: - Th́ ra con nhỏ tinh ranh tới rứa là cùng! Cho hắn bấp một thằng chồng hay đặp vợ cho biết mặt! Bà Thái cũng cười ṛn ră: - Tổ cha mi nói rứa có chó mà dám ưng mi! Coi chừng ở quá đó nghe con! - Ở quá con cũng không sợ. Ở với ba với mạ lo chi! Liên vừa nói vừa nhí nhảnh đi vào pḥng của ḿnh. D́ Sáu nh́n theo cười: - Hắn tuổi Tân Măo phải không chị? Mới nhỏ chút xíu đó mà! Hèn chi lớp ḿnh mau tra cũng phải. - Có thư đi thư lại rồi đó d́! Thấy cái thằng cũng hiền lành dễ thương! - Chị không la hắn à? - La mần chi! Trước ḿnh răng th́ chừ hắn rứa! Nhưng ḿnh cũng phải ngó chừng chừng cho hắn chứ! Tôi chỉ ớn ớn mấy thằng lường gạt thôi. Nói cho cam quả, con ni cũng ngộ thiệt. Từ ngày đẻ hắn ra trong nhà cứ ăn mần nên phơi phới. Học hành th́ chuyên đứng nhất đứng nh́, năm mô cũng có phần thưởng. Cha hắn cưng lắm, muốn chi được nấy mà! - Hắn dễ thương quá đi chứ! Thằng mô mà gặp hắn thiệt là có phước! Hai người đang vui vẻ bàn tán th́ Liên đă thay xong quần áo, chạy vụt ra phụng phịu đưa cả hai tay đấm thùm thụp vào lưng bà Thái. - Ồ, cái con! Mi mần cái chi rứa? - Mạ tầm bậy lắm! Mạ đọc chùng mấy cái thư của con hết trơn rồi phải không? Trong pḥng con ngoài mạ ra ai vô được? Cả ba người lại cùng cười ṛn ră. Bà Thái nh́n con gái âu yếm: - Th́ mạ phải kiểm soát chứ lỡ gặp thằng mô ba láp hắn dụ dỗ con mạ dắt đi mất mạ biết mần răng? Nói rứa chứ con của mạ đứa mô mà dụ dỗ được! - Lần sau cấm mạ không được coi chùng thư riêng của con nữa đó! D́ Sáu nh́n cái cảnh hạnh phúc tràn trề của hai mẹ con mà thèm khát. Chồng d́, ông Hữu, tập kết ra Bắc biệt tăm đă hơn mười năm rồi. Con Lư, đứa con gái của d́ và ông Hữu kém Liên một tuổi, học hành chưa tới đâu hết phải bỏ ngang. Sau này d́ cũng có thêm một thằng nhỏ nữa giờ đă lên sáu, không rơ cha nó là ai. Cuộc sống của mấy mẹ con d́ chưa lúc nào được thoải mái cho lắm. Bà Thái là chị con ông bác của d́ vốn rất thương d́ nên vẫn hay giúp đỡ d́ nhiều mặt. Hai chị em qua lại với nhau khá tâm đắc. D́ nh́n hai mẹ con bà Thái rồi bất giác thở dài: - Con gái chỉ ở với cha mẹ được một thời. Mai mốt là con người ta rồi đó. Lời nói của d́ Sáu như là một cái đánh động nhẹ vào tâm tư bà Thái. Bà Thái quay lại nh́n người em họ rồi lại nh́n Liên. Th́nh ĺnh bà ôm lấy Liên hôn lên tóc, lên má, lên cổ nàng tới tấp. Nước mắt bà trào ra ràn rụa trước sự ngơ ngác của d́ Sáu. Giọng bà thổn thức nấc lên: - Mai mốt con đi lấy chồng rồi mạ ở với ai đây? Cặp mắt nai của Liên cũng mở lớn tṛn xoe long lanh nước. Nàng cũng ôm chầm lấy mẹ rồi sau đó gục mặt vào vai mẹ. Bà Thái lại nghẹn ngào: - Con khoan đi lấy chồng đă nghe! Con đi lấy chồng rồi th́ mạ ở với ai đây? D́ Sáu sững sờ rưng rưng nước mắt lặng người chốc lát trước hoạt cảnh ấy. Sau đó d́ làm tỉnh lên tiếng: - Cái chị ni vô duyên thiệt! Con gái lớn ai không lấy chồng? Mà đă có chi mô nà? Gả hay không đều c̣n do ḿnh mà! Hắn đi lấy chồng th́ chị ở với anh Thái chứ ở với ai nữa! Một chốc sau hai mẹ con buông nhau ra, mắt người nào cũng đẫm lệ. D́ Sáu vươn vai đứng dậy cười: - Ngồi ngó hai người tôi cũng mệt. Thôi, hai mạ con làm với nhau đi, tôi về! ***** Ông Thái trước đây đă từng làm Đại Diện xă. Ông là người kiến thức rộng, có đạo đức,làm việc ǵ cũng có lư có t́nh nên rất được ḷng người. Bây giờ ông đă thôi việc nhưng mọi người, kể cả lớp có chức sắc trong xă lúc nào cũng tỏ ra trọng vọng kính mến ông. Những việc làm lớn nhỏ liên can đến chuyện an ninh thôn xă, phát triển văn hóa, quân cấp ruộng đất, cúng tế hàng năm… những người gánh vác công việc lúc nào cũng thỉnh hỏi ư kiến ông. Những mối bất ḥa, những vụ xung đột gia đ́nh hay xóm giềng với nhau, dù không c̣n làm việc, hễ ông đứng ra dàn xếp th́ thế nào cũng yên. Cúng Giao Thừa xong, ông Thái toan đi ngủ bỗng nhiên ông cảm thấy có ǵ hơi khác trong tiếng pháo nổ như mọi năm. Ông lắng tai và ngạc nhiên nghe những tiếng nổ lạ có thể không phải là tiếng pháo. Không lẽ lại có bắn nhau? Cái tin hưu chiến đă được loan đi rộng răi cho đồng bào yên tâm ăn tết mà! Ông áy náy không thể nào ngủ được. Đến khi nghe thêm nhiều tiếng nổ lạ một vài nơi nữa, ông Thái mới đoan quyết đấy là tiếng súng. Ông liền t́m cách liên lạc với xă để biết t́nh h́nh. Sau khi ra ủy ban xă, ông Thái liền nhắn về nhà cho biết t́nh h́nh đang xấu lắm, ông chưa thể trở về liền được. Nếu có ai tới thăm hỏi ông cứ bảo là ông đi thăm viếng ai trên phố. Sáng Mồng Một Tết th́ cả xă nhốn nháo về tin Cộng Sản đă kéo về khắp nơi. Thế là sau đó chẳng ai c̣n bụng dạ xuất hành chúc tết họ hàng chung quanh. Mọi người đều lăng xăng lo cất giấu hoặc thủ tiêu những thứ ǵ trong nhà có liên can đến binh lính và chính quyền miền Nam như bức h́nh chụp, giấy tờ, quần áo giày mũ… Và Cộng Sản đă kéo về làng thật. Ngoại trừ những căn nhà ven quốc lộ 1, nhà nào cũng có vài ba anh bộ đội đến trú đóng. Bà Thái đang hồi hộp nh́n ra đường th́ thấy bốn người lính Cộng Sản đi vào nhà bà. Ba người trẻ mang súng dài tỉnh bơ đến thẳng thềm hiên nhà lớn, cởi ba lô và súng ra ngồi xuống nghỉ. Có lẽ họ đang mệt. Những nhà theo kiểu cổ, trừ khi có cúng giỗ tiệc tùng, ít khi người ta mở cửa nhà lớn. Mọi người trong nhà vẫn vô ra bằng cửa nhà lều. Người thứ tư, một người trung niên mang súng ngắn, tỏ vẻ đă hiểu biết thói tục ở đây, bước tới cửa nhà lều gọi: - Anh chị Thái ơi, em là Trí đây, anh chị có nhớ em không? Qua giây phút lo sợ, ngỡ ngàng, bà Thái mừng rỡ bước ra chào hỏi người em họ của chồng. Ông Trí là em con ông cậu ruột của ông Thái, tập kết ra Bắc năm 1954. Sự có mặt của một người bà con trong toán người xa lạ mà xưa nay gia đ́nh bà vẫn coi như là thù địch làm bà Thái đỡ lo hơn nhiều. Bà niềm nỡ săn đón: - Trời ơi, không ngờ c̣n gặp lại được chú Trí! Chú khỏe mạnh không? Có vợ con rồi chứ chú? Anh Thái vẫn nhắc đến chú hoài! Sáng ni anh Thái lên phố chúc tết mấy người quen không biết răng tới chừ chưa thấy về! - T́nh h́nh lộn xộn thế mà anh không ở nhà à? Chị có biết bây giờ anh đi đâu không? Nguy hiểm lắm đó nghe! - Thôi, ông đi mô rồi ông cũng lo về. Chừ mời chú và mấy anh em vô nhà nghỉ ngơi. Chắc mấy chú cũng đói bụng rồi, tôi dọn cơm cho mấy chú ăn nghe! Ông Trí vui vẻ tự nhiên bước vào ngồi xuống cái giường lèo: - Để họ nghỉ ngoài đó được rồi. C̣n cơm nước lo chi chị! Bộ đội bác Hồ đến dân vui, đi dân nhớ, ở dân thương, đến đâu nhân dân cũng lo cho đầy đủ cả làm sao mà đói! Em tới đây mục đích chính là thăm anh chị. Sau nữa là xin cho mấy anh em ở tạm vài hôm. Rồi tụi em cũng phải lo đi tiếp thu những chỗ khác. Anh em đàng hoàng lắm, không có phá phách như bọn lính ngụy đâu! Chị đừng lo lắng chi cả! - Thôi, chốc nữa nói chuyện tiếp. Chừ chú nói mấy anh em rửa tay để ăn cơm, tôi đi dọn ra đây! - Cứ thủng thẳng đă chị, à, mấy cháu đi đâu mà chẳng thấy cháu nào hết? - Khi đêm tụi nó ham chơi thức khuya quá chừ c̣n ngủ đó chú! Cơm dọn ra, một mâm thịt chả cá canh phủ phê. Ông Trí cùng mấy chú bộ đội ăn uống rất thiệt t́nh. Họ vừa ăn vừa huênh hoang nói về những bước hành quân kỳ diệu của họ. Những món ăn khoái khẩu làm cho thực khách càng nói cười vui vẻ cởi mở thêm. Với bà Thái, mấy chú bộ đội cứ một điều thưa mẹ hai điều thưa mẹ rất thân mật. Bầu không khí lo lắng nghi kỵ trong nhà cũng dần loăng đi. Chốc sau, bà Thái vào pḥng kêu chị em Liên và Thảng ra chào ông chú họ và mấy anh bộ đội. Cả hai đều đă thức dậy từ sớm nhưng thấy người lạ vào nhà nên cố nằm nín trong pḥng. Thấy mẹ gọi, Liên rụt rè đẩy em đi trước. - Thưa chú! Chào mấy chú bộ đội! - Ối chao! Mấy cháu của chú ngoan thế này à! Lập tức, ông Trí bước lại ôm lấy thằng Thảng mà hôn hít tới tấp. Thằng nhỏ từ khi lên mười tuổi đă xa hẳn kiểu biểu lộ t́nh cảm nồng nàn thắm thiết đó, đâm ra ngượng ngập, lúng túng, thụ động. Liên trố mắt ngạc nhiên rồi cũng lúng túng thối lui một bước. Liên sợ ông Trí cũng hôn nàng như hôn Thảng. Bà Thái cũng ngạc nhiên cảm động v́ cử chỉ của người em họ chồng. Bà mừng v́ như thế, những người trong gia đ́nh bà, ông Thái và hai đứa con đi lính chắc không đến nỗi nào. Bà có chút ân hận v́ lâu nay nghe chồng mà bà đă hiểu lầm về người Cộng Sản. T́nh cảm họ chan chứa mặn nồng như thế mà bảo họ vô t́nh th́ đúng là đặt điều! Mấy chú bộ đội h́nh như chẳng quan tâm tới chuyện đó. Họ chỉ cười chào lại Liên và Thảng rồi tiếp tục ăn. Ông Trí vừa ăn vừa nói: - Anh chị có hai cháu dễ thương quá! Tương lai của đất nước đấy! Bác Hồ nói “kế hoạch trăm năm không ǵ hơn là trồng người”, đào tạo nuôi dưỡng ở lứa tuổi này th́ không chê vào đâu được. Bà Thái sung sướng hănh diện cười với hai con: - Các con nghe chú nói đó, phải gắng học thêm lên nữa! Bữa ăn gần xong, một anh bộ đội nh́n chiếc xe đạp của Liên rồi khen: - Chiếc xe trông hết sẩy! Mọi người đều nh́n theo và thay nhau khen. Liên nghe như vậy vẻ sung sướng hănh diện lộ ra mặt. Một anh bộ đội hỏi: - Chiếc xe này của ai mà sang quá vậy mẹ? Bà Thái hănh diện trả lời: - Xe sắm cho cháu Liên đi học đó. Ở đây lên tới trường Đồng Khánh xa lắm mấy chú! - Dạ, chúng con cũng có nghe nói đến trường Đồng Khánh Huế nữ sinh đẹp lắm. Nghe nói ở đó cũng có nhiều nữ sinh tham gia mấy đội quyết tử của ta chống ngụy quyền gắt gao lắm cơ! Ông Trí nh́n Liên hỏi: - Cháu có thấy hoạt động của mấy đội quyết tử ấy không? Cháu có ủng hộ hay tham gia với họ lần nào chưa? Liên ngơ ngác ngây thơ trả lời: - Làm ǵ có! Cháu chưa bao giờ thấy đội quyết tử nào hoạt động ở trường Đồng Khánh cả. Ông Trí vội nói: - Hoạt động mật, người ta không phổ biến đâu! Một anh bộ đội ngập ngừng trở lại chuyện chiếc xe đạp: - Được đi chiếc xe như thế chắc thích lắm nhỉ! Cô Liên cho chúng tôi mượn tập đi thử chốc lát được không? Câu nói bất ngờ làm cho Liên tắt mất vẻ cười. Nàng bối rối đưa mắt nh́n mẹ. Bà Thái vốn biết tính con ḿnh rất cưng quí xe. B́nh thường, Liên ít khi cho ai mượn xe huống bây giờ xe mới, mà lại đ̣i tập nữa mới khó chứ! Tuy thông cảm với con gái nhưng bà cũng nghĩ tới những khó khăn hiện tại của ḿnh. Sợ con làm mất ḷng mấy chú bộ đội, bà cười giả lả: - Tập chốc lát cũng được, nhưng cẩn thận giùm một chút kẻo cháu nó nóng ruột, xe mới sắm chưa đi. Bà Thái nói thế rồi nh́n ông Trí chờ đợi một câu nói ngăn cản hay một lời dặn nào đó. Nhưng ông Trí chưa nói ǵ th́ mấy chú bộ đội đă hồ hởi nhanh nhẹn dắt xe ra sân. Liên nhăn mặt kéo Thảng ra theo ngồi coi. Ông Trí vẫn ngồi uống nước ăn mứt ở bàn ăn. Sau khi đă dọn dẹp mâm chén xong, bà Thái đến ngồi đối diện với ông Trí: - Chú Trí cưới vợ lâu chưa? Được mấy cháu rồi? - Em cưới vợ năm 1957, vợ em người Sơn Tây, đă được ba cháu gái, đứa lớn nhất mới 11 tuổi. - Rứa chú có đem theo vô đây không? - Giờ th́ chưa, nhưng chậm lắm là cuối năm nay. Giải phóng xong miền Nam em phải đem vô chứ. - Ń, chị em tôi hỏi thiệt nghe, như tôi có thằng Long thằng Đạt đi lính quốc gia có can chi không? - Th́ chị biết mấy cháu ở đâu kêu về là xong. Cách mạng khoan hồng lắm, bác Hồ và Đảng nhân ái lắm chị, chị đừng lo chi cả. - Như anh Thái trước đây có làm Đại Diện xă nhưng nghỉ lâu rồi có bị tội lệ chi với cách mạng không chú? - Không sao đâu, chị biết anh ở đâu cứ kêu về là yên chí chứ lo ǵ! - Chú bảo đảm cho anh ấy được chứ! - Được quá đi chứ chị! Anh ấy là anh của em mà! Cái t́nh nghĩa của phe dân chủ ḿnh nó thắm thiết sâu đậm lắm chị à! Có em đây chị cứ yên chí mà gọi anh về. Bác và Đảng bao giờ cũng thương dân như con đỏ chứ đâu có vô t́nh vô nghĩa như bọn đế quốc chỉ biết bóc lột, đàn áp, giết chóc mà ngại! Chị phải mọi cách kéo anh về càng sớm càng tốt. Mười đời không rời cánh tay, em lo cho anh ấy lắm. Bây giờ em phải đi họp một chốc. Hi vọng khi em trở lại th́ gặp anh ở nhà. Bà Thái càng ân hận về những hiểu lầm lâu nay của ḿnh. Thế mà bảo con tố cha, vợ tố chồng, thậm chí c̣n nói đến chuyện chôn sống người nữa, toàn đặt điều hết! Ông Trí ra dặn ḍ mấy chú bộ đội mấy lời ǵ đó rồi đi. Ông Trí vừa đi khỏi, Liên liền vào nhà với vẻ bực bội, nói với mẹ: - Mạ nói họ trả xe lại giùm con đi! Họ tập té lên té xuống trầy trợt hết mạ ơi! Xe mới lấy về chưa kịp đi th́ gặp như thế thiệt rầu thúi ruột. Bà Thái giải thích với Liên: - Họ cũng như khách, người ta tốt với ḿnh ḿnh phải tốt lại! Đừng làm mất ḷng họ không hay mô! Cha con đang ở thế kẹt lắm. Họ ở đậu vài bữa rồi họ đi thôi con ơi. Liên cười méo mó: - Chợt chạt móp méo nhiều rồi mạ! Khi kia để tết xong rồi lấy về cho rồi! - Đừng nói nữa con, cầu cho cha con và mấy anh con yên lành là được rồi. Con đậu tú tài xong mạ mua cho chiếc khác. Chừ con ra kêu em vô ăn uống mà ngủ cho sớm. Nói xong, bà Thái đi thắp một lượt tất cả các bát nhang. Sau đó, bà dọn ra giữa bức phản một mâm bánh thịt và mấy dĩa mứt, lấy lồng bàn đậy lại. Khi trời đă khá chiều, mấy chú bộ đội vẫn thay nhau tập xe như tranh thủ thời gian. Bà Thái tươi cười ra sân nói với họ: - Mấy chú tập xong đói bụng cứ vô giở lồng bàn có sẵn đồ ăn đó, cứ tự nhiên coi như người trong nhà, đừng ngại chi hết. - Dạ, chúng con cám ơn mẹ! ***** Một hiện tượng mà người dân không thể nào hiểu nổi là bộ đội Cộng Sản đóng khắp trong xă thế mà trên quốc lộ 1 xuyên qua xă, lính Mỹ dùng xe di chuyển qua lại đều đều vẫn tuyệt nhiên không có một cuộc đụng độ xảy ra. Rơ ràng là quân hai bên đều trông thấy nhau cả mà! Không biết cái t́nh trạng này c̣n kéo dài tới bao lâu nữa? Bà Thái mỗi ngày mỗi nôn nóng lo sợ thêm. Ông Thái vẫn biền biệt không nghe tin tức. Mấy kư thịt heo, mấy thẩu dưa món, bốn năm con gà choi và bốn ổ trứng gà đă đi trọn rồi. Ban đầu bà cũng tưởng họ ở đậu vài hôm là cùng, nào ngờ cả tuần rồi vẫn không có chi thay đổi. Ông Trí ngày nào cũng đi họp một hai lần. Thỉnh thoảng cũng có vài người đi công tác đâu đó. Mấy chú bộ đội trẻ cứ rảnh rỗi lại thay nhau hành hạ chiếc xe đạp của Liên. Lúc này Liên cũng phó mặc ra sao th́ ra, không cần để tâm tới nữa. Những ngày sau này ông Trí luôn luôn thúc giục bà Thái t́m cách kiếm chồng về. “Nếu anh ấy không chịu về, tôi không bảo đảm được”, ông Trí nói. Rồi một buổi sáng bà Thái thấy toán bộ đội có vẻ nhốn nháo. Hẳn có chuyện ǵ xảy ra? Họ hấp tấp sửa soạn hành trang. Sau đó ông Trí với hai người vội vă mang cả đồ cá nhân ra đi. Chỉ có chú bộ đội Minh con người trông nghiêm nghị, ít nói ít cười nhất ở lại. Trước khi đi, ông Trí cũng dặn kỹ người trong nhà từ giờ phút này đừng đi đâu hết. Bữa cơm trưa rồi bữa cơm tối bà Thái đều mời Minh cùng ngồi với gia đ́nh nhưng hôm nay thấy anh ta chẳng thiết tha chi đến chuyện ăn uống. Có lẽ anh ta đang có vấn đề căng thẳng trong đầu. Thấy Minh chỉ một ḿnh, bà Thái ṭ ṃ muốn gợi chuyện nhưng không thể nào cậy môi anh ta được. Anh ta cứ chăm chú hướng mắt ra đường. Tới chạng vạng vẫn chưa thấy một ai về. Măi tới khi thấy mấy bóng đen xăm xăm bước vào ngơ, bà Thái kêu lên: - À, mấy chú đă về đó rồi! Nhưng không phải. Hai người đang tiến vào sân cũng mặc đồ bộ đội nhưng đều là người lạ. Họ tiến thẳng tới trước mặt bà Thái nói giọng nghiêm nghị: - Lệnh của ủy ban, mời ông Thái sang trường học xă họp ngay bây giờ! Bà Thái lo lắng trả lời: - Dạ ông Thái nhà tôi đi chúc tết rồi kẹt mô đó tới nay chưa về đến. Có chú Minh ở đây lâu nay biết rơ đó. - Nếu ông Thái đi khỏi, xin cho cô Liên đi họp thế vậy! Một trong hai người quay lại nói với tên Minh: - Đồng chí cũng thu xếp lên đường. Anh em ai c̣n sót ǵ mang cho họ luôn! Bà Thái ngạc nhiên sao không mời ḿnh đi họp thế chồng mà lại mời Liên? Mà những người này sao lại biết tên của Liên? - Dạ cháu nó c̣n dại biết chi mà họp với hành! Tha cho cháu có được không? - Bà hiểu cho đây là lệnh của ủy ban! Xin mời cô Liên ra ngay cho. Chúng tôi không có th́ giờ nhiều! - Dạ thôi được, để tôi đi họp thế cho cháu. - Không được! ủy ban chỉ mời cô Liên, không mời bà! Bà Thái đang lúng túng th́ ông Trí từ ngoài đi vào. Bà Thái mừng quá đến đón ông lại: - May quá, có chú về. Mấy anh này mời cháu Liên đi họp, tôi xin đi thế mấy anh không chịu. Nhờ chú nói giùm một tiếng. - Không được đâu! Ai có việc nấy. Người ta mời ai th́ đi nấy, chết chóc chi đâu mà sợ. Tôi cũng đang có việc của tôi đây. Bà Thái nghe cái giọng của người em họ chồng không c̣n ngọt ngào lễ phép với ḿnh như những ngày trước đây th́ lo lắm: - Rứa thôi để tôi cùng đi với cháu nghe chú. Không biết ông Trí có nghe lời bà Thái không. Ông không trả lời mà chỉ lúi húi t́m cái ǵ đó tại chỗ ông nằm mấy bữa nay. Anh bộ đội truyền lệnh dứt khoát: - Cô Liên đi một ḿnh được rồi, mời cô ra mau. C̣n bà, đừng bước ra khỏi nhà! Liên mặc bộ đồ bộ màu tím mới may lững thững đi ra. Bà Thái cầm tay con nhưng không nói ǵ. Từ khi nghe kêu tên ḿnh tới giờ Liên không hề nói một lời. Khi ấy ông Trí có lẽ đă làm xong việc ḿnh, bước lại nói với bà Thái: - Để nó đi kẻo người ta chờ ḱa. Nó là con chị mà cũng là cháu tôi, tôi cũng biết lo cho nó chứ. Nó qua trường học nghe năm điều ba chuyện rồi về có ǵ mà bịn rịn như ra Hà Nội không bằng! Bà Thái đứng nh́n bóng dáng mảnh mai của đứa con gái yêu đang theo mấy người bộ đội ra cửa. Bà rưng rưng nước mắt rồi bỗng chạy vụt vào nhà. Chốc sau bà quay trở ra, chạy theo những người đang đi. - Chú Trí! Chú Trí ơi! Ông Trí đang đi quay mặt lui: - Ǵ đó nữa? Lôi thôi măi! Bà Thái cầm một cái áo len và một gói hạt dưa trao cho ông Trí: - Nhờ chú đưa cái áo cho cháu Liên mặc thêm kẻo sương xuống lạnh và gói hạt dưa ni để nó cúp đỡ buồn. - Chị làm như đưa tiễn con lên tàu. Tôi chịu thua chị. Thôi nghe. Bà Thái có cái cảm tưởng đưa con lên tàu thật. Trường học chỉ cách nhà bà không tới năm trăm thước mà ngỡ như cách trở quan san. Bà nh́n theo bước chân đứa con gái. H́nh như Liên cũng cố t́nh bước nhín nhín v́ sợ chóng hết quăng đường. Khi những bóng người đă khuất hẳn trong màn đêm bà Thái mới trở vào ngồi thừ ra trước thềm cửa. Ông Thái biệt tin cả chục ngày bà không lo lắng bằng việc đứa con gái đang đi họp ở trường học. Khi bà vào nhà th́ thấy thằng Thảng đang nằm chèo queo ngủ trên chiếc giường lèo. Bà chụp mấy con muỗi đang bu cắn con rồi ghé ngồi xuống phần giường c̣n trống dưới chân nó, mỏi mệt dựa nghiêng đầu vào thanh lèo giường, chờ con gái về. ***** Bà Thái bỗng gật đầu một cái rồi tỉnh thức. Thời gian này hay mất ngủ, mệt người, bà đă ngủ gục một giấc khá dài. Bà đứng dậy nh́n đồng hồ: 3 giờ khuya. Bà Thái hoảng hốt chạy lại đánh thức thằng Thảng: - Dậy con ơi ! Đi với mạ qua coi thử chứ giờ chừ mà con Liên chưa về, họp hành chi lạ rứa! Mạ nóng ruột quá! Thằng Thảng bừng mắt ngồi dậy nhưng ngại ngùng: - Đi giờ này hắn bắn chết! Mạ không thấy mấy người chết rồi đó à? Chắc là chị Liên qua ngủ lại nhà d́ Sáu chứ ǵ! Bà Thái bực bội: - Tiếc giấc ngủ th́ ngủ tiếp đi! Mi không thương hắn th́ tau đi t́m một ḿnh. Bà Thái bưng cây đèn bóng thắp dầu nhỏ bước ra khỏi nhà. Thằng Thảng lật đật chạy theo mẹ. Bưng đèn theo chỉ có mục đích chứng tỏ sự ngay thẳng không mờ ám trong việc đi đêm chứ thật ra lúc đó dù trăng mờ cũng thấy đường được. Khi nh́n được khu vực trường học, bà Thái ngạc nhiên không thấy đèn đuốc chi cả. Bà nôn nóng bước thật nhanh. Ngọn đèn trên tay tắt mất nhưng bà cũng không ngần ngại, càng bước mau hơn. Bấy lâu nay vẫn có một số bộ đội, cán bộ làm việc ở đây, sao bây giờ chẳng thấy ai canh gác ngăn cản chi cả? Tới gần, hai mẹ con thấy có nhiều ghế bàn để ngổn ngang trước sân trường nhưng tuyệt nhiên không có một bóng người. - Đi qua nhà d́ Sáu ngay! Nhà d́ Sáu cách trường học chừng 100 thước. Hai mẹ con lại lật đật tới nhà d́ Sáu, đấm cửa th́nh thịch: - D́ Sáu ơi! D́ Sáu ơi! Con Liên có ngủ lại nhà d́ không? D́ Sáu nghe tiếng vội vàng nhảy dậy xô cái cửa cho hai mẹ con vào, không kịp t́m diêm bật đèn, d́ nói liền: - Con Liên không về nhà à, tội nghiệp chưa? Rứa th́ họ đem đi rồi, đem đi mô đó không biết. Khi khoảng 1 giờ khuya họ dắt đi hết không c̣n một người. Hèn chi em có nghe một ông mô đó nói lớn “không bắt được lăo th́ cũng phải làm cho lăo đứt ruột nát gan ra …”. Dám họ nói anh Thái lắm! Em mới vô nằm được một chút chứ mấy! Nghe đến đây bà Thái liền nằm lăn xuống nền nhà mà kêu khóc: - Trời ơi! Con tôi nhỏ dại tội t́nh chi mà đem đi mô rứa hỡi trời! Thằng Thảng sửng sờ đứng ngây người không phản ứng. D́ Sáu th́ hoảng hốt nhào tới ôm bà Thái đỡ dậy và khuyên: - B́nh tĩnh chị ơi, con Liên c̣n nhỏ dại vô tội họ không làm chi hắn mô mà sợ. Chắc ngày mai họ cũng thả về thôi. Nhưng bà Thái vẫn tiếp tục lăn lộn khóc lóc: - Liên ơi là Liên! Chừ mạ biết con ở mô mà t́m… D́ Sáu biết ḷng thương của người chị họ ḿnh đối với đứa con gái hơn ai hết. D́ cứ ngồi ốm lấy người chị mà an ủi dỗ dành. D́ chẳng buồn đi t́m hộp diêm để châm đèn nữa, d́ không muốn bà Thái thấy trên mắt ḿnh cũng có hai ngấn lệ. ***** Khi t́nh h́nh đă khá yên, ông Thái mới trở về nhà. Nhưng ông khựng lại khi thấy thằng Thảng ra đón ông không có một nụ cười. - Mạ mô rồi? Chị Liên mô rồi? - Chị Liên họ bắt đem đi rồi. C̣n mạ khóc từ khi qua nhà d́ Sáu tới giờ. D́ Sáu và con mới đưa mạ về hồi sáng. Mạ hiện đang nằm khóc trong nhà. Mặt ông Thái chuyển sang tái ngắt. Ông đă quá hiểu về những con người Cộng Sản. Ông đau đớn nghĩ tới đứa con gái thơ dại của ḿnh. Thôi, thế là hết. Xưa nay, mỗi khi Cộng Sản đă rớ tới ai th́ kẻ đó không mất xác cũng mất hồn. Trên đường về nhà, ông đă nghe tin nhiều người có máu mặt ở thôn xă đă bị chúng bắt đem theo trong khi rút lui. Nhưng ông không hề tưởng tượng rằng đứa con gái của ông cũng chung số phận ấy. Ông đi như chạy vào nhà. ***** Cả mấy tháng sau trong xă hoàn toàn chưa ai được nghe chính xác tin tức về số phận những người bị bắt. Có tin đồn là một số bị giết và một số lại đi theo Cộng Sản. Gia đ́nh ông Thái vẫn hi vọng Liên ngây thơ vô tội chắc không đến nỗi bị hại. Bà Thái không lúc nào quên nghĩ đến đứa con gái ḿnh. Ngày nào bà cũng thắp hương khấn vái cầu nguyện ông bà giúp đỡ phù hộ cho con ḿnh trở về. Gần như đêm nào bà cũng có khóc. Bà ân hận v́ ḿnh không can đảm giữ Liên lại đừng cho đi họp hay ít nhất cũng cương quyết theo chân Liên đến chỗ họp. Không lư người ta dám bắn ḿnh lúc đó? Bà ân hận v́ đă quá tin tưởng vào những lời phỉnh gạt của người cán bộ em họ chồng ḿnh. Ngày nào bà cũng vào lau chùi trong pḥng Liên và không cho ai làm thay đổi một cái ǵ hết. Đến đôi tấc, bộ áo quần Liên thay lúc ra đi bà vẫn để chỗ cũ, không đem đi giặt. Lúc này bà hay ngủ tại giường của Liên. Rồi tin dữ cũng chính thức đến với gia đ́nh ông Thái. Khoảng nửa năm sau, khi Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa phát hiện một số hầm chôn người tập thể do lính bác Hồ thực hiện tại quận Phú Thứ, người ta cho khai quật để cải táng. Trong số nạn nhân, người ta đă chính xác nhận ra Liên. Khi gia đ́nh nhận được tin báo, bà Thái ngất xỉu đi mấy phút. Bà không thể tưởng tượng nổi. Hồi c̣n trẻ, bà đă nghe mấy người từng chứng kiến kể lại vài vụ chôn sống. Người th́ bị đánh cho ngất xỉu rồi đẩy xuống hố mà dập đất lên, đó là lúc người ta muốn giải quyết nhanh. Người th́ dùng sức mạnh ép đứng xuống một cái lỗ sâu mà dập đất lên ngang bụng, ngang ngực, hay ngang cổ tùy ư thích của cán bộ lănh đạo. Những người bị chôn sẽ năn nỉ khóc lóc van xin cho đến khi nào không c̣n nói được. Phần thân thể bên dưới của người đó sẽ tê dại nhanh chóng dưới sức ép của đất, mạch máu không c̣n lưu thông được, sau cùng đều chết. Đây là cách giết mà vừa trả thù, vừa thưởng thức. Một cách khác nữa rùng rợn hơn nhiều, gọi là xác chết đội mồ. Người ta đào một cái lỗ cạn, dùng sức đẩy nạn nhân c̣n đang khỏe mạnh xuống rồi dập phủ kín một lớp đất rất mỏng. Nạn nhân sẽ ọ ọ lên mấy tiếng giống như ḅ rống, chỗ đất mới đắp nứt nứt ra rồi cái đầu người phủ đầy đất tḥ lên tưởng như xác chết đội mồ. Những người chung quanh cứ cười nói thỏa thích chờ cho nạn nhân hồi sức được phần nào rồi áp lại dập đất lần khác. Đến khi nào nạn nhân lă người chịu nằm yên dưới lớp đất phủ là xong. Nghe nói không có nạn nhân nào ngoi dậy được lần thứ ba. Ngày trước nghe kể như thế nhưng bà đâu có tin! Bây giờ th́ những nạn nhân lại có nhiều người bà từng gần gũi, quen biết, có luôn cả người thân yêu nhất đời của bà nữa! Bà tưởng tượng ra những nỗi đau đớn quằn quại của đứa con gái ḿnh mà rùng ḿnh thon thót. Bất giác bà nhớ tới câu mà theo ông Trí là của bác Hồ, ba mẹ con bà đă nghe trong dịp tết vừa rồi “kế hoạch trăm năm không ǵ hơn là trồng người”. Con người cả đời hiền lành không biết chửi bới ai một câu bỗng nghiến răng rít lên: - Mụ cô cha hắn chứ trồng người! Té ra trồng người là chôn sống người! ***** Sau khi cải táng cho con, bà Thái ngă bệnh kéo dài cả năm. Khi lành bệnh, tính khí bà trở nên thất thường. Nhiều khi bà ngồi cả buổi để nh́n lên bàn thờ người con gái. H́nh như đôi mắt yếu kém của bà vẫn nh́n thấu suốt qua tấm vải đỏ phủ trên khung ảnh mang gương mặt ngây thơ bầu bĩnh tươi như hoa của cô gái. Những giọt lệ cứ ḅ trên đôi má nhăn nheo của bà. Nhiều khi đang làm việc ǵ bà bỗng ngưng lại, thở dài: Bác Hồ nhân ái lắm, bác thương dân như con đỏ, kế hoạch trăm năm không ǵ hơn là chôn sống người! Từ ngày mất Liên, ḷng bà Thái cũng mất luôn mùa xuân, mất vĩnh viễn. Có mùa xuân nào nữa mang lại niềm vui cho bà đâu? Càng về già cái tính thất thường của bà càng tăng. Lắm lúc bà quên cả mọi người chung quanh cũng như mọi việc. Nhưng lạ một cái bà vẫn hay nhắc một câu nói cũ và vẫn không lẫn lộn một chữ nào: “bác Hồ nhân ái lắm, bác thương dân như con đỏ, kế koạch trăm năm không ǵ hơn là chôn sống người!”. Ngô Viết Trọng Lượm lặt từ các nguồn của Blog 16 Sau cuộc chiến, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa ước lượng tổng số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7,600 như sau: Bị thương và tàn tật v́ bom đạn : 1.900 Thường dân bị chết v́ bom đạn : 844 Nhóm mồ tập thể thứ nhất ngay sau cuộc chiến : 1.173 Nhóm mồ tập thể thứ nh́, luôn cả G̣ Cát, tháng 3-7, năm 1969 : 809 Nhóm mồ tập thể thứ ba, suối Đá Mài (quận Nam Ḥa, tháng 9, 1969 ) : 428 Nhóm mồ tập thể thứ tư, biễn muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969 : 300 Ước lượng những mồ t́m rải rác chung quanh thành phố Huế : 200 Số người vẫn c̣n mất tích : 1.946 Tổng số nạn nhân của cộng sản ở Huế: 7.600 Chú thích của tác giả – tài liệu trên đây lấy từ - SEATO: South East Asia Organization. - PAVN: People’s Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South... |
Điệp Viên Giỏi Nhất của Việt Nam Cộng Ḥa
Trong cuộc chiến Việt Nam, không phải chỉ có những đơn vị chủ lực: Nhảy Dù, TQLC, Biệt Động Quân, Không & Hải Quân..., tham gia chống trả cuộc xâm lăng của Cộng sản miền Bắc. Có nhiều cá nhân, nhiều đơn vị vô danh đă âm thầm đóng góp xương máu của ḿnh vào cuộc chiến ngăn chận bon Cộng Sản xâm lược... Những Anh Hùng Vô Danh!
T́nh Báo Trong Chiến Tranh - Điệp Viên Giỏi Nhất của Việt Nam Cộng Ḥa (Tài liệu được phổ biến bởi BBC) Phan Tấn Ngưu Trong hai ngày 20 và 21 tháng 10 năm 2008, Trung Tâm Việt Nam thuộc Đại Học Công Nghệ Texas, cùng Trung Tâm Nghiên Cứu T́nh báo thuộc CIA, đă tổ chức hội thảo mang chủ đề: “T́nh báo trong chiến tranh Việt Nam” - Tường tŕnh của BBC... ... Nhiều chuyên viên đang và từng làm trong ngành t́nh báo của Mỹ và Nga đến nói chuyện về kinh nghiệm của họ trong cuộc chiến. Có bảy buổi thuyết tŕnh với bảy chủ đề lớn như: CIA ở Việt Nam, Chương tŕnh Phượng Hoàng, Công nghệ và T́nh báo, Cuộc chiến bí mật ở Lào, Hoạt động t́nh báo Nga và Việt Nam… Một trong các diễn giả, Merle Pribbenow, đem đến hội thảo bài thuyết tŕnh: “Những điệp viên vô danh nổi tiếng nhất trong cuộc chiến Việt Nam.” Merle Pribbenow, cựu nhân viên CIA và chuyên gia tiếng Việt, từng phục vụ ở Sài G̣n từ 1970 đến 1975. Sau khi rời khỏi CIA năm 1995, ông dành thời gian để dịch các sách lịch sử của Việt Nam và viết về cuộc chiến. Bộ lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam được ông dịch sang tiếng Anh, và được NXB Đại học Kansas ấn hành năm 2002. Trong bài thuyết tŕnh ở hội thảo, Pribbenow mô tả ba nhân vật hoạt động cho ba cơ quan t́nh báo khác nhau: CIA, Pḥng T́nh Báo Chiến Lược của Trung Ương Cục Miền Nam, và T́nh báo Quân đội Liên Xô. Được sự cho phép của tác giả, BBC xin giới thiệu hai phần trong bài thuyết tŕnh, nói về Nguyễn Văn Minh (Ba Minh) và Vơ Văn Ba (người được gọi là điệp viên số một của CIA ở ViệtNam). - Ngưng trích. V́ chủ đề viết về Điệp Viên ở Tây Ninh, nên chúng tôi không đề cập đến đoạn nói về các Điệp Viên nằm trong văn pḥng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, mà chỉ viết theo đề tài chính mà thôi. - Trích tiếp: I. PHẦN THUYẾT TR̀NH CỦA MERLE PRIBBENOW Trong chiến tranh Việt Nam, Quân đội Mỹ sử dụng nhiều t́nh báo trong cuộc chiến Việt Nam (undefined). Tiếp theo phần một loạt bài về các điệp viên ít được biết đến trong cuộc chiến Việt Nam, BBC giới thiệu nhân vật Vơ Văn Ba, người được gọi là điệp viên “giỏi nhất của CIA ở Việt Nam”. (Tư liệu dựa trên bài thuyết tŕnh “Những điệp viên vô danh nổi tiếng nhất trong cuộc chiến Việt Nam" của ông Merle Pribbenow). Bài này đă đọc tại hội thảo “T́nh báo trong Chiến tranh Việt Nam”, ở Trung tâm Việt Nam thuộc Đại học Công nghệ Texas (undefined). Đọc phần một loạt bài tại đây: Orrin De.Forest, một nhân viên CIA phục vụ sáu năm ở Việt Nam, nhắc đến con người này với mật danh “Reaper” trong cuốn sách “Slow Burn: The Rise and Bitter Fall of American Intelligence in Vietnam.” Một chuyên viên khác của CIA, John Sullivan, nói ông ta là “điệp viên giỏi nhất mà chúng ta từng có ở Việt Nam.” C̣n trong cuốn tiểu sử về sếp CIA ở Sài G̣n Ted Shackley, tác giả David Corn dẫn ra một sự đánh giá thời hậu chiến của CIA rằng điệp viên này là “nguồn tin đáng tin cậy nhất về ư định của cộng sản” ở Việt Nam. Frank Snepp, một nhà phân tích t́nh báo có đôi lần gặp con người này, gọi ông ta là “điệp viên hàng đầu của chúng ta” ở Việt Nam. Văn pḥng của CIA ở Sài G̣n th́ đơn giản gọi ông này là “nguồn tin Tây Ninh”. Sau 1975, những người cộng sản mô tả nhân vật này là “điệp viên nguy hiểm trung thành với CIA” và nói CIA xem ông ta là “điệp viên có giá nhất tại Đông Dương” của CIA. Con người này là ai? Tên của người này là Vơ Văn Ba. Theo các ghi chép của phía cộng sản, nhân vật này, sinh năm 1923, là một đảng viên Cộng sản phụ trách tuyển mộ đảng viên mới ở khu vực Ṭa thánh Cao Đài và thành phố Tây Ninh. Có những ghi nhận khác nhau về cách làm thế nào và nhờ ai mà điệp viên này được tuyển mộ cho CIA. Orrin DeForest nói chú của ông Ba, ban đầu theo Việt Minh nhưng sau trở thành sĩ quan phục vụ trong ngành An Ninh Quân Đội của miền Nam, đă thu dụng người cháu. David Corn và John Sullivan viết rằng chú của Ba, người mà họ chỉ nói là một sĩ quan miền Nam, đă tuyển Ba làm chỉ điểm cho Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Ḥa. Trước khi CIA vào cuộc, có vẻ Ba làm việc một thời gian cho quân đội Mỹ. Theo John Sullivan, một người trong CIA nói Ba từng làm cho t́nh báo quân đội Mỹ. Không lâu sau khi đến tỉnh Tây Ninh năm 1969, sĩ quan CIA đầu tiên phụ trách Ba đă nhanh chóng chuyển điệp vụ mà lâu nay tiến hành khá nghiệp dư trở thành một hoạt động t́nh báo chuyên nghiệp, đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của CIA. Hoạt động Từ nay ông Ba được yêu cầu báo cáo về những mục tiêu chiến lược, các kế hoạch hành động mang tính chất toàn quốc, chứ không c̣n là những mục tiêu chiến thuật cấp thấp. Ông Ba ở trong vị trí lợi thế để lấy được những thông tin chiến lược v́ trong suốt giai đoạn này, trụ sở chính của Trung Ương Cục Miền Nam đặt rất gần chỗ ông, có lúc bên trong tỉnh Tây Ninh, có lúc ở tỉnh B́nh Long kế cận. Các báo cáo của người này được chuyển qua các kênh thông tin của CIA, và chỉ một số ít người biết về sự tồn tại của Ba. Quân Mỹ sử dụng thông tin t́nh báo để tiến hành các cuộc tấn công. Để bảo đảm bí mật, chỉ một sĩ quan Cảnh Sát Đặc Biệt miền Nam và một nhân viên người Việt ở văn pḥng CIA ở Tây Ninh được phép gặp mặt Ba ở Tây Ninh. Chỉ thỉnh thoảng Ba mới gặp nhân viên CIA người Mỹ và cũng chỉ gặp ở địa điểm mật tại Sài G̣n. Thông tin mà ông Ba cung cấp thường xuyên được sử dụng trong các đánh giá của t́nh báo Mỹ về kế hoạch của phe cộng sản. Ngoài ra, mặc dù Ba chuyên môn theo dơi các khía cạnh chính trị chứ không phải quân sự, nhưng thỉnh thoảng ông cũng báo trước các cuộc tấn công ở khu vực Tây Ninh. Tuy nhiên, vẫn có những câu hỏi về sự trung thành của ông Ba đối với CIA. Mấy lần kiểm tra ông bằng máy thử nói dối đều có kết quả không làm CIA hài ḷng. Năm 1971, hai năm sau khi CIA tuyển mộ Ba, họ phát hiện rằng Ba vẫn ngầm liên lạc và báo cáo cho t́nh báo quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. CIA ngay lập tức liên lạc và yêu cầu quân đội Miền Nam ngừng mọi giao thiệp với Ba. Một số sĩ quan CIA cũng đặt câu hỏi làm sao Ba lại không bị Việt Cộng phát hiện mặc dù các điệp viên cộng sản đă xâm nhập vào toàn bộ các tổ chức t́nh báo của miền Nam, những nơi biết về sự tồn tại của con người này. Nhưng rốt cuộc, sự chính xác trong các báo cáo của Ba làm tan biến mọi hồ nghi, và giới t́nh báo miền Nam và Mỹ xem Ba là tài sản quư giá của họ. Những người cộng sản cũng ngày một nhận ra là họ có kẻ phản bội trong hàng ngũ. Những thiệt hại ở khu vực Tây Ninh năm 1969, những dấu hiệu là đối phương biết trước ư định tấn công, khiến những người cộng sản nghi ngờ trong nội bộ của họ có điệp viên. Một nữ cán bộ được cử điều tra tại Tây Ninh, nơi Ba có nhiệm vụ tuyển mộ và tổ chức chi bộ đảng. Nhưng nhà nữ điều tra này lại bị an ninh miền Nam bắt được khi bà đi vào địa giới do Việt Nam Cộng Ḥa kiểm soát, và bà bị giam cho đến hết cuộc chiến. Không có tư liệu cho biết liệu có phải ông Ba đă báo cho an ninh miền Nam bắt người này hay không. Cuộc truy t́m nội gián trở nên gấp rút tới mức, theo một loạt các bài báo đăng trên báo chí Việt Nam năm 2004, một trong những điệp viên cao cấp của cộng sản trong chính quyền miền Nam, Nguyễn Văn Tá (tức Ba Quốc), được giao nhiệm vụ săn lùng nội gián vào năm 1972. Ông Ba Quốc đoán rằng hồ sơ mà ông muốn có thể nằm trong một tủ khóa ở Nha điệp báo (ban K) thuộc Phủ Đặc ủy trung ương t́nh báo. Ông vào được nơi này và định mở khóa, nhưng lại có người vào bất th́nh ĺnh, khiến ông đành bỏ dở. Hai năm sau, các hoạt động của chính ông Ba Quốc bị phát hiện và ông phải trốn vào căn cứ cách mạng ở đồng bằng sông Cửu Long. Đoạn Kết Hồ sơ mật về ông Vơ Văn Ba được an toàn cho đến ngày Sài G̣n sụp đổ hôm 30-4-1975. Khi quân đội cộng sản chiếm văn pḥng Phủ Đặc ủy trung ương t́nh báo ở Sài G̣n. Viễn Chi, Cục Trưởng Cục T́nh Báo của Bộ Công an Bắc Việt, được nói là đă t́m thấy hồ sơ về Ba trong ngăn khóa của Nguyễn Khắc B́nh, Tổng giám đốc cảnh sát quốcgia. Cho đến khi cuộc chiến gần kết thúc, ông Ba tiếp tục có những báo cáo giá trị cho CIA. Thế nhưng đến tháng một năm 1975, khi Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Bắc Việt ra Nghị Quyết tổng tấn công để “dứt điểm” Miền Nam Việt Nam, Vơ Văn Ba đă không báo động trước cho CIA về Nghị Quyết nầy. Đây không phải lỗi của Ba mà là do Cộng sản nghi là có người phản bội trong hàng ngũ của họ, thành ra giới lănh đạo Trung Ương Cục Miền Nam đă quyết định không phổ biến Nghị Quyết mới cho cấp dưới. Vào giữa tháng Tư 1975, ông Ba cho CIA một loạt báo cáo cuối cùng mô tả chung chung kế hoạch tấn công Sài G̣n của Bắc Việt. Những báo cáo này được xem trọng đến mức chúng được đưa vào bản phúc tŕnh hàng năm của đại sứ Mỹ Martin trước một ủy ban của Quốc hội Mỹ về việc sơ tán khỏi Sài G̣n. Nhưng vào lúc Ba chuyển những báo cáo này th́ số phận của miền Nam đă được định đoạt. Thực tế, số phận của chính ông Ba cũng được định đoạt, mặc dù lúc này ông chưa biết. Điệp viên Vơ Văn Ba bị bắt đúng ngày 1-5-1975 Khi Sài G̣n sắp sụp đổ, CIA đề nghị đưa Ba và gia đ́nh sang Mỹ. Nhưng ông này lại từ chối, nói là muốn ở Việt Nam thay v́ khởi nghiệp từ đầu ở xứ người trong lúc tuổi đă cao. CIA hứa họ sẽ làm mọi cách để ngăn không cho hồ sơ về ông Ba rơi vào tay đối phương. Tuy vậy, lúc đó quân đội cộng sản đă bắt được và tra hỏi một người mà có lẽ biết hoạt động của ông Ba rơ hơn ai hết. Theo các ghi chép hậu chiến của Việt Nam, ông Nguyễn Văn Phong (hay Nguyễn Sĩ Phong) là một người di cư miền Bắc 33 tuổi làm việc cho văn pḥng CIA ở Tây Ninh. Ông Phong là người liên lạc của Ba ở CIA kể từ 1969, ngay sau khi CIA tuyển mộ Ba. Sau nhiều năm làm việc trực tiếp với Ba, sau này ông Phong rời khỏi Tây Ninh và làm ở văn pḥng CIA ở Ban Mê Thuột. Ngày 10-3-1975, lực lượng cộng sản nhanh chóng chiếm được Ban Mê Thuột. Ông Phong và gia đ́nh chạy đến nhà của Paul Struharik, đại diện của USAID và là nhân viên người Mỹ duy nhất c̣n ở lại trong tỉnh. Nhưng ngôi nhà lập tức bị bao vây và mọi người trong đó bị bắt. Ông Phong thú nhận ông đă làm việc cho CIA và khai ra tên của Vơ Văn Ba. Ngày 30-4-1975, quân cộng sản chiếm thành phố Tây Ninh và bắt được Phan Tấn Ngưu, sĩ quan miền Nam phụ trách trường hợp ông Ba. Bản thân ông Ba bị bắt ngày 01- 5-1975. Phía Việt Nam nói ông Ba tự sát ngày 8-6-1975 trong lúc đang bị giam trong trại của Bộ Công an. Sự thật về cái chết của Vơ Văn Ba – có phải đó là tự sát hay là một điều ǵ khác- có lẽ sẽ không bao giờ được biết. Đoạn kết khác C̣n có thêm một đoạn kết khác cho câu chuyện về điệp viên Tây Ninh. Vào năm 1980, trong cao trào thuyền nhân, Paul Struharik, đại diện của USAID ở Buôn Mê Thuột và là người có nhà bị bao vây hồi tháng Ba 1975, nhận được lá thư gửi về địa chỉ nhà ông ở Mỹ. Lá thư được gửi từ Malaysia, và người viết là Nguyễn Văn Phong. Phong nói ông đă trốn được khỏi trại giam Bắc Việt bằng cách nhảy khỏi xe trong lúc chuyển tù. Ông nói sau khi trốn thoát, ông t́m thấy vợ con và cả nhà sắp ra đi trên con thuyền với những người tị nạn vừa đến được bờ biển Malaysia. Theo Phong viết th́ v́ thuyền của ông vẫn c̣n đi biển được, phía Malaysia muốn đẩy họ đi tiếp, nhưng Phong nói ông thuyết phục được người ta gửi lá thư này về Mỹ. Phong nhờ Struharik giúp đỡ. Câu chuyện của ông Phong nghe khó tin v́̀ làm sao một người tù quan trọng như ông có thể trốn thoát, lại mang theo được cả vợ con. Tuy vậy người Mỹ biết rằng trong đời này cũng thỉnh thoảng gặp trường hợp phép lạ, thành ra họ vẫn gửi tin nhắn yêu cầu nhân viên chức trách để ư khi thuyền của ông Phong đến được trại tị nạn. Khoảng hơn một tuần sau, một người Việt Nam lênh đênh trên biển Đông được một chiếc tàu đi ngang cứu được. Người này nói ông ta có mặt trên con thuyền của ông Phong. Ông nói con thuyền đó đă ch́m trên đường tới Indonesia, và mọi người trên thuyền, kể cả ông Phong và gia đ́nh, đă chết. (theo BBC) . Hết. II. TƯỜNG TR̀NH CỦA NGƯỜI TRONG CUỘC: Phan Tấn Ngưu Ngay sau buổi thuyết tŕnh từ Đại Học Công Nghệ về, Merle Pribbenow t́m mọi cách để liên lạc với chúng tôi, v́ ông ta cho rằng bài thuyết tŕnh vừa qua, có những điểm không giải thích được cũng như c̣n những chi tiết mà ông không được biết trong việc xây dựng cũng như điều khiển công tác này, nhất là cách nào đă bảo vệ an toàn cho công tác trong nhiều năm. Trong chuyến công tác của chúng tôi tại Hoa Thịnh Đốn vào đầu năm 2010, Ông Merle Pribbenow có t́m gặp và cùng nhau đi ăn phở trong khu thương mại Eden. Gặp nhau, để ông yêu cầu là tôi sẽ viết lại những diễn tiến công tác, từ lúc chưa trở thành một điệp viên có bí số X..., cũng như tất cả những chi tiết liên quan đến việc điều hành công tác này, mà cho măi đến 30-4-1975 hăy c̣n an toàn, dù bọn Việt Cộng luôn nghi ngờ và kiểm soát gắt gao trong hàng ngũ của chúng! Trở lại thuở ban đầu. . . . . . . . . . Khoảng giữa năm 1970, tôi được Giám Đốc Nha CSQG Vùng III chọn về làm Trưởng Pḥng Cảnh Sát Đặc Biêt Ty CSQG Tây Ninh thay thế cho Ông Lê Quư Thông bị tử thương khi đi hành quân vào tháng 5 năm 1970. Khi nghe tin "được" đi Tây Ninh, cảm thấy ớn da gà, v́ nơi đây đầy những địa danh với những chiến trận khốc liệt. Ớn th́ ớn, nhưng cũng phải xách gói lên đường, với bao lời khuyên bảo, khích lệ cũng như lời hứa giúp đở tận t́nh của Đại Tá Đào Quan Hiển. Tôi hăy c̣n nhớ lời nhắn nhủ của Ông: “Tôi không cần biết cậu có tài hay không, tôi chỉ cần cậu sự siêng năng và không quản ngại khó khăn ....” Những ngày đầu đến địa phương mới, gần như là những ngày bị mất ngủ, không chỉ với bao công việc phải giải quyết hàng ngày mà phải xem lại từng hồ sơ của những cảm t́nh viên, mật báo viên mà nhất là những t́nh báo viên c̣n đang hoạt động. Trong đống hồ sơ đó, tôi không thể không lưu tâm đến công tác X.54 (bí số xử dụng trong những năm 1969-1970) và t́nh báo viên có tên là Vơ Văn Ba (tức Năm Huỳnh), hiện cư ngụ tại vùng Ṭa Thánh Cao Đài Tây Ninh. Sinh sống bằng nghề ruộng rẫy, thường xuyên ra vào khu vực xă Ninh Thạnh, Hiệp Ninh và Suối Đá cho măi đến gần chân Núi Bà Đen phía Bắc tỉnh Tây Ninh (đường ra vào của bọn cán bộ Cục R) Xem lại từng chi tiết về nhân vật này, được biết sinh quán tại Mộc Hóa tỉnh Kiến Tường và v́ chiến cuộc nổi trôi đă đến lập nghiệp tại vùng Long Hoa, quận Phú Khương, tỉnh Tây Ninh. Trong gia đ́nh của Vơ Văn Ba ở Kiến Tường, có người chú đă hoạt động cho Việt Minh và cùng với Ba gia nhập đảng cộng sản từ những năm 1945. Cho đến khoảng 1967, do sự móc nối của một nhân viên hoạt vụ, trước kia cũng là một cán bộ cộng sản, hoạt động vùng xă Hảo Đước (TN) sau về đầu thú, lập công và được tuyển dụng làm nhân viên Công An từ những năm 1962 (do Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, quyết định tuyển chọn), đă tuyển mộ Ba làm Mật Báo viên. Từ những năm 1967 đến 1970, Vơ Văn Ba thỉnh thoảng báo cáo những hoạt động có tính cách địa phương như dưới h́nh thức lượm lặt, gặp gỡ với bọn cán bộ Việt Cộng trong lúc đi làm rẫy trong vùng bất an ninh mà Quốc Gia chưa kiểm soát được. Những báo cáo của Ba có vẻ chính xác mà chúng ta có thể kiểm chứng được ở từng địa phương và từng thời điểm. Nhưng có một vài báo cáo mà tôi không thể không lưu tâm: 1. Đó là cuộc Tổng công Kích Tết Mậu Thân năm 1968. Cả hai phía VNCH và Cộng Sản đă kư kết Hiệp Ước ngừng bắn, để cho người dân được vui Xuân đón Tết, có hiệu lực từ ngày Mồng Một tháng Giêng Tết. Nhưng ngày 25 tháng Chạp, Vơ Văn Ba đă báo cáo là cộng sản đang chuẩn bị cuộc tổng tấn công toàn diện trên khắp miền Nam, từ thành phố cho đến thôn quê. Trong báo cáo này, Ba cho biết đă được bọn Việt Cộng đi họp ở phía Bắc núi Bà (Chiến khu D) về thuật lại, là được lệnh Trung Ương phải thực hiện cuộc tổng công kích bất ngờ này để cướp cho bằng được miền Nam. Và báo cáo này được chuyển về Tổng Nha CSQG và Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ nội trong sáng ngày 26 tháng Chạp ta. Trong những bài trước đây khi viết về Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, chúng tôi có đề cập đến lệnh của Ông, yêu cầu các đơn vị CSQG trên toàn quốc phải cấm trại 100% và ra lệnh phải lo đào hầm trú ẩn chung quanh các đơn vị, trong khi anh em quân nhân đang lần lượt được thay phiên đi phép về thăm nhà...và “ăn Tết”. 2. Trung Ương Cục (TƯC) ra lệnh lui binh để tránh bị tổn thất khi Quân Lực VNCH tấn công qua đất Campuchia từ cuối năm 1969 cho đến 1970. Một số đơn vị phải cố thủ ở vài mật khu quan trọng, c̣n hầu hết rút về phía Nam Lào. Bọn Việt Cộng đoán chắc thế nào Quân Đội VNCH cũng đánh sang Campuchia để tiêu diệt cho bằng được bọn Trung Ương Cục đang ẩn náo nơi đây. Đây là 2 báo cáo tiêu biểu trong rất nhiều báo cáo b́nh thường khác, tôi cảm thấy Vơ Văn Ba không phải là một “Mật Báo Viên” b́nh thường, mà bên cạnh Ba c̣n có ai hoặc tổ chức nào, hoặc cá nhân của Ba là ai mới có được những tin tức như vậy. Những thắc mắc của tôi được cố vấn Mỹ lúc đó là Bernard D’ambrossio cũng đồng quan tâm. Sau khi thảo luận, chúng tôi quyết định cần có cuộc gặp với Ba ít nhất trong 3 ngày và địa điểm là tại Sàig̣n. Lúc đó là khảng giữa năm 1971. Mỗi lần hẹn để gặp với Vơ Văn Ba, chúng tôi phải chuẩn bị từ lúc đi cho đến lúc về, v́ lúc đó Ba đă là một mật báo viên “đáng tin cậy”. Điều quan trọng là trong gia đ́nh, Ba phải giải thích cho vợ và 2 đứa con, một trai và một gái, sự vắng mặt của ḿnh. Chuẩn bị cho mỗi chuyến đi, không kỳ nào giống kỳ nào. Nhưng chuyến đi đó, là lần đầu tiên sau khi tôi đến phục vụ tại Tây Ninh, chúng tôi yêu cầu Ba giả vờ đi phám bệnh tại bệnh viện tỉnh (nhưng không được gặp bất cứ bác sĩ nào), sau đó, chỉ lách qua một cánh cửa, lẻn ra pḥng kín phía sau, leo nằm trên chiếc băng ca, với tấm vải che toàn thân, mặt và được 4 anh em Cảnh Sát Đặc Biệt khiêng cho vào xe cứu thương và đưa ra phi trường Tây Ninh West (Tỉnh lỵ) có phi cơ chờ sẵn và đưa về Sàig̣n (4 nhân viên CSĐB này cũng không biết là ai đang nằm trên đó). Riêng chúng tôi, cùng với cán bộ điều khiền, lái xe đi đường bộ và hẹn gặp nhau tại Hotel X.Y. Ngoại trừ khi ở trong pḥng khách sạn ( chúng tôi ở pḥng bên cạnh), khi đi ra ngoài, đi ăn tiệm, nghe nhạc v.v... Vơ Văn Ba đều phải hóa trang tùy theo địa điểm sẽ tới: khi mang tóc giả, khi mang râu v.v..., nhưng thường phải mang kính đen, nếu ban ngày. Kỳ gặp đó, có cả Frank Snepp, chuyên viên phân tích của ṭa đại sứ Mỹ, tham dự, và thông dịch viên lúc đó là Ông Nguyễn Sĩ Phong cùng với một người Mỹ đến để thu âm mà không tham gia cuộc thảo luận. Kết quả, chúng tôi được biết: - Ông Ba là một Trung Ương Ủy Viên, đang giữ nhiệm vụ tuyển mộ cán bộ và đảng viên mới để phụ giúp ông kiểm soát mọi hoạt động trong vùng Ṭa Thánh Tây Ninh cũng như cung cấp nhân sự cho các đơn vị khác từ cấp Quận, Tỉnh và Trung Ương Cục (TƯC) v.v... - Thi hành mọi chỉ thị của TƯC, trong việc phá hoại tại địa phương như đặt chất nổ, răi truyền đơn. Ông Ba chỉ ra lệnh cho những Chi Bộ khác thực hiện mà không được tham gia trực tiếp các công tác này. - Bám sát và yểm trợ mọi hoạt động của Chi Bộ Ṭa Thánh để ám sát những chức sắc cao cấp mà bọn chúng cho là do chính quyền Sài-g̣n dựng lên, như quư ông Cao Hoài Sang, Trương Hữu Đức, Lê Thiện Phước, Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Nhă (sau này giữ chức Thượng Chánh Phối Sư), mà nhất là Cựu Trung Tướng Cao Đài Nguyễn Văn Thành. (xin mở ngoặc thêm chỗ này: Với chức Thượng Chánh Phối Sư, sau 30 tháng 4/1975, Ông Nguyễn Văn Nhă bị bọn Cộng Sản bắt giam ở khu vực núi Bà 10 năm, cho đến năm 1985 mới được thả) Chúng tôi đă tường tŕnh trong một bài viết trước đây trên Phượng Hoàng về cái chết của Trung Tướng Nguyễn Văn Thành. Chúng đă ám sát ngay phía sau pḥng ngủ, trong nội ô Ṭa Thánh, v́ chúng cho rằng những người này là người của CIA, gây khó khăn cho bọn TƯC trong việc khống chế Đạo Cao Đài. (Qua những tin tức khác nhận được, không phải Trung Ương Cục chỉ thị cho Riêng X.92 mà Huyện Ủy Ṭa Thánh của Việt cộng cũng được chỉ thị tương tợ, v́ chúng tôi có được một T́nh Báo viên hoạt động trong Huyện Ủy này). Trung Tướng Cao Đài Nguyễn Văn Thành bị giết vào ngày 22 tháng 11 năm 1972 (16 tháng 10 Âm Lịch) - Dù đang dịnh cư tại Tây Ninh, nhưng Vơ Văn Ba vẫn được bọn Trung Ương Cục bí mật liên lạc để chỉ thị công tác cũng như mời tham dự các cuộc họp ở phía Bắc Núi, nơi cứ địa của Mặt Trận Giải Phóng. Điều nên biết thêm, mỗi lần đi họp như vậy, có cả các cấp Ủy, như Tỉnh, Huyện, Xă... Vơ Văn Ba được sắp xếp cho ngồi phía trước, ở một vị trí được che kín (những người ngồi phía sau không thấy được). Theo hồ sơ tuyển mộ của ngành Đặc Biệt Tỉnh Tây Ninh, sau một thời gian ngắn khi đến Tây Ninh lập nghiệp, Vơ Văn Ba đang đứng trước ngả ba đường: bọn Việt Cộng vẫn cho người đến để móc nối và thường xuyên đe đọa, nếu Ba từ chối hoặc phản bội, bọn chúng sẽ tố cáo Ba trước kia hoạt động cho Cộng Sản ở Kiến Tường, với cấp đảng là... thuộc tổ chức ..v.v... Đó là lư do mà Ba phải nhờ một người chú họ, giới thiệu cho Ty Cảnh Sát và được tuyển mộ làm “nhân viên ngoại vi”. Ngành Đặc Biệt Tây Ninh tuyển mộ được 3 nhân viên ngoại vi và cả 3 người này đều đă đem lại thành quả, như sau: a. Anh Đ. V. N.: Sau này trở thành công tác X.45, đă phá vở ổ Việt cộng ở Làng Cô Nhi Long Thành năm 1973 sau cuộc bố ráp do sự phối hợp của E. Công Tác (BTL) và ngành Đặc Biệt Tỉnh Gia Định. b. Anh Ng. T.T: sau này trở thành công tác Y.80, đă phá vở tổ chức Y.4 của Việt Cộng và bắt được chủ nhà hàng Thanh Bạch, tọa lạc trên đường Lê Lợi, gần bệnh viện Sài-g̣n năm 1974. Sau năm 1975, anh T. bị bắt và bị di tù tận ngoài Bắc với tôi và được thả sau hơn 10 năm. c. và Vơ Văn Ba ... Khi nhận làm nhân viên ngoại vi, chỉ là h́nh thức một cái nón che thân, v́ Ba biết không thể nào thoát được sự bám sát và đe dọa của Việt cộng, nhưng nếu Quốc Gia biết được cũng phải bị bắt. Từ h́nh thức mượn cách để che thân, dần dần Ba thấy được cái dă tâm của Việt Cộng từ ngày chúng du nhập vào Việt Nam. Trong những dịp có thời giờ tiếp xúc với Ba, anh thường than thở, kiểm điểm lại những ǵ ḿnh đă làm khi theo bọn chúng từ ở vùng quê Kiến Tường cho đến sau này, chỉ là cướp của, giết người, kể cả những người dân vô tội. Muốn cho dân sợ để theo, để "ủng hộ" cách mạng, chỉ có cách là phải "giết"! Cuối cùng, anh than rằng: "Chỉ những người không lương thiện, không có cái tâm, mới theo tụi nó". Khi anh đă nghĩ như vậy, mới nảy sinh ra một việc mà chúng tôi phải giải quyết. Anh có người con trai, tên Vơ T.D, đậu Tú Tài I năm 1971, nhưng rớt Tú Tài II liền 2 năm sau đó, trong khi đă hết hạn hoản dịch v́ lư do học vấn, v́ lứa tuổi đang thuộc về “tài nguyên của trường Bộ Binh Thủ Đức”. Nếu cho con gia nhập trường Thủ Đức, chắc chắn anh sẽ bị hạ tầng công tác, đương nhiên việc hợp tác với Quốc gia sẽ không c̣n hữu hiệu nữa, đôi khi c̣n gặp rắc rối sau này. Ngược lại, nếu anh cho con theo Việt Cộng, điều mà anh không bao giờ muốn v́ anh đă trải qua gần hết cuộc đời cho chúng. Sau đó chúng tôi về gặp Đại Tá Huỳnh Thới Tây, Phụ Tá Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh CSQG để tŕnh bày sự việc. Chỉ hơn 1 tuần sau, tôi được gọi về gặp Ông, để nhận giấy hoản dịch tiếp cho VT.D. Khi đó tôi mới biết, Đại Tá Tây lên gặp Thiếu Tướng Tư Lệnh, và với sự yêu cầu của BTL/CSQG, Nha Động Viên (mà Giám Đốc lúc bấy giờ là Thiếu Tướng Bùi Đ́nh Đạm), đă kư giấy hoản dịch này. Những thắc mắc về nhân vật này dần dần được giải tỏa. Và cũng từ đó, việc bảo vệ an toàn cho công tác phải được quan tâm hơn nữa. Liền sau đó, chúng tôi đă đổi bí số công tác, từ X.54 (năm 1970), thành X.69 với bí danh là Rạng Đông (năm 1972), cho đến 1974 được đổi thành X.92 với bí danh là Bảo Quốc. Từ nay chúng tôi chỉ dùng bí số X.92 để viết về công tác này, giúp cho người đọc hiểu dễ dàng hơn. Tiếp theo đây, chúng tôi tŕnh bày một số chi tiết trong việc điều hành Công Tác X.92, cũng là kết quả thỏa thuận với Vơ Văn Ba trong chuyến đi đó cũng như những lần gặp gỡ sau đó: 1. HỆ THỐNG GIAO LIÊN Với loại công tác như X.92, việc an toàn luôn là nhiệm vụ hàng đầu không thể sơ xuất bất cứ lư đo ǵ. Trong việc liên lạc, chúng tôi đă xử dụng: a. Hệ thống máy liên lạc: Đó là loại phone không có dây (như loại Walkie Talkie bây giờ). Máy chỉ mở trong những giờ giấc đă ấn định và không được chuyện tṛ hơn 1 phút. Trong một phút đó, chỉ để biết sẽ phải làm ǵ, như đến nhận thư ở hộp thư số..., đến nhà an toàn số ..., hoặc sẽ đi công tác trong mấy ngày.... b. Hộp thơ chết: Có tất cả 3 hộp thư chết, hai đặt trong c̣ng nội ô Ṭa Thánh và 1 đặt bên ngoài, gần Tỉnh lỵ. c. Hộp thơ lưu động: Phương tiện vận chuyện thông dụng của dân Tây Ninh là xe lôi. Xe lôi có nhiều thứ, nhất là các loại xe: Honda, Suzuki, Yamaha. v.v.. Chiếc xe này được gắn số ẩn tế, hay nói đúng hơn là số giả. Mỗi lần anh tài xế (là nhân viên Đặc Nhiệm) có lệnh đi công tác, là phải lo đổi số xe khác và phải lo gắn cái nóc xe để sẽ có 2 nữ hành khách là 2 học sinh, xách 2 cái cập giống nhau, sẽ đón xe tại những ngả đường khác nhau. Khi đến đoạn đường nào đó sẽ lần lượt xuống xe, kẻ trước người sau, sau khi đă đổi cập cho nhau. Loại lưu động này chúng tôi thường xử dụng, sau mỗi lần X.92 đi công tác hoặc đi họp ở T.Ư.C về, viết báo cáo xong và bấm máy liên lạc 1,2,3. Trên đường trở về, khi đến đoạn đường nào đó, Cán Bộ Điều Khiển ra nhận, bọc kín cập sách lại và mang vào văn pḥng để lấy tài liệu hoặc báo cáo... d. Nhà an toàn: Đương nhiên, nhu cầu này chỉ là một đề tài mà bất cứ người trong ngành đều được biết và đều phải làm. Riêng với X.92 chúng tôi có 2 cái, ở vùng Long Hoa và ở gần tỉnh lỵ. 2. NHỮNG THÔNG DỊCH VIÊN Cố vấn Cảnh Sát Đặc Biệt tại Tây Ninh có ít nhất là 3 hay 4 thông dịch viên Việt Nam, v́ công tác ở Tây Ninh khá nhiều, không chỉ ở cấp Tỉnh mà ở các Quận cũng có những T́nh Báo Viên hoặc Mật Báo Viên. Riêng công tác X.92 chỉ có một thông dịch viên, không kiêm nhiệm bất cứ công tác nào khác, mà chúng tôi và cố vấn Mỹ đồng ư với những điều kiện như sau: - Không phải là người của Tây Ninh - Không có bà con thân thuộc, là người đang sinh sống tại Tây Ninh. Suốt hơn 4 năm phục vụ ở Tây Ninh, tôi được gần gũi với 3 thông dịch viên (cho riêng công tác X.92) - Nguyễn Sĩ Phong - Nguyễn Cao Quang - Nguyễn Thanh Trang Trường hợp Nguyễn Sĩ Phong (không phải Nguyễn văn Phong) đă đến Tây Ninh trước tôi, khoảng năm 1969. Phong người miền Bắc, nhỏ con, tương đối nhanh nhẹn thi hành những công tác được giao phó, nhất là dịch những báo cáo của X.92 sau mỗi lần đi họp ở Trung Ương Cục về, có khi phải thức cả đêm, v́ ngoài báo cáo viết tay, c̣n có cả tài liệu của Trung Ương Đảng phổ biến xuống (đôi khi vài ba chục trang giấy) Đến năm 1972, Phong có quen với một phụ nữ là dân đang sinh sống với gia đ́nh ở Tây Ninh và định lập gia đ́nh với người này. Trong những ngày đầu, khi Phong cùng đi chơi, ăn uống với phụ nữ này, chúng tôi đă được báo cáo và đă cho bí mật điều tra về họ. Rất may, gia đ́nh này thuộc loại tốt, có thể tin cậy được. Tuy nhiên, khi thảo luận với cố vấn Mỹ, phía Mỹ yêu cầu tôi giữ kín quyết định để họ sắp xếp cho yên, v́ nếu bị bất măn, Phong có thể “hy sinh” X.92 dưới bất cứ h́nh thức nào mà anh ta có thể làm được. Cuối cùng, chúng tôi được dự một bữa tiệc để tiễn Phong đi phục vụ tại Tổng lănh sự vùng II (Văn Pḥng Cố Vấn CIA), nghĩa là được thăng chức! (từ cấp Tỉnh lên cấp Vùng). Từ đó, công tác X.92 vẫn được tiếp tục an toàn cho đến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, đích thân tôi và Trưởng G. Công Tác mang tất cả những hồ sơ t́nh báo (từ hồ sơ tuyển mộ, hồ sơ công tác v.v... mang vào sân của Trung Tâm Thẩm Vấn để đốt và vất tro xuống giếng). Đến 9 giờ tối ngày 30 tháng 4, tôi và vợ tôi (Đại Úy Cảnh Sát), bị bắt bên trong ṭa Thánh Cao Đài và bị giam vào xà lim từ đó. Thời gian sau, vợ tôi bị đưa lên trại tù Cây Cầy, trong khu rừng “Chiến Khu D”, c̣n tôi bị đưa ra Bắc, đến 1988 chuyển về Nam và được thả ngày 29 tháng 4 năm 1992 Khi đang bị giam ở xà lim Tỉnh, khoảng ngày 4 hay 5 tháng 5/ 1975, tôi được gọi lên gặp cán bộ của bộ Nội Vụ VC tại văn pḥng của Trưởng Ty Công An VC tỉnh Tây Ninh. Điều đầu tiên hắn ta hỏi là tôi có nhớ ǵ về tên Vơ Văn Ba và tại sao tôi ra lệnh đốt tất cả hồ sơ của G. Công Tác v.v...? Tôi chỉ trả lời, việc đốt chỉ là nguyên tắc khi thấy t́nh h́nh không được an toàn, hoặc nếu chính phủ VNCH ra lệnh di tản, chúng tôi cũng phải đốt trước khi đi. Kể từ đó, gần như ngày nào tôi cũng phải lên “làm việc” với tên cán bộ này và đến lúc đó, tôi được biết Vơ Văn Ba cũng đă bị bắt sau tôi một vài ngày. Theo phần thuyết tŕnh của Merle Pribbenow, tôi mới biết Nguyễn Sĩ Phong cũng đă bị bắt tại Ban Mê Thuột vào tháng 3 năm 1975, cho tới ngày tôi gặp được Merle Pribbenow tại Hoa Thịnh Đốn vào đầu năm 2010, cùng những tin tức về cái chết của Nguyễn Sĩ Phong vào năm 1980. Sau đó các anh Quang và Trang tiếp nối cho đến ngày 23 tháng 4 năm 1975 th́ chuyển hết về Vùng III Biên Ḥa. Cần nói thêm về các cố vấn Mỹ. Khoảng năm 1974, tất cả các cố vấn Mỹ ở các Tỉnh đều phải rút hết về các Vùng. Khi có công tác hay trao đổi việc ǵ, sẽ hẹn gặp nhau mà không c̣n ở lại địa phương như trước kia. Riêng tại Tây Ninh, các cố vấn này, kể cả anh Nguyễn Thanh Trang, phải ở lại Tây Ninh cho đến ngày 23 tháng 4 năm 1975 mới rút đi và người cố vấn sau cùng đó là John R. Stockwell (hiện đang sống ở TB Texas). Trong bài này, các Cố Vấn không phải là đề tài chính, nên tôi chỉ sơ qua về Mr John R. Stockwell. Khi qua tới Hoa Kỳ năm 1995, tôi mới biết cấp bậc của John. R. Stockwell là Đại Tá. Khi rời Tây Ninh về Vùng III Biên Ḥa, làm Chỉ Huy Trưởng công tác di tản các Cố Vấn cũng như các lực lượng Hoa Kỳ tại Vùng III trở về Hoa kỳ, v́ Hoa kỳ đă bỏ Việt Nam! Trước khi rời Tây Ninh, vào sáng ngày 23 tháng 4 năm 1975, R. Stockwell có đến gặp tôi tại văn pḥng và yêu cầu tôi cùng bà xă rời Việt Nam ngay hôm đó, v́ phi cơ đang chờ vợ chồng tôi tại phi trường Tỉnh Lỵ. Nhưng tôi có 2 lư do để từ chối đề nghị này: - Tôi c̣n 2 đứa con đang gởi Ông Bà ngoại chúng ở Long An, (v́ từ những năm 1973 đến 1975, Tây Ninh thường bị pháo kích, bất kể ngày đêm), nên tôi không thể nào bỏ chúng lại mà đi, dù chưa nói cho vợ tôi biết, nhưng tôi biết chắc vợ tôi cũng sẽ có quyết định như vậy. - Tôi không thể bỏ anh em đă gần 5 năm trời cùng chết sống với tôi trong nhiều công tác khó nhọc, không hề đắn đo, lo sợ sự nguy hiểm trước mắt. Tôi chỉ nói lời cám ơn và chấp nhận số phận nếu đất nước có ra sao th́ ra! R. Stockwell đứng im lặng một chút, sau đó đến xiết tay tôi và “Say Goodbye!”. Khi qua Mỹ năm 1995, tôi có liên lạc với một số người làm việc ở văn pḥng cố vấn Hoa Kỳ khi xưa và tôi mới biết anh ta đă bất măn khi Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam. Anh đă viết sách, nhưng không được xuất bản bởi lệnh của CIA ! (Có thể kiểm chứng qua những Youtube trong những cuộc thảo luận về “Những Cuộc Chiến Do CIA Tạo Ra Trên Thế Giới). 3. HOẠT ĐỘNG Không kể những báo cáo tin tức về công tác, về t́nh h́nh trong khu vực trách nhiệm, về những chỉ thị của bọn Trung Ương Cục (TƯC)..., chúng tôi đă kịp báo về Khối Đặc biệt trong thời gian ngắn nhất. Có những tin tức cấp bách, chỉ trong ṿng một hay hai giờ đồng hồ là có phi cơ từ Sàig̣n xuống chuyển về Khối (có khi tôi hoặc Cán Bộ điều khiển đính thân mang đi), c̣n phần cố vấn Hoa Kỳ, cũng nhận bản sao của báo cáo đó để chuyển cho Ṭa Đại Sứ. Trong số đó, nếu có những tin tức liên quan đến địa phương, tôi đến báo trực tiếp cho Tỉnh Trưởng để liệu cách đối phó. Tin chiến thuật gần như X.92 đă đáp ứng hầu hết mọi nhu cầu cho địa phương cũng như cho khắp các vùng lănh thổ khác của miền Nam. Tuy nhiên những công tác có tính lịch sử, tôi xin được tŕnh bày chi tiết đôi chút. a. Trận chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa” Khi cũng cố lại lực lượng sau thất bại thảm hại trận chiến Tết Mậu Thân 1968, Cộng Quân quyết định giải quyết cuộc chiến bằng quân sự, hơn là bằng Hội nghị 4 Bên. Song song đó, phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ đă và đang bành trướng mạnh, ảnh hưởng không nhỏ đến các quyết định của Quốc Hội cho sự tiếp tục yểm trợ miền Nam, như lời hứa của các vị Tổng Thống... Vào tháng 12 năm 1971, X.92 được lệnh vào họp khẩn cấp tại khu vực rừng rậm mà TƯC đang trú đóng. Trong cuộc họp đó, X.92 được chỉ thị phải về họp gấp các Chi Bộ để phổ biến lệnh của Bộ Chính Trị là phải đánh chiếm cho bằng được Ṭa Thánh Cao Đài Tây Ninh thuộc Quận Phú Khương, để mặc cả với chính phủ VNCH trên bàn Hội Nghị tại Ba Lê. Bên ngoài th́ xử dụng quân sự đánh vào, bên trong X.92 phải xách động tín đồ biểu t́nh, phản đối, yêu cầu chính phủ VNCH ngưng xử dụng vũ khí, sợ làm hư hại Ṭa Thánh và làm chết t́n đồ. Khi báo cáo này được đưa về Sàig̣n, qua sự tŕnh bày của Tỉnh Trưởng Tây Ninh, Đại Tá Lê Văn Thiện, lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, phải bảo vệ Tây Ninh và Ṭa Thánh Cao Đài bằng mọi giá. Từ đó, có những cuộc họp liên tục với quư vị: Tư Lệnh Quân Đoàn, Tư Lệnh Sư Đoàn 25, Tỉnh Trưởng cũng như các đơn vị trực thuộc trong tỉnh Tây Ninh. Vài hôm sau, các đơn vị Công Binh, Pháo binh ...được lệnh đào giao thông hào toàn khu vực phí Bắc, để VC không xử dụng xe thiết giáp được. Giao thông hào chạy dài từ căn cứ Trảng Lớn, qua phía Bắc Tỉnh Lỵ đến giáp ranh với Quốc Lộ 22 (khu vực Ngă Ba Giang Tân). V́ thời gian sau này, bọn VC đă xử dụng xe thiết giáp để chuyển quân cũng như để tấn công các vị trí của VNCH, nên việc đào giao thông hào chỉ là cái vỏ bọc ngoài, là h́nh thức, c̣n thật sự là lắp đặt các hệ thống ḿn đủ các loại. Vào ban đêm, phi cơ từ Biên Ḥa hoặc Sài-g̣n thay phiên bay thám sát vùng phía Bắc Tỉnh lỵ, kể cả phần núi Bà Đen, cách t́nh lỵ 12 cây số. Trong khi đó, trong khu rừng phía Bắc, đơn vị Biệt Kích 81 vẫn ngày đêm bám sát mọi hoạt động của các đơn vị Việt Cộng, kể cả phần ranh giới với Kampuchia phía Tây Nam, bên kia bờ sông Vàm Cỏ Đông. Đến khoảng đầu tháng 4 năm 1972, lúc 2 giờ sáng, những tiếng nỗ đồng loạt vang rền, kể cả tiếng pháo kích của địch quân, dọc suốt phía Bắc vào Tỉnh lỵ. V́ mấy chiếc pháo đặt ở khá xa, nên chỉ rơi vào một ít khu vực của dân phía ngoài tỉnh, tổn thất không đáng kể. Lúc đó chúng tôi đang ở hầm Chỉ Huy của Tỉnh Trưởng, Đại Tá Lê Văn Thiện, đang thay phiên nhau theo dơi báo cáo của các đơn vị dọc tuyến pḥng thủ cũng như ở các Quận gọi về. Các nơi cho biết, địch quân chỉ xử dụng bộ binh mà không thấy xe thiết giáp, nên khi bọn chúng đến gần các giao thông hào, anh em tại các đơn vị chỉ việc “bấm ḿn” ... Có lẽ, v́ các phi cơ thay phiên nhau bay liên tục, nên bọn VC không dám chuyển quân bằng xe, kể cả thiết giáp, v́ ở Tây Ninh, đa số là rừng cao su, dễ bị phi cơ phát giác. Khoảng gần 5 giờ khuya hôm đó, tiếng súng thưa dần và im bặt trước khi trời sáng. Sáng hôm sau, các đơn vị báo về, dọc giao thông hào phía Bắc, đầy vết máu của VC và c̣n một số xác chưa kịp mang đi... Chỉ 3 hay 4 hôm sau, trận chiến ở Lộc Ninh đă nổ ra, quốc lộ 13 đă bị cắt hoàn toàn và An Lộc đă bị cô lập... Có lẽ, sự chuẩn bị cho Tây Ninh quá kỹ, dựa theo tin tức của X.92, nên đă cứu được Tây Ninh và Ṭa Thánh Cao Đài, thay v́ B́nh Long phải gánh chịu trong vài ngày sau đó.... Trong những lần gặp và thảo luận với Frank Snepp sau đó, chúng tôi có đồng kết luận về trận chiến Mùa Hè 1972 tại khu vực miền Nam: 1. Qua tin tức của X.92 lúc ban đầu, Cộng quân sẽ đánh Tây Ninh bằng mọi giá, chỉ là tin “phịa”, trong khi chúng đang dồn mọi nỗ lực để đánh An Lộc. Đó là lư do mà chỉ trong một thời gian ngắn, An Lộc đă bị cô lập hoàn toàn. Cho đến khi giải tỏa, Quân ta đă phải tốn khá nhiều để tái chiếm, nhất là Lực Lượng Biệt Cách Dù 81. 2. V́ sự chuẩn bị cho Tây Ninh quá kỹ, trong khi Cộng quân chỉ có thể tập trung ở phía Bắc, cách Tỉnh lỵ hơn 10 Km, trong vùng Chiến Khu D, chạy dài đến biên giới Kampuchia, nên bộ binh VC khi tấn công vào đă bị tổn thất khá nặng với hệ thống giao thông hào mới đào chằng chịt, đầy ḿn bẫy. Đó là lư do mà chúng đành phải rút trở lên hướng Đông Bắc để đánh vào B́nh Long như đă xảy ra. b. Hiệp Định Paris 1973 “Ḥa Đàm Ba-Lê” vẫn đang tiếp diễn tại Paris, với 4 bên: VNCH, Bắc Việt, Mặt Trận Giải Phóng và Hoa Kỳ. Đến giữa tháng 10 năm 1972, sau khi tham dự cuộc họp với T.Ư.C về, X.92 gọi máy khẩn cấp và hẹn hôm sau sẽ sắp xếp cho “Xe Lưu Động” chạy theo lộ tŕnh a, b, c... Khi nhận và mở cặp sách ra, trong đó có một Nghị Quyết của Bộ Chính Trị ở Hà Nội (bản sao) và một báo cáo chi tiết để thi hành của T.Ư.C, cho biết Hiệp Ước Ba-Lê sẽ được kư kết vào ngày 30 tháng 10 năm 1972, trong đó, có một điều khoản rất quan trọng là Hoa Kỳ và VNCH đă chấp nhận sự hiện hữu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trong phần lănh thổ phía Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống. Phần chỉ thị của T.Ư.C là các nơi phải dốc toàn lực để “giành dân lấn đất” từ ngày 27 tháng 10 năm 1972 và phần “giành giựt” này sẽ được Hiệp Định hợp thức hóa sau đó vào ngày 30. Tôi liên lạc ngay với cố vấn Hoa Kỳ và yêu cầu cho một phi cơ để mang tài liệu về Bộ Tư Lệnh. Song song đó, tôi đă gọi máy SA.100 cho Đại Tá Trưởng Khối Đặc Biệt để tŕnh bày sự việc và hẹn 2 tiếng sau, tôi sẽ mang báo cáo về Khối. Phía cố vấn Hoa Kỳ, tôi copy cho một bản sao để chuyển về Ṭa Đại Sứ Sài-g̣n cùng một chuyến phi cơ. Khi lên gặp Đại Tá Trưởng Khối Đặc Biệt, tôi tŕnh bày thêm những sự kiên liên quan đến chuyến đi họp trong vùng chiến khu D của X.92 mà bọn TƯC đă chỉ thị là phải đi họp đúng ngày giờ và không được vắng mặt, v́ bất cứ lư do ǵ.... Trước khi ra phi trường TSN trở về Tây Ninh, tôi chỉ nghe Đại Tá Trưởng Khối bảo: “Việt cộng chỉ là một bọn ăn cướp và tụi Mỹ là tụi xỏ lá...”! Đến ngày 30 tháng 10, không thấy chính phủ chỉ thị hay thông báo ǵ về việc kư kết Hiệp Định và phía VNCH lúc nào cũng phải chuẩn bị những sự tấn công có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu... Khoảng 10 ngày trước mùa Giáng Sinh năm 1972, tất cả hệ thống thông tin, như tivi, radio khắp miền Nam đều báo tin Mỹ đă đem B.52 ra dội bom ở ngay Hà Nội để làm áp lực bọn cộng sản Bắc Việt và bọn Giải Phóng phải rút khỏi miền Nam, đó là điều kiện tiên quyết mà Hội Nghi Paris đưa ra theo yêu cầu của Chính Phủ VNCH. Sau vụ dội B52 ở Hà Nội, trong lần gặp Đại Tá Trưởng Khối vài ngày sau đó, ông chỉ cho tôi biết là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, sau khi đọc được báo cáo từ Bộ Tư Lệnh CSQG, do Tư Lệnh Nguyễn Khắc B́nh trao tay, đă mời Đại Sứ Hoa Kỳ đến để “hạch hỏi” những sự việc liên quan cũng như tại sao Hoa Kỳ lại “qua mặt” VNCH? Lời dọa cuối cùng của Tổng Thống VNCH là sẽ triệu hồi phái đoàn của VNCH tại ḥa đàm Ba-Lê về nước. Sự “đi đêm” của Hoa Kỳ với Bắc Việt không đạt được kết quả, v́ bị VNCH phản đối quyết liệt, nên Hoa kỳ đành phải đem B.52 ra Hà Nội và cuối cùng Bắc Việt chấp nhận điều kiện của VNCH và cho đến ngày 27 tháng 1 năm 1973 ḥa đàm mới được kư kết. Tuy nhiên, những bài học của chúng ta đối với bọn Cộng Sản ít ai quên, nên trước ngày kư kết Hiệp Định đó, không riêng ǵ ở Tây Ninh mà tất cả các tỉnh khác, kể cả Sài-g̣n đều nhận được lệnh là phải chuẩn bị đối phó trong cuộc chiến mới gọi là “giành dân- lấn đất” ngay ngày Hiệp Định có hiệu lực. Vào hơn nửa đêm 26 rạng 27 tháng 1 năm 1973, tiếng súng đă nổ khắp nơi. Có vài Tỉnh, vài địa phương phải kéo dài đến 3 hay 4 hôm sau mới chấm dứt. Kiểm điểm lại, bọn Việt cộng đánh tới đâu là nhận lấy thất bại tới đó, chẵng những không giành được dân, không lấn được đất mà các đơn vị, các tổ chức của chúng càng bị co cụm hơn trước kia. c. Nghị Quyết 24 Bộ Chính Trị tháng 1/1975 Cuộc chiến Việt Nam, có hay không có Hiệp Định Ba-Lê, cũng tiếp diễn như mọi ngày. Nó chỉ là cái cớ cho Hoa Kỳ bắt đầu rút các đơn vị về nước, trước sự quan tâm của thế giới và làm thỏa ḷng bọn phản chiến ngày càng gây bao khó khăn cho chính phủ. Đến đầu năm 1975, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, người chiến Sĩ VNCH đă phải đối đầu với sự thiếu thốn trăm bề, kể cả đạn dược, và ít ai có thể nghĩ đă kéo dài qua đến năm 1975! Sau cuộc rút bỏ ở miền Trung vào tháng 3, X.92 phải đi họp liên tục ở TƯC, để nhận những chỉ thị trong việc yêu cầu những cơ sở địa phương đánh vào các kho nhiên liệu, các đơn vị nhỏ như cấp xă, quận v.v..., trong khi đó các đơn vị chính quy sẽ xử dụng tối đa pháo binh và xe thiết giáp để tấn công những mục tiêu chiến lược mà chúng cảm thấy cần thiết. Chúng cho rằng đă đến lúc phải dứt điểm bằng quân sự. Chúng chỉ ra chỉ thị tổng quát mà không có một kế hoạch cụ thể để thi hành. X.92 chỉ báo cáo mà không đưa ra được một yêu cầu nào để thực hiện. Đến tháng 4/1975, X.92 mang về toàn bộ nghị quyết 24 của Bộ Chính Trị và TƯC biến thành Nghị Quyết 12. Chính hai nghị quyết này, khi được đưa đến tay Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Ông đă triệu tập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia nhiều lần để t́m cách đối phó. Sau này tôi mới biết ít nhiều về phản ứng của Tổng Thống Thiệu, v́ nhân chứng sống, là Tổng Thư Kư trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, là Thiếu Tướng Nguyễn Khắc B́nh, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Trong Nghị Quyết 24 (hay 12 của TƯC) đă phân tích t́nh trạng thiếu thốn của VNCH đủ mọi mặt, trong đó bọn Cộng Sản đă đưa ra một kế hoạch tăng cường quân sự để bao vây Sài-g̣n sau khi chúng đă “được cho không” vùng đất phía Bắc của Vùng I và II hai tháng trước đó. Người lính chiến phải tiết kiệm từng viên đạn, từng lít xăng v.v..., kèm theo là sự đe dọa, ép buộc của phía Hoa Kỳ, để yêu cầu Tổng Thống Thiệu từ chức. Nhưng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lúc nào cũng vẫn trả lời là VNCH sẽ đánh cho đến “viên đạn sau cùng”. Trước thực trạng này, bọn cộng sản Hà Nội đă t́m mọi cách đi đêm với Hoa Kỳ để t́m người thay thế cho bằng được TT. Nguyễn Văn Thiệu, sau khi đă cho Hoa Kỳ nhận món quà mà cả nước đang mong đợi: trao trả tù binh do Bắc việt giam giữ theo tinh thần Hiệp Định Ba-Lê đă kư kết. Cuối cùng, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, sau khi gánh chịu áp lực tứ bề, đă phải từ chức, giao lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương và ... cho đến trưa 30 tháng 4/1975, Ông Dương Văn Minh đă giao đất nước cho Cộng Sản. Những ǵ xảy ra tiếp theo đó, hoàn toàn ngoài những ǵ mà tôi biết được qua 2 Nghị Quyết đó, cũng như những nhân vật lănh đạo tiếp nối cũng không được đề cập đến. d. Nhân vật Út Tặng Trong phần trên, Merle Pribbenow có đề cập đến sự nghi ngờ của bọn chúng về các cơ sở đang hoạt động, v́ những ǵ chúng định làm ḿnh đă biết trước, gây cho chúng những tổn thất không nhỏ. Sau đó chúng cho người ra điều tra. Đến cuối năm 1971, qua một công tác xâm nhập khác, phạm vi hoạt động trong Quận Phú Khương, tên Ba Dừa, bí thư và tên Tư Tịnh, Chủ Tịch Huyện, (chúng gọi là Huyện Ủy Ṭa Thánh), đă chỉ thị cho một nữ cán bộ hợp pháp ra sinh sống trong khu vực chợ Long Hoa (gần nhà X.92), giả dạng dân buôn bán hàng rong và t́m cách theo dơi X.92. Qua báo cáo, tôi được biết y thị này là một cựu tù nhân chính trị, tên là Nguyễn Thị Xe, bí danh là Út Tặng. Trước đây đă bị Cảnh Sát Đặc Biệt bắt và Ủy Ban An Ninh Tỉnh quyết định cho an trí 3 năm. Y thị được thả năm 1971 và tái hoạt động ngay sau đó. Do công tác yêu cầu, hàng ngày Út Tặng đạp xe đạp, chở rau cải, trái cây v.v... ra chợ bán, đến trưa đi ḷng ṿng theo dơi t́nh h́nh và tối về đi báo cáo hoặc thi hành những chỉ thị nào khác. Sau cuộc gặp gỡ với X.92 tại nhà an toàn, X.92 cho biết y thị rất hăng say và rất nguy hiểm đối với các cơ sở hợp pháp. Dù là cấp Quận, nhưng trong vài lần họp ở mật khu, X.92 thấy có sự tham gia của y thị. Chỉ 2 ngày sau, chúng tôi đă bí mật bắt cóc Út Tặng ngay trên đường từ Xă Ninh Thạnh đi ra chợ Long Hoa và biệt giam từ đó. Hôm sau, tôi báo về Khối Đặc Biệt và được lệnh chúng tôi phải mang về cơ quan D.6 giữ y thị cho đến ngày 30 tháng 4/1975. Việc bắt giữ Út Tặng, chúng tôi hoàn toàn không cho X.92 biết, để X.92 luôn phải đề pḥng trong mọi công tác và cũng để X.92 không phải lo âu về sự an toàn của ḿnh. Khoảng hơn 1 năm sau, X.92 mới được TƯC cho biết là Út Tặng đă bị bắt mất tích, nhưng không được cho biết thêm chi tiết nào khác. Bọn chúng có nhờ X.92 ḍ xem Út Tặng hiện bị giam giữ ở đâu và c̣n sống hay đă chết. e. Công tác “ngoại vi” Sở dĩ gọi là ngoại vi, v́ các công tác này do chúng tôi thực hiện theo sự yêu cầu của bọn Cộng sản, từ cấp TƯC, Tỉnh Ủy ... và Huyện Ủy chỉ thị cho X.92 phải làm: - Răi truyền đơn: Thường bọn chúng chỉ thị cho X.92 phải t́m cách răi truyền đơn lên án các chức sắc trong Hội Thánh Cao Đài v́ đa số các vị này t́m cách loại những thanh niên trốn quân dịch vào ẩn trốn trong Nội Ô. Tuy nhiên, trong số thanh niên trốn quân dịch này, cũng có vài người do ḿnh tổ chức để theo dơi bọn cộng sản có thể trà trộn để phá hoại. Mỗi lần răi truyền đơn, thường là vào những ngày Lễ Vía trong Đạo, nên anh em Cảnh Sát Đặc Biệt phải mặc Đạo Phục với áo dài trắng hiện diện khắp các cơ quan trong Nội Ô. Trong khi đó, người răi truyền đơn cũng là một nhân viên Cảnh Sát, chỉ răi theo một lộ tŕnh đă được ấn định (nhưng đi bằng xe gắn máy để chạy trốn cho nhanh). Sau đó, có một số anh em “đạo hữu” đi nhặt tất cả những truyền đơn này, mang về Bộ Chỉ Huy tỉnh để báo cáo lên Tỉnh, Khu và Bộ Tư Lệnh. - Đặt chất nổ: Ở Tây Ninh, các tổ chức Nhân Dân Tự Vệ được tổ chức canh gác rất chặt chẽ trên những nẽo đường dẫn về Tỉnh Lỵ, nhất là khu vực giáp ranh giữa Ṭa Thánh và Tỉnh lỵ (Xă Hiệp Ninh và Thái hiệp Thạnh), cách nhau 7 Km. Trong các trạm gác đó, bọn cộng sản chỉ thị cho X.92 phải phá sập bằng được trạm ranh Xă Hiệp Ninh và trạm ở ngả ba Giang Tân. Hai trạm này đă gây trở ngại cho chúng khi muốn xâm nhập vào vùng trong, nhất là chúng không dám di chuyển vào ban đêm. Sau khi tŕnh bày sự việc với Tỉnh Trưởng và với Cố Vấn Hoa Kỳ, Tỉnh đồng ư cho đánh chất nổ, nhưng tránh gây thương tích cho dân cũng như anh em Nhân Dân Tự Vệ ở đó. Phần c̣n lại, Cố Vấn Hoa Kỳ sẽ lo mọi chi phí để xây lại các trạm này, tiền sẽ đưa trực tiếp cho Tỉnh trưởng mà không qua trung gian của bất cứ Ty Sở nào trong Tỉnh. Cái khó mà vui nhất là anh em Cảnh Sát phải đến rủ rê mấy tay Nhân Dân Tự Vệ đi nhậu ở một quán nào gần đó và phải xử dụng loại ḿn hoặc chất nố của tụi Việt Cộng mà ḿnh tịch thu được trong các cuộc hành quân trước đó. Sau khi đặt chất nổ xong, Tỉnh Trưởng làm giấy khiển trách những người có trách nhiệm, từ cấp Ấp, cấp Xă cho đến cập Quận.... 4. SỐ PHẬN a. Truy t́m kẻ nội gián: Trong phần thuyết tŕnh của Merle Pribbenow, có đề cập đến việc truy t́m kẻ nội gián trong chính quyền miền Nam mà bọn Cộng Sản đă xử dụng tên Nguyễn Văn Tá (bí danh Ba Quốc), tên nội tuyến trong Phủ Đặc Ủy. Sau khi t́m hiểu với những người liên quan, được biết tên Ba Quốc chỉ là “tép riu” trong PĐU, làm ǵ có quyền đi từ pḥng này sang pḥng khác để t́m cách xâm nhập, mở khóa tủ v.v... Khi bị lộ và phải chạy trốn, Ba Quốc phải báo cáo để lập công hầu bọn cộng sản c̣n tiếp tục cho mấy đoạn giao thông hào hoặc một khu rừng nào đó để vun thân. Cũng có nguồn tin cho rằng khi bọn Cộng Sản chiếm được văn pḥng của Thiếu Tướng Nguyễn Khắc B́nh ở Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo, phải nói rơ là phải sau ngày 30 tháng 4 mà không phải là 29 tháng 4/1975, tên Viễn Chi, Cục Trưởng T́nh Báo của Bộ Công An Bắc Việt, đă t́m thấy hồ sơ của Vơ Văn Ba trong ngăn khóa của Nguyễn Khắc B́nh. Đây là sự “bịa chuyện cho vui”. Trong việc bảo mật hồ sơ, từ của các Cảm T́nh Viên, Mật Báo Viên cho đến T́nh Báo Viên, chỉ có các địa phương tuyển mộ mới giữ những hồ sơ này, với đầy đủ lư lịch và các mẫu ĐV(từ ĐV.1 đến ĐV.16). Kế đến là E.Điều Hành Khối Đặc Biệt, nhưng chỉ giữ các Mẫu ĐV với Bí Số của các nguồn tin cùng với bản sao các Báo Cáo định kỳ cũng như bất thường, mà không giữ hồ sơ tuyển mộ. Trong các báo cáo, nguồn tin chỉ ghi và kư tên bằng bí số đă được cho. Điều Hành là cơ quan phối hợp, theo dơi, phối kiểm mọi hoạt động của các nguồn tin t́nh báo trên toàn quốc, để: - Tránh sự lợi dụng và đánh lừa tin tức v́ mục đích cá nhân. Có thể một người đang cộng tác với 2 hay 3 cơ quan khác nhau, sẽ sanh ra những hệ luy khó kiểm soát và đánh giá sai lệch của các cơ quan anh ninh. - Tránh những tin ngụy tạo có thể gây nguy hiểm khi mang ra khai thác, - Tránh những nguồn tin “hai mang”, có thể gây đỗ vỡ công tác và bị đối phương phát giác, vô hiệu hóa. Như vậy, trong văn pḥng của Tư Lệnh CSQG, dù ở BTL hay ở Phủ Đặc Ủy, kể cả trong văn pḥng của Trưởng Khối Đặc Biệt, làm ǵ có hồ sơ của Vơ Văn Ba mà t́m thấy?? (chỉ có hồ sơ cùa X.92 - Bí danh là Bảo Quốc mà thôi) Riêng tại Tỉnh Tây Ninh, như phần trên tôi đă tŕnh bày, tôi đă đốt tất cả hồ sơ của các nguồn tin này trước khi rời Bộ Chỉ Huy và đến 9 giờ tối bị bắt trong Nội Ô Ṭa Thánh Cao Đài Tây Ninh. b. Số phận của Vơ Văn Ba: Trong lần gặp sau cùng, khoảng giữa tháng 3 năm 1975, trước t́nh h́nh rất khó khăn của chính phủ lúc bấy giờ, Cố Vấn J. R Stockwell có hỏi ư kiến và đề nghị đưa X.92 cùng vợ con đi qua Hoa Kỳ. X.92 suy nghĩ hồi lâu, và quyết định: - V́ đă lớn tuồi nên thấy khó khăn khi đến “lập nghiệp” ở một xứ như Hoa Kỳ. - X.92 sẽ trở lại đời sống của người dân b́nh thường. Nếu bọn cộng sản có chiếm được miền Nam và giao cho chức vụ nào đó, X.92 cũng sẽ từ chối, v́ đă hiểu quá nhiều về bọn chúng. Trong đó X.92 cũng không quên đề cập đến 2 đứa con, tuyệt đối không hợp tác với cộng sản. - Cuối cùng, X.92 tuyên bố một câu mà đến giờ này tôi hăy c̣n nhớ, cũng như hăy c̣n bị “ám ảnh” dù đă hơn 40 năm qua: “Nếu tụi cộng sản chiếm được miền Nam, tôi sẽ tự tử!”. Nhớ điều này, tôi không lấy ǵ làm lạ, khi qua định cư năm 1995, được biết X.92 đă chết trong lúc bị giam tại trại tạm giam của Bộ Công An ở Sài-g̣n, mà lư do tụi cộng sản cho biết là X.92 đă tự tử! Với tôi, X.92 đă tự tử thật sự. Trong ngục tù Cộng sản, để giết một tên nguy hiểm như X.92, mà chỉ bị giam có 1 tháng th́ hơi “rộng lượng”! Vâng, tự tử hay bị bức tử trong lúc bị giam là điều thường hay xảy ra trong chế độ vô nhân! III. PHẦN KẾT Sau khi gặp Merle Pribbenow vào đầu năm 2010 tại Virginia, tôi rất khó xử, v́ tôi cảm thấy khó có thể thỏa măn yêu cầu. Bên cạnh đó, ngoài Pribbenow c̣n một người bạn của Ông, là người Mỹ cũng đến gặp và cũng yêu cầu tôi nên giúp v́ ông đang viết một cuốn sách về chiến tranh Việt Nam. Tôi cho là khó xử, v́ ngoài X.92 làm việc trực tiếp với chúng tôi, c̣n biết bao người trong cuộc khác mà hiện c̣n sinh sống tại Việt Nam, nhất là trong vùng tỉnh Tây Ninh. Xem lại phần trên, trong việc điều hành công tác, từ hệ thống giao liên, nhà an toàn, hộp thư sống, hộp thư chết .v.v..., phải cần rất nhiều người mới có thể làm được. Tài liệu có trễ năi, sách có ra chậm, vẫn là chuyện nhỏ so với sự tồn vong của những người “lính không có số quân” này. Trong hơn 20 năm sống ở hải ngoại, những anh chị em làm việc với tôi khi xưa, tôi không bao giờ dám quên. Tôi nhớ từng người, từng khuôn mặt buồn vui sau mỗi lần đi công tác về, đặc biệt là những người bạn, những người em, những đứa cháu không có tên trong “danh sách lănh lương của chính phủ VNCH”. Suốt bao năm qua, tôi cũng đă âm thầm bằng điều kiện hạn hẹp của cá nhân, tôi cũng ráng giúp vui cho “những người không có trong danh sách” này mà không dám liệt kê để báo cáo trong mỗi độ Xuân về, Tết đến, v́ báo cáo phải có tên họ, địa chỉ v.v... Qua cái chết của X.92, cũng như những bài học đă trăi qua trong suốt bao năm phục vụ trước 1975, tôi cảm nghĩ: * Chỉ có những ai thấu hiểu được Cộng Sản mới dám hy sinh để đối đầu, kể cả mạng sống của chính ḿnh! Phan Tấn Ngưu |
Đôi nét về bia Con Cọp, Bia 33, bia La-de nức tiếng Sài G̣n trước 1975
3 Attachment(s)
Trước năm 1975, người miền Nam ít khi nói đến từ bia, mà nói là la-de nhưng viết th́ là la-ve. Rủ nhau đi làm ít la-de, nhâm nhi la-de, mời anh nâng ly… Khúc đường Phạm Ngũ Lăo – Bùi Viện bây giờ là phố Tây ba lô, trước năm 1975 vốn là khu ăn nhậu sầm uất, chiều chiều bàn ghế bày ra đầy vỉa hè, khách b́nh dân hay trung lưu vẫn tạt vào. Món nhậu b́nh dân khoái khẩu của người Sài G̣n lúc đó là uống la-de Con Cọp nhắm với tôm khô củ kiệu (bây giờ th́ cả la-de Con Cọp không c̣n và món tôm khô củ kiệu cũng dần mai một trên bàn nhậu). Giống như Honda được gọi cho xe máy, la-de cũng được gọi cho bia nhưng từ đâu mà lại có chữ la-de?
La-de từ đâu anh tới ? Giả thuyết thứ nhất cho rằng xuất phát từ cụm từ beer Lager, Lager là một ḍng bia nhẹ kiểu Đức, nên người ta nói chệch từ lager thành la-de. Giả thuyết thứ hai liên quan đến sự ra đời của hăng bia BGI làm ra bia Con Cọp. Lần ngược thời gian, năm 1875 hăng BGI được thành lập tại Sài G̣n bởi một sĩ quan hàng hải giải ngũ có tên Victor Larue. Tên BGI là viết tắt của Brasseries Glacières d’Indochine (hăng bia và nước đá Đông Dương, đến năm 1954 không c̣n Đông Dương nữa nên chữ “In” đổi lại là Internationales – Quốc tế), lúc đầu chủ yếu làm nước đá, sau mấy năm mới sản xuất bia và nước giải khát. Sản phẩm bia Con Cọp bên cạnh h́nh con cọp trên nhăn, hai bên có hai chữ Pháp là Biere Larue, Larue chính là tên ông chủ hăng, phát âm theo tiếng Việt là la-ruy-ê đọc liền nhau, dân Việt đọc chệch đi thành la-de, rồi lâu dần bỏ luôn chữ bia, gọi la-de thôi và la-de cũng dần trở thành cách hiểu để nói về bia của người miền Nam. Tùy mỗi người tin, c̣n bản thân tôi tin rằng chữ la-de xuất phát từ giả thuyết thứ hai. Con Cọp làm trùm Ngoài hai loại bia Bière Royale và Bière Hommel (loại nhẹ), hăng BGI sản xuất chính hai loại bia khác nổi tiếng hơn. Loại thứ nhất là bia xuất khẩu, gọi là bia 33 Export, cái tên 33 đơn giản là do nó đựng trong chai có dung tích 0,33 lít. Bia này có độ cồn cao hơn nên vị uống đậm hơn. Trên nhăn bia ghi chữ bia theo nhiều ngôn ngữ khác nhau: Bière (tiếng Pháp), Beer (tiếng Anh), Bier (tiếng Đức), Bir (tiếng Indonesia), Birra (tiếng Ư)… Loại thứ hai phổ biến nhất là bia Con Cọp, đựng trong chai có dung tích 0,66 lít nhưng không hiểu sao ở vỏ chai chỉ ghi dung tích là 0,61 lít. Đây là loại bia phổ biến được đông đảo người tiêu dùng đón nhận, từ người lao động b́nh dân cho đến trí thức hay đại gia, từ nhà hàng đến quán cóc lề đường đều có h́nh ảnh của bia Con Cọp. Binh lính và sĩ quan Việt Nam Cộng ḥa cũng rất ưa chuộng bia Con Cọp nhưng giá mua cao, nên Chính phủ đă kư hợp đồng với BGI sản xuất bia với nhăn riêng để bán lại cho quân đội, cảnh sát và viên chức, giá rẻ hơn, gọi là bia Quân Tiếp Vụ. Năm 1965, quân Mỹ đổ vào miền Nam, năm 1966 Mỹ xây dựng căn cứ Long B́nh làm kho hậu cần khổng lồ phục vụ quân đội. Dân Tam Hiệp, Biên Ḥa đua nhau mở cửa hàng ăn uống phục vụ nhu cầu lính Mỹ, trong đó có bán bia Con Cọp. Họ phát hiện ra lính Mỹ có bia lon riêng do quân đội cung cấp (phát hay bán rẻ ǵ đó) nhưng lính Mỹ chê, họ nói là chua và nhạt nên không thèm uống, mà đi mua bia Con Cọp uống. Điều này đủ thấy khẩu vị của bia Con Cọp cuốn hút ra sao từ ta đến Tây. Chiến thắng thuộc về kẻ thừa kế Sau năm 1975, BGI bị quốc hữu hóa và hăng mẹ BGI tiếp tục dùng nhăn hiệu này trên toàn thế giới, trong khi đó loại bia tại Việt Nam được Nhà máy bia Sài G̣n (tức BGI cũ) sản xuất ra theo công thức của bia 33 không được mang nhăn hiệu 33 v́ đây là nhăn hiệu đă đăng kư toàn cầu, nên đổi là 333, chỉ thêm số 3 vào cho khác đi. Đến năm 1991, BGI mới quay lại Việt Nam nhưng không giành lại thời huy hoàng, dù cho những tháng đầu tiên đă khiến bia Sài G̣n không bán nổi một két và sau cùng BGI phải bán lại cho Foster của Úc. Lư giải thất bại của BGI, đó là bia Con Cọp đă trở lại với chất lượng kém hơn xưa. Có hai nguyên nhân chưa hề được xác nhận chính thức: Thứ nhất, BGI đă sử dụng công nghệ mới hiện đại, ủ men nhanh hơn nên mùi vị khác trước. Trong khi bia Sài G̣n vẫn dùng công nghệ cũ, lạc hậu của BGI trước đây nên vẫn giữ nguyên được chất lượng quen thuộc. Thứ hai, lúc đầu BGI rất muốn liên doanh với bia Sài G̣n để sản xuất tại nhà máy cũ ở Sài G̣n nhưng không được, đành phải về Tiền Giang. Một bí quyết then chốt trong sản xuất bia Con Cọp trước đây chính là nguồn nước, ở Tiền Giang không có nguồn nước ngầm giống của nhà máy ở Sài G̣n nên chất lượng cũng không bằng. Điều này cũng tương tự rượu Bắc Hà nổi tiếng ở Lào Cai, khi người làm rượu ở Bắc Hà đi nơi khác làm rượu, cũng con người đó, công thức đó, nguyên liệu đó nhưng rượu không ngon v́ dùng nguồn nước khác… Thế nên kẻ thừa kế của bia Con Cọp lại đánh bại được chính chủ. Nhăn hiệu Con Cọp nổi tiếng năm xưa không c̣n nhưng hương vị của nó vẫn ở lại cùng các “bợm bia”. Năm 1973, hăng BGI tung ra một nhăn hiệu mới, cũng chai 0,66 lít có h́nh con cọp nhưng hai bên có vẽ thêm h́nh ảnh dây leo và một trái tṛn tṛn khía vuông mà người ta thấy giống như trái thơm, nên người ta gọi là bia Con Cọp Trái Thơm. Điểm đặc biệt là bia này bỏ chung với các chai bia Con Cọp khác, cứ một két th́ có một chai, có khi có 2-3 chai. Thiên hạ đồn đây là loại bia đặc biệt, ngon hơn loại thường nên tặng kèm theo một két để khuyến măi khách hàng mua sỉ. Thành thử từ đó người ta hay mua cả két bia để được lấy chai “trái thơm”, trong bàn nhậu, bậc trưởng thượng, chủ xị… được ưu tiên uống chai này. Trong phân chia chất lượng bia của BGI th́ bia Con Cọp Trái Thơm đứng đầu, sau đó tới bia Con Cọp thường và đứng chót sổ, bị chê nhiều nhất là bia Quân Tiếp Vụ. Sự thực bia Con Cọp Trái Thơm có phải là loại bia ngon nhất ? TS luật Phan Văn Song, từng là trưởng pḥng tiếp thị rồi giám đốc BGI từ năm 1973 đến 1976 tại Việt Nam, đă bác bỏ điều này. Ông nói: “Nấu hai loại bia đă tóe phở, hộc x́ dầu. BGI đâu có hưỡn nấu ba, bốn loại c̣n vô chai vô cộ, đổi kíp đổi người. Phức tạp lắm. Nội cách đổi vỏ chai cho hạp với rượu cũng đủ hao tiền. Nhưng cắt nghĩa hổng ai tin”. Vậy v́ sao BGI lại tung ra nhăn bia chai Trái Thơm? Nguyên nhân này cũng được tiết lộ từ người trong cuộc: Năm 1973, BGI muốn thay đổi nhăn bia mới, để đỡ tốn tiền thuê họa sĩ thiết kế ở pháp như mọi khi, ông Song giao cho họa sĩ quảng cáo trong công ty vẽ. Cũng là nhăn Con Cọp cũ nhưng vẽ thêm hoa houblons (c̣n gọi là hốt bố – là loại hoa tạo ra vị đắng của bia), khổ nỗi họa sĩ chưa từng nh́n thấy hoa houblons tươi bao giờ, chỉ thấy hoa khô trong hăng nên từ đó tưởng tượng vẽ ra. Cả khâu duyệt cũng trót lọt v́ dân marketing ngồi văn pḥng có ai biết hoa houblons tươi thế nào. Đem qua nhà máy thủy tinh Khánh Hội đặt in trên 100.000 vỏ chai xong mang về nhà máy Chợ Lớn, mấy kỹ sư trong xưởng bia mới cười rần rần v́ vẽ sai, thế là thôi không in tiếp nữa. 100.000 chai đă lỡ in sai không lẽ bỏ, thế là số chai này được phân công bỏ chen vào các két bia mỗi két một chai để phân tán ra. Từ đâu dẫn đến diễn biến về bia Trái Thơm đặc biệt khiến thiên hạ lùng mua để uống? Cũng từ các Hoa kiều làm công việc phân phối bia của BGI mà ra. Người Hoa rất nhanh nhạy với các cơ hội làm ăn, họ chụp lấy sự kiện này để “bỏ nhỏ” với các đại lư: Bia Trái Thơm là loại đặc biệt, mỗi két chỉ có một chai nhưng nếu “nị” lấy hàng nhiều, chịu chi thêm th́ “ngộ” sẽ thêm mỗi két vài chai, thậm chí muốn có cả một két toàn Trái Thơm cũng có… Quy tắc mỗi két một chai bị phá tan nhưng bộ sậu lănh đạo ở BGI lờ đi, mặc cho nhóm nhân viên phân phối thao túng. Ai đời từ một sai sót kỹ thuật vớ vẩn như vậy lại được biến thành một sự kiện khiến nhăn hàng gây chú ư với người tiêu dùng miễn phí và khiến doanh số bán tăng vọt th́ họa có… điên mới đi giải thích, đính chính (!). Nói như vậy, không lẽ cả mấy vạn “bợm bia” không phân biệt được bia ngon, bia dở? Thật ra những ai hiểu về tâm lư học và marketing sẽ biết rằng cùng một sản phẩm nhưng nếu cho vào chai lọ, bao b́ thật đẹp, bán giá cao… người ta sẽ cảm thấy nó ngon và tốt hơn cũng sản phẩm đó cho vào bao b́ xấu hoặc giá rẻ. Đó cũng là lư do bia Quân Tiếp Vụ ngày xưa bị chê trong khi nó cũng “y chang” hai loại kia, chẳng qua là đặt sỉ giá rẻ mà thôi. Theo PHẠM TRƯỜNG GIANG |
Quote:
-Oh, cái này.....uh...cái đó....uh....cái đó nói tiếng Việt làm sao ḿnh quên rùi -Không sao, cứ nói tiếng Anh đi, tụi ḿnh cũng biết tiếng Anh mà -(Anh Việt Kiều ấp úng)...Tiếng Anh....tiếng anh hả.....uh....uh....t iếng Anh th́ ḿnh chưa....học tới :hafppy: :hafppy: |
Chuyện Phim Buồn
1 Attachment(s)
Cứ gần giáp năm th́ trong bụng buồn buồn, nhất là nửa đêm ngủ hổng được mà nghe gió rít từng cơn càng năo nuột, những ngày lễ lạc chộn rộn như vầy tôi thường nằm nhà loay hoay với nỗi buồn không tên của ḿnh, coi phim hay đọc sách để quên buồn. T́nh cờ thấy bộ phim với tựa đề “Hamburger Hill” do Mỹ sản xuất năm 1987 của đạo diễn John Irvin liên quan tới chiến tranh Việt Nam, tôi ṭ ṃ bấm vào coi, phim ngắn thôi nhưng đă làm tôi nín thở theo dơi cuộc chiến đấu quyết liệt của quân đội Mỹ, trong một trận đánh trên ngọn đồi 937 gần biên giới Việt Lào năm 1969. Thời chiến tranh tôi c̣n vô tâm quá với lứa tuổi ăn chưa no lo chưa tới, nhưng sau khi tàn cuộc chiến thấy có nhiều điều trái tai gai mắt trong chế độ mới, khiến tôi quan tâm đến xă hội, sự dấn thân có lẽ bắt đầu từ giai đoạn cả nước ăn khoai sắn thay cơm, rồi miền Nam của tôi trăi qua bao biến động dưới bàn tay phù thủy tàn độc của cái gọi là XHCN, trả giá cho việc ăn cơm quốc gia mà không chịu thờ ma CS là những năm tháng tù đày, tôi không phàn nàn về cuộc chơi “nhất chín nh́ bù” của ḿnh, coi như một tai nạn xảy đến cho gia đ́nh mà kết cuộc khá bi thảm, một người chết hai người bị thương nặng... Sau này tôi lại chú ư đến những câu chuyện thời sự hơn là coi phim bộ như thói thường của mấy người già mới qua Mỹ, nên sách vở, phim ảnh hay bất cứ cái ǵ liên quan tới Việt Nam th́ tôi ghé mắt vào, như phim tài liệu Việt Nam Việt Nam của Charlton Heston với những thước phim có giá trị trung thực về cuộc thảm sát ở Huế năm 68 , dĩ nhiên là nó khác với cách nh́n thiên kiến của phim The Viet Nam War của Ken Burns và Lynn Novick nghiêng về chiến công của phe CS và phong trào phản chiến ở Mỹ bùng nổ trong giai đoạn đó, mà không ghi nhận sự chiến đấu anh dũng để bảo vệ miền Nam của quân đội VNCH, bộ phim đă gây nhiều tranh cải và tôi không muốn nhắc lại. Nhưng thời may có ông đạo diễn Fred Koster, (người đă làm phim Ride The Thunder )thấy bộ phim The VietNam War không công bằng nên ông và một nhóm thân hữu nhất định làm bộ phim The VietNam War though our eyes để trả lại sự thật cho lịch sử, trả lại danh dự cho người lính VNCH bởi họ đă chiến đấu v́ chính nghĩa của miền Nam VN, bộ phim đang được thực hiện và hy vọng chúng ta sẽ được xem trong thời gian gần đây. Tôi tin vào phim ảnh dựa trên những t́nh tiết có thật nói lên sự tàn khốc của chiến tranh đẫm máu, nhưng bên cạnh đó c̣n có bàn tay phù thủy của đạo diễn để dẫn dắt khán giả theo cái nh́n khác mà họ muốn, nhưng với phim ảnh của các nước XHCN th́ không tin nổi v́ sự giả tạo và tuyên truyền trơ trẻn lố bịch, xạo hết chỗ nói là vậy. Xem những bộ phim liên quan tới chiến tranh VN, nh́n chung những gương mặt người lính Mỹ thời đó c̣n rất trẻ như hầu hết các chiến binh trong quân đội của cả hai miền Nam Bắc Việt Nam, dù cuộc chiến đấu dưới bất cứ danh nghĩa nào th́ cũng đồng nghĩa với sự hy sinh tuổi trẻ của ḿnh vào nơi lửa đạn chết chóc. Hơn 58.000 lính Mỹ đă chết tại ViệtNam. Tôi tin người Mỹ tham gia chiến đấu v́ một thế giới tự do, tôi xúc động mỗi lần nghĩ tới họ và kinh tởm khi nghe phía Cộng Sản gọi họ là “đế quốc Mỹ xâm lược”, khi sự thật lúc CS cưỡng chiếm miền Nam năm 1975, giang sơn lănh thổ thời đó vẫn c̣n nguyên vẹn nhưng sau 45 năm cầm quyền th́ bọn chúng đă bầm nát đất nước và ngày nay lại âm mưu dâng quê cha đất tổ cho kẻ thù Trung Cộng. Thật đau đớn và căm hận biết bao nhiêu. Bộ phim làm tôi bần thần nhớ về quá khứ, về những câu chuyện đáng buồn đă qua, về những mất mát không thể nào nguôi ngoai trong kư ức một thời tang tóc. Cuộc chiến đă qua đi lâu rồi nhưng mùi khói súng vẫn khen khét ngập ngụa trong cuộc sống mỗi ngày mà người dân ViệtNam đang phải chịu đựng trong sự phẩn uất, mùi tanh tưởi của bạo quyền trấn áp những kẻ bất đồng chính kiến, mùi tiền và mùi máu của tập đoàn tham nhũng ăn trên xác của đồng loại khốn khổ. Chủ nghĩa Cộng Sản là đại họa của dân tộc, thế giới đă quá mệt mỏi với tên đồ tể gian ác này, các cường quốc đă và đang cố gắng để tiêu diệt nó, nhưng tiếc thay đất nước ḿnh lại dung chứa cái thứ rác rưởi bốc mùi này suốt mấy chục năm qua, sự cam chịu nhẫn nhục cho đến khi nào đây? Chúng tôi, những người ty nạn CS đang sống yên ấm ở xứ người, được hưởng sự Tự Do và b́nh đẳng như người dân bản xứ nhưng từ trong sâu thẳm của trái tim ḿnh vẫn luôn hướng về quê Mẹ với bao xót xa uất nghẹn, vết thương của người thua cuộc vẫn c̣n đau âm ỉ trong ḷng mỗi khi nhớ về ngày tang tóc của đất nước. Có lần tôi dự một buổi hội ngộ của cựu tù nhân trại Vĩnh Phú, xúc động bồi hồi khi nghe các anh nhắc lại những năm tháng kinh hoàng, gian khổ đói lạnh bệnh tật trong nhà giam lớn nhất trên núi rừng Việt Bắc, chuyện những người vợ người mẹ chịu thương chịu khó vượt suối băng đèo lặn lội thăm nuôi chồng con ṛng ră mỏi ṃn năm này qua năm khác, để rồi có một ngày nghe tin anh ấy măi măi không về..C̣n nỗi đau nào kinh khủng hơn thế nữa? Giọng anh bạn tôi như nghẹn lại khi nhắc về toa tàu đầy phân ḅ tanh hôi mà họ đă nhốt các anh trong đó khi chuyển trại từ Nam ra Bắc “ Tụi nó coi chúng tôi như súc vật..” và có rất nhiều cái chết thương tâm của những con người bị đối xử không khác ǵ một con vật trong cái nơi mà CS gọi là trại cải tạo, mai mỉa thay. Năm hết Tết đến, chạnh ḷng gợi nhớ đến khăn sô cho Huế trong thảm sát Mậu Thân mấy mươi năm trước, lại nhói đau khi nghe tin tức bên nhà với khăn tang trắng làng Đồng Tâm Hà Nội, với cảnh màn trời chiếu đất của dân oan Thủ Thiêm, Lộc Hưng Sài g̣n. Đất nước có c̣n nơi nào b́nh yên dưới bàn tay quỷ đỏ? Mấy ngày Tết, khắp nơi trên thế giới, chỗ nào có đông dân Việt th́ họ túm tụm lại tổ chức lễ hội ŕnh rang cho đở nhớ quê hương, cũng chợ búa tấp nập, cũng bánh chưng xanh, xâu pháo đỏ, với hoa mai hoa đào rộn ràng màu sắc, nhà nào c̣n giữ lại phong tục VN th́ chuẩn bị hương đăng trà quả đón Giao Thừa, tưởng như nàng Xuân đang đứng trước cổng nhà cho ấm ḷng người xa xứ, mặc dù nước Mỹ đang là mùa đông lạnh lẽo tuyết rơi. Thật ra mấy ngày này cũng muốn được an nhiên như chàng lăng tử “Rũ áo phong sương trên gác trọ, Lặng nh́n thiên hạ đón xuân sang” Nhưng sao bụng dạ cứ bồn chồn, Xuân này con không về Bên nhà ăn Tết vui ǵ nỗi Má ơi. nếu có lời khấn nguyện thành tâm trong đêm trừ tịch th́ con chỉ cầu cho Việt Nam sớm thoát khỏi chế độ Cộng Sản tàn ác để dân ḿnh an lạc, Tự Do,đất nước được sống trong ḥa b́nh thịnh vượng. Trần Ngọc Ánh |
“Làn Ranh Quốc Cộng Có C̣n Không?”
1 Attachment(s)
Trước khi vào bài, tôi kể quư vị nghe một chuyện. Ngày trước, ở làng tôi, có một cô gái, nói là lên tỉnh làm công, thỉnh thoảng về làng, nom vẫn c̣n chân quê lắm. Một lần, có một anh trai cùng làng lên tỉnh t́m gái làng chơi, trớ trêu thế nào mà gọi đúng cô gái cùng làng của ḿnh. Thời gian đầu về làng, anh ta c̣n kín miệng, dấu chuyện, cô gái ấy mỗi lần trở về, đoán chưa bị lộ nên vẫn làm vẻ ngây thơ, rụt rè, chất phác. Một lần anh trai làng uống rượu cùng bạn bè, rượu vào lời ra, phun ra cả chuyện cô gái ấy “làm gái” trên tỉnh. Hôm cô gái về làng, thấy mọi người nh́n ḿnh bằng ánh mắt lạ, c̣n có vài cặp mắt khinh bỉ nữa, cô hiểu là cả làng biết ḿnh làm “gái” rồi, cô không c̣n giữ kẽ nữa, đột nhiên hóa thành cô gái tỉnh, ăn nói vung vít, đi đứng nghênh ngang, trút bỏ bộ bà ba chân quê mà khoác vào cái áo khêu gợi và c̣n tỏ ư: “tao làm đĩ đấy, đứa nào làm ǵ tao…”, tác phong này lạ lẫm với người làng vốn có đời sống c̣n chân chất lắm. Nhiều vị, nhất là những vị trưởng thượng, đạo cao đức dày của làng tỏ ư khinh ra mặt…Bỗng nhiên cô trở nên hào phóng, hỏi các vị này có cần giúp đỡ cái ǵ cho làng không? Rồi x̣e ra cho họ ít tiền… lạ một cái là thái độ của làng đối với cô hoàn toàn thay đổi. Họ xum xoe, cung kính, chèo kéo, hănh diện được quen biết cô… Từ đấy, tôi hiểu là đồng tiền có sức mạnh vạn năng, đổi trắng thành đen, biến tṛn thành méo… từ “đĩ” thành “bà”. Bây giờ trở lại với câu hỏi “Làn Ranh Quốc Cộng - Có C̣n Không?”. Những năm đầu ty nạn cộng sản trên đất người, “làn ranh” này đậm nét, rơ ràng lắm. Sau nhiều năm dài tăm tối, đổi mới hay là chết, cộng sản buộc phải bang giao với Mỹ. Nhất là từ lúc cộng sản tung ra nghị quyết 36, lũng đoạn cộng đồng người Việt Hải Ngoại. Từ ấy, đă có những kẻ từng ôm cờ quốc gia trong mọi sinh hoạt, từng hô hào không đội trời chung với cộng sản như PD như DTL…đă trở cờ phản bội. Hầu hết là những kẻ đă có danh nhưng nay ḷ ṃ về Việt Nam kiếm lợi và kiếm cả gái nữa… Gần đây nhất có những đứa bên Mỹ mà danh cũng tươm tất, phận lại khá giả, cũng có thời cao giọng chống cộng kinh lắm, như thằng Hùng hèn, Sơn nổ…thế mà chúng nó không những đă khấu đầu, trở cờ, lạy cộng mà lại c̣n ca tụng cộng hơn cả những thằng cộng sản thứ thiệt nữa, đúng là thờ cộng hơn cộng. Cũng có dấy lên những phong trào đả kích, chống đối bọn này nhưng khí thế chẳng thể nào bằng lúc trước được. Làn Ranh Quốc Cộng, nay chắc cũng nhạt ít nhiều. Giờ đây lại có những kẻ vô danh tiểu tốt nhưng lại làm ăn thành đạt, loại này chắc chắn không phải là public figure, không phải là người của công chúng, nên thôi đành viết tắt tên cho đỡ phiền phức. Người mà tôi muốn nói ở đây là mợ HP, chủ nhân một tiệm bán đồ trang sức ở vùng Hoa Đô. Mợ này cũng có đóng góp, giúp đỡ cho các Hội Đoàn, cho TPB, tuy ít hơn nhiều so với những Mạnh Thường Quân dấu tên khác, nhưng cũng được trọng vọng lắm. Tôi có gặp và tiếp xúc với Mợ này đôi lần, nói chuyện th́ thấy, ăn không nên miếng, nói không nên lời, câu bất thành câu, cú bất thành cú, từ ngữ th́ dùng loạn cào cào, nghèo từ mà lại thích dùng từ đao to búa lớn, nói câu chuyện th́ đầu chẳng ra đầu, đuôi chẳng đuôi, có lúc câu sau chửi bố câu trước chứng tỏ loại người có tŕnh độ học vấn thấp thế mà chẳng biết làm thế nào, hay nhờ ai làm thơ dùm, mà Mợ cũng có tước Nhà Thơ lại c̣n là Hội Viên của Làng Văn, cái Làng thường tự hào là tổ chức VNCH duy nhất c̣n lại. Chính v́ là hội viên của cái Làng Văn ấy nên tôi mới mất thời giờ viết về Mợ. Số là Mợ bỏ tiền ra, bỏ rất nhiều tiền để ḥa hợp ḥa giải, giao lưu với cs trong nước. Mợ lén về nước, tổ chức ca múa linh đ́nh, hát xướng tưng bừng mừng đẻng mừng xuân. Mục đích ban đầu của Mợ là mua danh, cứ mua danh cái đă rồi hạ hồi tính, bởi v́ chắc chắn là Mợ tiến hành trong bí mật, những người bạn thân, cả người thân của Mợ, c̣n không biết Mợ về Việt Nam nữa mà, nhưng xui cho Mợ là cái tṛ giao lưu này bại lộ. Bây giờ th́ Mợ lộng giả thành chân, nghênh ngang, công khai phổ biến cái tṛ giao lưu ḥa hợp ḥa giải với cs trong nước, gởi emai khắp chốn, post lên web, bỏ vào facebook khoe khoang nhặng xị. Không những thế, mợ c̣n in cả vạn DVD, cho không biếu không những ông đi qua bà đi lại giữa chợ. Một thứ tuyên truyền mừng đẻng mừng xuân “cực kỳ” thâm độc. Ôi th́ người ta có tiền, người ta làm cái ǵ th́ kệ người ta, nhưng buồn quá, như thế th́ Làn Ranh Quốc Cộng đă bị xóa tan rồi à, không những thế mà nó lại c̣n nghênh ngang thách thức, chúng mày làm được cái ǵ tao. Rồi khi chúng mày tổ chức sinh hoạt cái ǵ đó, lại khúm núm ṃ đến tao xin vài trăm, thí cho chúng mày vài trăm th́ buộc phải xum xoe bợ đỡ và phải câm như hến. Nghĩ đến kịch bản này, sao quặn thắt cả ruột gan….buồn quá. Thế mà không phải thế. Tin mới nhất mà tôi vừa nhận được: 1/ Tổ Chức VNS VNCH, nơi mà Mợ luồn sâu tới vị trí thứ nh́ đă xóa hẳn tên Mợ trong tổ chức từ ngày 16/12/2019 v́ họ đă đoán được cái tṛ lươn lẹo, khuất tất và nhiều dấu hiệu đáng ngờ của Mợ. Tổ chức này đă ra thông báo, không c̣n bất cứ liên hệ nào với Mợ nữa. 2/ Làng Văn đă khai trừ Mợ. 3/ Hội Đồng Hương những người của Thành Phố bị giặc Hồ chiếm tên đă phải tốn một lần tiền nữa để in ấn lại toàn bộ các poster chỉ v́ loại bỏ phần quảng cáo cho Tiệm bán đồ trang sức của Mợ (nghĩa là không thèm nhận tài trợ của Mợ). 4/ Một nhân vật ở vị trí hàng đầu của Cộng Đồng Hoa Đô cũng bày tỏ ư kiến “đây là một tiền lệ thật xấu” “không thể chấp nhận được” nhưng mới chỉ ở phạm vi trao đổi riêng tư. Cứ như là “có tin vui giữa giờ tuyệt vọng”, tôi lại lạc quan: “Làn Ranh Quốc Cộng” chưa nḥa. Đến đây, các bạn đă hiểu tại sao tôi lại kể câu chuyện “Gái Đĩ” ở trên chưa? Vâng, Mợ này đi giao lưu ḥa hợp ḥa giải với cs trong nước (như đi làm đĩ), mợ biết rơ là cộng đồng, nơi mợ ta sinh sống sẽ không chấp nhận (khinh bỉ) thế nên mới lén lén lút lút. Trời bất dung gian, hành vi của Mợ bị lộ. Mợ bèn lộng giả thành chân, công khai thách thức, tao giao lưu đấy, chúng mày làm ǵ tao. Cần ǵ, ra đây, tao cho vài trăm, cầm tiền rồi th́ nhớ ngậm miệng nghe. Chuyện cứ như “con đĩ” ở trên, nhưng các hội đoàn, các chức sắc Hoa Đô có hành xử như các vị Trưởng Thượng của làng tôi hay không? Cầu Chúa, cầu Phật là không. Lăo Móc Feb 12, 2020 ----- Pc: Chúng tôi có Poster và nhiều h́nh ảnh chứng minh Mợ HP giao lưu với cs trong nước. Poster th́ lấy trên web của Nhà Hát Thành Phố “HCM” c̣n h́nh ảnh “người thật việc thật trên sân khấu TP HCM” chúng tôi không rơ là tác giả có giữ bản quyền hay không nên chưa tiện phổ biến. Chỉ gởi kèm đường link để quư vị tự t́m hiểu. Đường link https://www.facebook.com/VOHMusicOne...type=3&theater |
Nhớ vị cà phê một thời Sài G̣n xưa
1 Attachment(s)
Một quán cà phê Sài G̣n xưa. Bạn đă uống cà phê nhiều, bạn biết muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có khó. Cà phê loăng nước nhưng đậm mùi thơm, cà phê mít đặc quánh mà vô vị, hăy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đă đi được 70% đoạn đường rồi. Muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị rhum, th́ rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút bretain vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm ǵ à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây! Th́ để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống như uống coca th́ phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống chanh đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt nhưng vẫn cắn răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn chết nhưng cứ chốn bạn nhậu th́ nằng nặc đ̣i uống chay không đá cho giống khác người, cho đẳng cấp. Tôi không biết, không tả được, mời bạn hăy thử và tự cảm nhận lấy. Bạn đ̣i phải có tách sứ, th́a bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa điếu và rít đỏ đầu), Ruby hay Basto xanh mới đă đời, thú vị phải không? Bạn đă có đủ những ǵ bạn cần, sao lại cứ thích đi uống cà phê tiệm? Tôi không trách bạn đâu. Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà phê, chúng ta c̣n ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ nữa. Vậy th́ mời bạn cùng tôi trở lại không khí cà phê Sài G̣n những năm cuối 1960 và đầu 1970. Sài G̣n những năm giữa thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, tuổi trẻ lớn lên và tự già đi trong chiến tranh. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng được nhấp vào và quán cà phê trở thành nơi chốn hẹn ḥ để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết, thật ḷng; có một chút làm dáng, thời thượng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài G̣n lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đ́nh Phùng đi lên; hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Cứ như thế, cái xe cọc cạch, trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài G̣n, Chợ Lớn, Gia Định. Những ngày này, tôi là khách thường trực của quán Cà phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại ḥm Tobia; nơi đây có một căn pḥng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần c̣n lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nh́n rơ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài. Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương. H́nh như với ông, bán cà phê chỉ như một cách tiêu khiển và pha cà phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hănh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó. Cà phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà phê như vậy mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Trong lănh vực kinh doanh quán cà phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đă chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đă thành công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông”, “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cộng thêm các tập san Sử địa, Bách khoa, Văn và vân vân… Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may áo dài Thiết Lập, vậy bạn có biết cà phê Hồng ở đâu không? Th́ đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đ́nh Chiểu, ngó xéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi v́ tôi biết có thể bạn không để ư. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm, chứ không sơn phết hoa ḥe, đèn treo hoa kết ǵ cả. Từ ngoài nh́n vào, quán như mọi ngôi nhà b́nh thường khác, với một cái cửa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ h́nh hai thiếu nữ đội nón lá; một b́nh hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lăng mạng phô bày vừa như thẹn thùng, che dấu. Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có ǵ đáng nói ngoài cái vẻ xuề x̣a, b́nh dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân t́nh và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại. Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn đă trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong ḷng mỗi người. Cà phê Hồng đă tận dụng tối đa, nói rơ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán – những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi th́ không là trí thức) – đă vừa uống cà phê vừa uống cái ră rời trong giọng hát của Khánh Ly. Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do t́nh thân và sự quen biết với các tác giả mà ở Cà phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Tŕnh Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ. Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo nước ngoài. Quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu ǵ đó. Nói thật ḷng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành ǵ, nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xang ḷng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và ít nói, ít cười, trừ cô chị. Những năm 1980, Cà-phê Hồng không c̣n, tôi đă thường đứng lại rất lâu, nh́n vào chốn xưa và tự hỏi: Những người đă có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? C̣n chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào? Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đă thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lư, cùng với những tên tuổi đă giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được nh́n vừa như một cơ sở giáo dục khả tín, vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ư thức và dấn thân. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại Học Vạn Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó xéo về phía chợ Trương Minh Giảng. Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất v́ gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa. Các nhóm làm thơ trẻ đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo chí Sài G̣n ngồi đồng từ sáng đến tối để… làm thơ. Nhưng đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau. Nắng Mới đă sống với Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nắng Mới nay không c̣n. Những con người cũ tứ tán muôn phương. Có một quán cà phê thân quen nữa không thể không nhắc đến: Quán chị Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, kế khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao. Ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè, trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm mà mở cửa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường. Quán chị Chi độ chín mười thước vuông, chỉ đủ chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ. Quán không có nhạc, không trưng bày trang trí ǵ cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ: “Hôm qua con đă đi học rồi mà”. Khách đến với chị Chi không phải coi bảng hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo, mà hoàn toàn do thân hữu truyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chát nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tṛn đều, láng mịn, ṿi và quai mảnh mai, cân đối. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho hốp nước nhỏ. Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và quần ẩm, nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc, ấm đôi và ấm bự. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh – loại bánh đặc biệt của chị Chi – nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm lừng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất, trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm. Quán chị Chi giờ đă biến tướng ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đă từng ngồi quán chị bày tỏ ḷng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cũ. Những năm cuối thập niên 60 Sài G̣n có mở thêm nhiều quán cà phê mới, và thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng… Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ – H́nh như là Đào Duy Từ – gần sân vận động Thống Nhất bây giờ, có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giă thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài G̣n học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra. Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật t́nh là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đă cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt về Sài G̣n: Những gị lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đă tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những gốc cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đă giúp cho Đa La mang sắc thái rất… Đa La. Ngày khai trương, Đa La chuẩn bị một chương tŕnh văn nghệ hết sức rôm rả, với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà… Đa La đông vui, chứng kiến sự nở hoa và tàn úa của nhiều mối t́nh. Nhưng Đa La vắng dần những người khách cũ và đóng cửa lúc nào tôi không nhớ. Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nh́n cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ ǵ; có lẽ cả thời sự, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy là xa lạ với dân ngoại đạo cà phê. Nhưng Hân là một nơi hết sức đáng yêu, đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo kính như bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Anton Chekov. Về sau, đối diện với Hân có thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô chị và được nhiều chàng trồng cây si. Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, đă trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc ngay góc Hồng Thập Tự – Cường Để c̣n nhớ, cũng như nhớ món bánh cuốn ở đ́nh Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm “lúc lắc” trong một con hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi lên căn gác gỗ vừa run khi được mấy chàng mời cơm. Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nh́n họ ngậm ống vố, đeo kính cận nói chuyện văn chương th́ mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêng tư tâm sự th́ cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên G̣ Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đăi với nhau cũng rất đẹp. Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng. Rồi c̣n cà phê hàng me Nguyễn Du, cũng Beatles, cũng Elvis Presley như ai; và cả pha chút Adamo quyến rũ. Giá ở đây thật b́nh dân nhưng thường xuyên chứng kiến những pha so găng giữa học sinh hai trường nghề Cao Thắng và Nguyễn Trường Tộ. Chán cà phê th́ đi ăn nghêu ṣ, ḅ bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ Tân Định. Phá lấu đă có góc Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền. Rủng rỉnh tí xu dạy kèm cuối tháng có Mai Hương (nay là Bạch Đằng Lê Lợi). Quán Mù U, hẻm Vơ Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngă tư Bảy Hiền dành cho những bạn muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa tường Nguyễn Trung Ngạn gần ḍng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Cháo Lú ở chợ Thị Nghè của một tay hoạ sĩ tên Vị Ư. Cao cấp hơn có La Pagode (đổi thành Hương Lan trước khi giải thể), Brodard, Givral. Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi… cả ngày xin mời vào rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính nam. Vào Casino Sài G̣n có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một quầy tôi đă quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của sinh viên, cả nghèo lẫn giàu. Cuộc sống sinh viên cứ thế mà trôi đi trong nhịp sống Sài G̣n. Nghèo nhưng vui và mơ mộng. Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung với Cô hái Mơ. Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế lẫn vào nhau. Thi thoảng lại pha thêm chút Tội ác H́nh phạt, Zara đă nói như thế! Garcia Lorca. Tất cả những ǵ tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài G̣n trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha hương có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim ḿnh c̣n đang bay lơ lửng ở cà phê Hồng, Thu Hương, hay đâu đó ở quê nhà. Lương Thái Sỹ – An Dân |
Chúng đi buôn .. mời các bạn nghe
|
Tháng Hai Và Valentine’s Day
1 Attachment(s)
Tháng Hai là tháng đặc b́ệt trong năm chỉ có 28 ngày, nhưng tháng Hai năm nay 2020 lại có 29 ngày. Cho nên những người được sinh vào ngày 29 tháng Hai năm nay, phải đợi đến năm 2024 mới được ăn mừng sinh nhật v́ người viết nghe các bạn bè có sinh nhật trong ngày 29 tháng hai nói thế, không biết có đúng không? Tại sao thế? Có người nói cứ 4 năm th́ hiện tượng tháng hai có 29 ngày được xảy ra khi lấy con số của năm đó chia được cho 4. Năm nay là năm 2020 có thể chia được cho 4. Năm 2013, 2014, 2015 không thể chia được cho 4. Măi đến năm 2024 mới chia được cho 4. Một bài toán giản dị như thế nhưng người viết không biết về phương diện thiên văn, niên lịch đă giải thích như thế nào là hợp lư. Xin các vị cao minh chỉ giáo. Xin đa tạ. Người viết xin chúc mừng Sinh Nhật Vui Vẻ đến quư vị nào có sinh nhật trong ngày 29 tháng Hai đặc biệt này nhé. “Hooray”! Tháng Hai lại có sinh nhật của vị Tổng Thống Mỹ Washington, năm nay nhằm ngày 17 tháng Hai và chính phủ Mỹ đă chọn ngày này làm ngày quốc lễ President’s Day luôn để ghi nhớ công ơn của các vị Tổng Thống Hoa Kỳ. Học sinh các trựng công lập và nhân viên các công sở đuợc nghĩ học, nghỉ làm trong ngày thứ hai 17 tháng Hai này. Khi c̣n đi làm trong các trường công lập tại Portland, người viết rất thích những ngày quốc lễ như thế để được nghĩ ở nhà ngủ nướng. Vui quá! Ai đi làm mà không mong có ngày được nghĩ ở nhà thoải mái có ăn lưong, phải không bạn? Nhưng trong tháng Hai lại có một ngày dù không phải là ngày quốc lễ nhưng lại được đa số quần chúng trên thế giới đón chào trọng thể, nhất là những người đang yêu nhau và những tiệm bán hoa, bán kẹo chocolate, bán thiệp. Không nói ra mà ai cũng biết đó là ngày Valentine’s Day, 14 tháng Hai, Ngày Lễ T́nh Yêu, nếu dịch sang tiếng Việt. Đă qua rồi thời kỳ thơ mộng của T́nh yêu, nhưng người viết cũng xin được gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất đến những kẻ “tôi c̣n yêu, tôi cứ yêu, tôi c̣n yêu măi măi, tôi c̣n yêu dài dài” cho cuộc đời thêm tươi đẹp nhé. Về lịch sữ ngày Lễ T́nh Yêu này chắc chắn đă có người nói rồi trong trang báo này hay nơi báo khác. Người viết chỉ đi sưu tầm những điều lư thú mới nhất về ngày lễ đặc biệt này để chia sẻ với các bạn cho vui mà thôi. ĐIỀU LƯ THÚ VỀ LỄ T̀NH YÊU 73% người mua hoa trong ngày 14 tháng 2 là đàn ông , 27% là phụ nữ 15% phụ nữ mua hoa gởi cho chính bản thân họ trong ngày lễ t́nh yêu 3% số người tặng quà cho pets ( con vật nuôi yêu thích) Khoảng 1 tỷ thiệp Valentine được gởi đi mỗi năm, nhiều thứ hai chỉ đứng sau thiệp Giáng Sinh. Giáo viên nhận được thiệp Valentine nhiều nhất, tiếp đó là trẻ em, mẹ, vợ, người yêu và thú nuôi yêu thích. 85% người mua thiệp Valentine là phụ nữ. Món quà Valentine giá trị nhất của mọi thời đại là tháp Taj Mahal ở Ấn Độ do hoàng đế Mughal Emperor Shahjahan xây để tặng cho vợ ông đă mất. Hàng năm hơn 189 triệu đóa hoa hồng được tặng nhau chỉ tính riêng ở Hoa Kỳ . Vào năm 1969, trong việc sửa đổi Lịch các thánh, ngày lễ Thánh Valentine vào ngày 14 tháng 2 đă được đưa ra khỏi Lịch chung của Vatican và được đưa vào hạng đặc biệt (lịch địa phương hoặc thậm chí quốc gia). Trong Hoa Kỳ, Hội Thiệp Chào Đón ước tính khoảng 190 triệu thiệp valentine được gửi tặng mỗi năm trong Hoa Kỳ. Một nữa trong số ấy được tặng cho những người thân ngoài vợ với chồng, thường th́ cho các đứa con. Nếu tính luôn những thiệp làm trong trường th́ có thể lên tới 1 tỷ thiệp, và các thầy cô là người nhận được thiệp nhiều nhất.Trong một số nước trên thế giới, các học sinh tiểu học làm thiệp và gửi cho nhau và thầy cô. Trong thiệp của các em cũng bày tỏ cảm xúc mến đến các bạn khác giới. Vào thiên niên kỷ mới, mới sự ra đời và lớn mạnh của Internet đă dần dần tạo thành những truyền thống tặng thiệp mới. Hàng triệu người trên thế giới bắt đầu sử dụng thiệp in ra được trên mạng hoặc gửi thiệp bằng mạng như e-thiệp. Ước tính khoảng 15 triệu e-thiệp được gửi vào năm 2010. Nói đến t́nh yêu, chúng ta không chỉ nghĩ đến t́nh yêu thơ mộng của chuyện t́nh nam nữ mà c̣n có những t́nh yêu nhẹ nhàng, t́nh cảm khác cũng cần đưọc nhắc đến và vinh danh. Người viết xin mời bạn đọc câu chuyện cực ngắn dưới đây thật là dễ thương đă giúp ta t́m hiểu t́nh yêu có thể được diễn đạt qua nhiều h́nh ảnh khác và món quà trao cho nhau đâu cần phải là bó hoa hồng rực rỡ hay hộp chocolate béo ngọt. Ṿng cẩm thạch Cha kể, cha chỉ ao ước tặng mẹ chiếc ṿng cẩm thạch. Tay mẹ trắng nơn nà đeo ṿng cẩm thạch rất đẹp. Mỗi khi cha định mua, mẹ cứ t́m cách từ chối, lúc mua sữa, lúc sách vở, lúc tiền trường... Đến khi tay mẹ đen sạm, mẹ vẫn chưa một lần được đeo. Chị em hùn tiền mua tặng mẹ một chiếc thật đẹp. Mẹ cất kỹ, thỉnh thoảng lại ngắm nghía, cười: - Mẹ già rồi, tay run lắm, chỉ nh́n thôi cũng thấy vui. Chị em không ai bảo ai, nước mắt rưng rưng. Sương Lam |
Giọng Nói Thanh Lịch Của Hà Nội Không C̣n Nữa!
1 Attachment(s)
Tiếng nói là sinh mệnh của dân tộc. Không phải phở, nước mắm không c̣n, hay truyện Kiều không c̣n th́ dân tộc mất. Tiếng nói không c̣n, dân tộc diệt. Phở, nước mắm không c̣n th́ ăn món khác, dù có tiếc nuối nhưng dân tộc vẫn c̣n. Truyện Kiều không c̣n th́ viết truyện khác, dù tiếc nuối nhưng dân tộc vẫn c̣n. Mất tiếng nói là dân tộc biến dạng và biến thành một dân tộc khác. Chẳng hạn mai đây toàn dân Việt Nam đều nói tiếng Tàu th́ Việt Nam biến thành một tỉnh của Trung Hoa. Nếu 90 triệu dân đều nói tiếng Pháp th́ Việt Nam biến thành một “Pháp Quốc Hải Ngoại”. C̣n nếu 90 triệu dân đều nói tiếng Anh th́ Việt Nam biến thành tiểu bang thứ 51 của Hoa Kỳ hay giống như Phi Luật Tân, Puerto Rico.
Như vậy tiếng nói phải tồn tại cùng với dân tộc. Khi nào dân tộc diệt th́ tiếng nói mới bị diệt. Thế nhưng dù tồn tại miên viễn, nó phải tồn tại trong sáng đẹp, có tính văn chương cao và phát âm thanh thoát, rơ ràng. Mỗi một dân tộc có một vùng miền nào đó mà “giọng nói” trở thành tiêu biểu cho cả quốc gia. Chẳng hạn giọng nói của Paris là tiêu biểu cho tiếng Pháp. Giọng Bắc Kinh là tiêu biểu cho tiếng Trung Hoa. Giọng nói của Nữu Ước và California là tiêu biểu cho tiếng Anh ở Hoa Kỳ. Và hiển nhiên giọng Hà Nội trước năm 1954 và giọng Sài G̣n trước 1975 là tiêu biểu cho giọng nói của người Việt Nam. Thế nhưng không hiểu sao gái Hà Nội bây giờ giọng nói rất nhà quê, lơ lớ, ngai ngái, phát âm không rơ chữ, liến thoắng, cộc lốc, không dịu dàng, không có tiếng “vâng ạ, dạ, thưa” như ngày xưa. Nghe nói trong lúc nói chuyện với nhau, các cô Hà Nội bây giờ, mặt mũi xinh đẹp nhưng ăn nói thô tục kinh hồn. Tôi có ông bạn dược sĩ về thăm Hà Nội cách đây vài năm nói rằng, “Nó nói chuyện với ḿnh th́ chú chú, cháu cháu ngọt sớt. Quay qua nói chuyện với bạn nó th́ thô tục kinh hồn! Không hiểu gia đ́nh, trường học giáo dục nó như thế nào?” Nổi tiếng nhất có bà “Bún mắng cháo chửi” ở Đường Ngô Sĩ Liên, đă được đưa lên chương tŕnh truyền h́nh của đài CNN. Rồi mới đây nhất một bà đại úy công an thuộc Quận Đống Đa, Hà Nội chửi bới thô tục một nhân viên của hăng hàng không tại Phi Cảng Tân Sơn Nhất đă được đưa lên trang tin Sputnik News. Cả giọng Bắc của các nam/nữ xướng ngôn viên đài VOA, BBC tiếng Việt cũng thế. Cũng liến thoắng, ngai ngái, lơ lớ, eo éo, phát âm không rơ chữ và thường lên giọng ở chữ cuối cùng, nghe khó chịu vô cùng. Khi đọc diễn văn, đọc một bản tin, nói chuyện mà lên giọng ở chữ cuối cùng th́ giống như người Thượng nói tiếng Việt. Những cô gái Thái, Mường, Mèo, Dao… nói c̣n dễ nghe và dễ thương hơn những cô gái này. Sự đổi đời lan rộng ra hải ngoại, tới tận Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, California và Texas! Ở đây tôi không viết v́ thù ghét. Nếu viết v́ thù ghét sẽ không c̣n trung thực. Một nhà nghiên cứu văn hóa ở trong nước nói rằng tiếng Bắc th́ c̣n nhưng giọng Hà Nội bây giờ không c̣n nữa. Có rất nhiều nguyên do. Năm 1954, dân Hà Nội di cư vào Nam gần một nửa. Chiếm lĩnh thành phố là dân “bần cố” có công với “cách mạng” cho nên ngôn ngữ ‘bần cố” trở thành ngôn ngữ của giai cấp thống trị và giết chết ngôn ngữ thanh lịch, dịu dàng, văn vẻ của đất “Ngàn Năm Văn Vật”. Lư do thứ hai, có lẽ là để biện minh, rằng thế hệ sau lớn lên nói giọng quê mùa, liến thoắng, lơ lớ như vậy là v́ các chị vú em, người giữ trẻ cho con nhà “cán bộ” từ vùng quê nghèo khổ kéo về, không được học hành cho nên tiếng nói nó mới “đổi đời” như thế. Một giọng nói muốn trở thành mẫu mực cho đất nước, bất kể Nam-Trung-Bắc phải hội đủ những điều kiện như sau: 1) Phát âm đúng, không ngọng nghịu, ngai ngái, lơ lớ như lai Tây, lai Tàu, lai Mỹ. Tôi đă có dịp hỏi nhạc sĩ Phạm Duy điều kiện để trở thành danh ca. Phạm Duy nói rằng điều quan trọng nhất là phát âm phải đúng. Thí dụ, “buồn” không thể phát âm thành “buồng”, “tuổi” không thể phát âm thành “tủi”, “hoàng hôn” không thể phát âm thành “hoàn hôn”, “mỏi ṃn” không thể phát âm thành “mơi ṃn”, “nỗi ḷng” không thể phát âm thành “nổi ḷng”, “hỏi han” không thể phát âm thành “hơi hang”, “lăng đăng” không thể phát âm thành “lảng đảng”, “điện thoại” không thể phát âm thành “điện thọi”, “lan” không thể phát âm thành “lang”. Tiếng Việt không có âm “shờ”, “chờ” uốn cong lưỡi như tiếng Anh. Cô/cậu/ông/bà/cụ… ca sĩ nào hát những chữ như “anh mong chờ”, “chiều về”, “đêm nay thu sang”…mà uốn cong lưỡi, đều không phải là danh ca, dù hát hay thế nào đi nữa. Theo nhạc sĩ Phạm Duy th́ Thái Thanh và Lệ Thu là hai người phát âm giọng Bắc đúng nhất. Chàng này dạy khóa học giao tiếp, nhưng y cũng nói nhanh và eo éo c̣n khó chịu khi nghe. 2) Nói với tốc độ (speed) vừa phải, không liến thoắng, để người nghe kịp hiểu ḿnh nói ǵ. Vào xem các chương tŕnh phóng sự ở Việt Nam và VOA, BBC nhiều khi các cô/cậu phóng viên nói một hồi mà tôi không hiểu các cô/cậu nói ǵ v́ giọng liến thoắng, chữ líu vào nhau và nhanh quá! Xin nhớ cho, nước Mỹ này có 350 triệu dân, ai cũng học hành giỏi giang cả, nhưng để tuyển xướng ngôn viên đài truyền h́nh có giọng nói hay th́ chỉ có vài trăm cô. Đất nước Việt Nam 90 triệu dân, nhưng để tuyển xướng ngôn viên đài truyền h́nh, đài phát thanh có giọng nói như Miền Nam thuở xưa, chưa chắc đă t́m ra một người. Cứ thử mở các băng ghi âm cũ của các chương tŕnh phát thanh hay truyền h́nh của Miền Nam xưa, xem có đúng như vậy không? 3) Âm lượng vừa đủ, không lớn quá, không lí nhí, không the thé. Bà này nghe cũng tàm tạm, nhưng vẫn c̣n giọng éo éo và kéo dài tiếng nói… 4) Phải có chút trầm bổng, không đều đều, buồn tẻ để hấp dẫn người nghe và dĩ nhiên không nhà quê. Phải biết ngắt câu đúng nơi, đúng chỗ, vừa để ḿnh thở để lấy hơi, vừa để người ta hiểu ḿnh nói ǵ. 5) Không được cộc lốc, gằn, chấm dứt câu đột ngột làm như muốn mắng chửi người ta. Thật lạ lùng! Miền Bắc bây giờ khi nói chuyện, đọc bản tin hoặc đọc diễn văn, trả lời phỏng vấn… mọi người đều ”lên giọng” ở chữ cuối cùng, nghe khó chịu vô cùng, giống như đồng bào Thượng ở Kontum, Pleiku nói tiếng Việt. Trong ngôn ngữ, chỉ ở thể “mệnh lệnh cách” hoặc “câu hỏi” người ta mới “lên giọng” ở chữ cuối cùng. Có lẽ do lối đọc diễn văn nhát gừng, kích động của Ô. Phạm Văn Đồng mấy chục năm về trước hoặc lối đọc diễn văn, tuyên truyền dưới thời Mao Trạch Đông cho nên cả nước “học tập” và bắt chước theo khiến di họa cho tới ngày nay. 6) Phải có những tiếng như “dạ”, “thưa ”, “vâng” trong câu nói để chứng tỏ sự lịch sự của ḿnh. Trong một chương tŕnh truyền h́nh của VTV3, phỏng vấn một bà nguyên là đại sứ tại Liên Hiệp Quốc của đất nước ḿnh mà gọi bằng “chị” th́ thật vô lễ, bất lịch sự quá đỗi. Bắt buộc phải nói, “Thưa bà đại sứ” hoặc “Thưa bà giáo sư”. Không có chuyện “chị em” ở đây. Đó là phép lịch sự tối thiểu. 7) Dĩ nhiên là phải có học để lựa chọn những từ ngữ thanh tao, tránh những từ ngữ thô lỗ, đường phố. Điều này phải nhờ giáo dục học đường mà c̣n cả giáo dục gia đ́nh nữa. Thí dụ: Một con nhà có giáo dục sẽ không nói, “Mày câm cái mồm mày lại!” mà có thể nói, “Ông/bà/anh chị, em …mà cứ nói như vậy th́ câu chuyện sẽ trở nên khó khăn hơn.” Hoặc “Ông/bà/anh chị/em không nên nói như vậy.” Ngoài ra phải có những câu như “xin lỗi”. Chẳng hạn, “Xin lỗi, chúng tôi phải chấm dứt chương tŕnh v́ đă hết giờ.” hoặc “Xin lỗi, tôi ra ngoài một chút.” “Xin lỗi”, đây không có nghĩa là ḿnh có lỗi, mà là lối nói lịch sự. Các câu “ I am sorry” , “Excuse me, “Thank you” luôn luôn được thốt ra từ cửa miệng người Mỹ. Giọng cô này nghe giống như tiếng thượng Pleihu, hay đâu đó ở vùng Cao Nguyên Thú thực, xem các đoạn phim phóng sự sinh hoạt của các cô gái Thái, Mèo, Mường ở Lai Châu, Lào Cai tôi lại thích giọng nói của các cô này hơn là giọng nói của các cô gái Hà Nội chỉ v́ họ nói dịu dàng, nhỏ nhẹ, không liến thoắng và giọng th́ không nhăo, ngai ngái, eo éo… Hầu hết các cô/cậu làm phóng sự đều ở tuổi đôi mươi, nhưng không bao giờ nói được câu “quư vị” trong khi những người xem có thể đáng tuổi ông nội, chú bác, cô d́…của họ …mà chỉ dùng các chữ như “các bạn”, “các bạn nhé!” khiến gây khó chịu cho người nghe. Đây không phải lỗi của các phóng viên mà lỗi ở chủ nhiệm, chủ biên, giám đốc các đài truyền h́nh, tŕnh độ giáo dục quá kém, không biết thế nào là lịch sự, lễ phép đối với khán-thính giả. Ngay cả giọng nữ của những phát ngôn viên đài truyền h́nh lớn nhất của Sài G̣n, mặt mũi tuyển chọn rất xinh đẹp nhưng giọng Miền Nam lại vô cùng quê mùa. Nó không phải là giọng nói thanh lịch của những nữ sinh Gia Long, Trưng Vương, Marie Curie của Sài G̣n năm xưa, mà nó là giọng quê mùa của các cô gái từ Củ Chi, Cà Mau, Châu Đốc, Đồng Tháp Mười mới lên Sài G̣n. Thật đau buồn! Trong khi giọng nói của các cô gái Nam của các chương tŕnh phát thanh thương mại ở Nam, Bắc Cali, Hoa Thịnh Đốn th́ lại sang và trí thức biết là bao nhiêu. Cứ thử thu băng rồi đem về cho cả nước nghe rồi so sánh xem có đúng như vậy không. Tôi không bao giờ có ư nghĩ khinh thị các cô gái nói giọng quê mùa. Tại Mỹ này cũng có những giọng nói quê mùa của những vùng như Texas, Alabama và North Carolina… Họ là những con người dễ thương, không có ǵ chê trách. Nhưng khi tuyển một xướng ngôn viên tiểu biểu th́ phải tuyển các cô/cậu có giọng nói trí thức, có học, sống ở nơi đô hội. Ở Mỹ này họ thường tuyển chọn xướng ngôn viên theo giọng nói của Nữu Ước, California. Cũng giống như thi hoa hậu th́ phải tuyển cô đẹp. Tuyển cô xấu mà nói là “hoa hậu” th́ người ta “mắng” cho. Xin nhớ, tuyển cả ngàn cô gái đẹp rất dễ. Nhưng tuyển một cô có giọng nói đúng giọng, sang, trí thức, mẫu mực, dễ nghe, …th́ cả ngàn cô, chưa chắc đă tuyển được một cô. Có cả trăm loài chim, nhưng chim hót hay chỉ có vài con. Tôi c̣n nhớ, có lẽ khoảng 1964-1965, khi Miền Nam bắt đầu có chương tŕnh truyền h́nh. Đài Sài G̣n tuyển và thí nghiệm ba giọng đọc Nam, Bắc và Huế cùng lúc. Nhưng chỉ sau vài lần, phải bỏ giọng Huế. Dĩ nhiên là giọng Huế rất dễ thương. Nghe các cô ở Sông Hương, Núi Ngự nói chuyện th́ “mê” lắm. Nhưng nghe các cô đọc một bản tin trên đài phát thanh hay đài truyền h́nh th́ nó “nặng”quá. Cho nên giọng Huế không thích hợp cho các xướng ngôn viên, hướng dẫn chương tŕnh, quảng cáo, văn nghệ v.v… Hiện nay t́nh trạng ngôn ngữ đổi đời lan ra hải ngoại nguyên do chỉ v́ các báo ở hải ngoại , các đài phát thanh, truyền h́nh, cá nhân tuy chửi rủa trong nước đủ điều nhưng lại đua nhau chuyến tiếp/forward và đăng “nguyên con” trên “báo chợ” trên các Diễn Đàn Yahoo Groups các bản tin, bài viết trong nước, nhất là hai trang tin VOA và BBC Việt Ngữ. Chính v́ thế ngôn ngữ đổi đời, ngôn ngữ bát nháo, giọng nói ngọng, ngai ngái, lơ lớ, éo éo… đang trở thành ngôn ngữ chính thống ở hải ngoại. “Buồn ơi chào mi”! Sống không phải chỉ là miếng ăn ngon, quần áo đẹp, xe đắt tiền, iPhone, iPad, tháng nào, chỗ nào, hang cùng ngơ hẻm nào cũng thi hoa hậu, tuyển lựa ca sĩ…(tất cả những thứ này chỉ là văn nghệ, không phải là văn hóa và có khi phản văn hóa) mà cần có nghệ thuật, văn chương và văn hóa. Tiếng nói là bộ phận sống c̣n của một dân tộc. Tiếng nói thanh tao, lịch sự, lễ độ, mẫu mực, dễ nghe biểu tỏ một tŕnh độ văn hóa, giáo dục cao và một cuộc sống đẹp. Mất nó, hay tiếng nói c̣n đó mà thô tục, bát nháo, thiếu lễ độ là biểu tỏ một xă hội suy đồi, hư đốn. Không thể phủ nhận, tiếng Bắc giọng Hà Nội trước 1954 và tiếng Nam giọng Sài G̣n 1954-1975 là tiêu biểu cho giọng nói của hai miền Nam-Bắc. Giọng Bắc Hà Nội thanh lịch, dịu dàng, văn vẻ. Giọng Nam Sài G̣n, t́nh cảm, mặn mà, chân thật, dễ thương, chậm răi, dễ hiểu. Ôi, thèm làm sao tiếng nói dịu dàng, thanh thoát, lịch sự, văn vẻ của Hà Nội và cả giọng nói rất trí thức của Sài G̣n năm xưa, mà nay: Tạo hóa gây chi cuộc hư trường. Đến nay thấm thoát mấy tinh sương. Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương. Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt. Nước c̣n cau mặt với tang thương. Ngàn năm gương cũ soi kim cổ. Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường. (Thăng Long Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan) Không biết tới bao giờ giọng nói thanh lịch của đất “Ngàn Năm Văn Vật” sống lại ở Việt Nam đây? Có lẽ nó đă bị hủy diệt mất rồi! Đào Văn B́nh |
TÂM SỰ CỦA MỘT VIỆT KIỀU”
2 Attachment(s)
Khi bắt đầu bước vào xă hội, bước đầu tiên, họ đă bị lănh đạo "ăn cắp" tiền đút lót để được có việc làm, nên họ phải tiến vào quĩ đạo ăn cắp, họ ăn cắp dự án, ăn cắp đất của nông dân, ....
Tôi không bênh vực những tiếp viên hàng không bằng lư do ngô nghê là họ phải đút lót để đựơc có việc làm trong Air VN nên họ phải buôn lậu chuyển hàng ăn cắp để gỡ vốn. Tôi thực sự thương hại họ, v́ "Quít trồng Giang Nam th́ ngọt, trồng Giang Bắc lại chua" Ngay khi chào đời, họ đă bị sinh ra trong một bệnh viện "ăn cắp", khi lớn lên, họ lại đi học trong những trường học "ăn cắp", giáo sư "ăn cắp" công tŕnh trí tuệ của người khác, học sinh, sinh viên "ăn cắp" bảng điểm, "ăn cắp" bằng cấp bằng phong b́. Khi bắt đầu bước vào xă hội, bước đầu tiên, họ đă bị lănh đạo "ăn cắp" tiền đút lót để được có việc làm, nên họ phải tiến vào quĩ đạo ăn cắp, họ ăn cắp dự án, ăn cắp đất của nông dân, họ ăn cắp tiền phạt giao thông, họ ăn cắp sinh mạng của người dân bằng tra tấn, nhục h́nh. V́ vậy , khi tôi nh́n thấy những cô ca sĩ, hoa hậu, người mẫu, vênh váo khoe khoang quần áo, túi xách, giầy dép hàng hiệu, xe khủng , nhà khủng, tôi thương hại họ quá, họ cũng bị "ăn cắp" trinh tiết, bị "ăn cắp" phẩm giá, anh ạ. Tôi có con gái, và con gái tôi may mắn, được giáo dục tại trường học phân biệt điều phải, điều trái, được tôn trọng nhân phẩm. Khi về VN, nhiều lần, xe người bạn chở tôi đi, bị công an thổi c̣i, rồi công an ṿi vĩnh, x̣e tay cầm tiền hối lộ. Tôi rơi nước mắt, họ c̣n nhỏ tuổi hơn con trai tôi. Con trai tôi có công ăn việc làm, nuôi con cái bằng chính sức lao động của ḿnh, dạy con, làm gương cho con bằng chính nhân cách của ḿnh. Những người công an trẻ đó cũng bị "ăn cắp" lương tâm? Khi những người công an, đánh người, giết người, họ được bố thí trả công bằng vài bữa ăn nhậu, chút đồng tiền rơi rớt. Khi những phóng viên, bẻ cong ng̣i bút, viết xuống những điều trái với lương tâm, sự thật để được bố thí trả công bằng những nấc thang chức vị, những đồng lương tanh tưởi, nhà văn Vũ Hạnh đă gọi đó là "Bút Máu". Khi những quan ṭa, đổi trắng thay đen, cầm cán cân công lư có chứa thủy ngân như trong truyện cổ Việt Nam, họ cũng bị "ăn cắp" nhân tính mất rồi. Trong xă hội, toàn là "ăn cắp", vậy th́ kẻ cắp là ai? Ai cũng biết, nhưng giả vờ không biết, V́ văn hóa "giả vờ" là đồng lơa cho xă hội ăn cắp. Lấy 1 bịch, nhét vô cái túi này, ai mà thấy ! Cán bộ lănh lương 200 đô la một tháng, xây nhà chục triệu nhưng "giả vờ" đó là công sức lao động tay chân và trí tuệ hay quà tặng của cô em "kết nghĩa". Tôi muốn xin cô em đó cho tôi được làm "con kết nghĩa" của cô ta quá. Thế mà có những lănh đạo, ủy viên Trung Ương Đảng, Đại biểu Quốc Hội, Ban Nội Chính, UỶ Ban Điều Tra, Quan Ṭa "Thiết Diện Vô Tư", Phóng viên Lề phải, Thành Đoàn, Quân Đội Nhân Dân, Chiến sĩ Công An, Trí thức Yêu Nước, Việt Kiều Yêu Nước sẽ sẵn sàng giả vờ tin vào quà tặng của "cô em kết nghĩa" đó! C̣n có thể trong tương lai, sẽ có nhiều quan chức sẽ nhận được nhà khủng, quà tặng của ông anh kết nghĩa, bà chị kết nghĩa, ông bố kết nghĩa, ông cố nội kết nghĩa, khi không t́m ra con người nữa, sẽ tiếp theo con chó kết nghĩa, con trâu kết nghĩa....... Công chúa mặc áo đầm hồng ưỡn ẹo trên đôi giày cao gót hồng đi thị sát công trường xây dựng, theo sau là một đoàn chuyên viên già tuổi tác, thâm niên công vụ, nhưng ai nấy vui vẻ, hớn hở, giả vờ công chúa là một chủ tịch tài năng thiên phú, không cần đi học, không cần kinh nghi Khi bắt đầu bước vào xă hội, bước đầu tiên, họ đă bị lănh đạo "ăn cắp" tiền đút lót để được có việc làm, nên họ phải tiến vào quĩ đạo ăn cắp, họ ăn cắp dự án, ăn cắp đất của nông dân, .... họ ăn cắp tiền phạt giao thông, họ ăn cắp sinh mạng của người dân bằng tra tấn, nhục h́nh. V́ vậy , khi tôi nh́n thấy những cô ca sĩ, hoa hậu, người mẫu, vênh váo khoe khoang quần áo, túi xách, giầy dép hàng hiệu, xe khủng , nhà khủng, tôi thương hại họ quá, họ cũng bị "ăn cắp" trinh tiết, bị "ăn cắp" phẩm giá, anh ạ. Tôi có con gái, và con gái tôi may mắn, được giáo dục tại trường học phân biệt điều phải, điều trái, được tôn trọng nhân phẩm. Khi về VN, nhiều lần, xe người bạn chở tôi đi, bị công an thổi c̣i, rồi công an ṿi vĩnh, x̣e tay cầm tiền hối lộ. Tôi rơi nước mắt, họ c̣n nhỏ tuổi hơn con trai tôi. Con trai tôi có công ăn việc làm, nuôi con cái bằng chính sức lao động của ḿnh, dạy con, làm gương cho con bằng chính nhân cách của ḿnh. Những người công an trẻ đó cũng bị "ăn cắp" lương tâm? Khi những người công an, đánh người, giết người, họ được bố thí trả công bằng vài bữa ăn nhậu, chút đồng tiền rơi rớt. Khi những phóng viên, bẻ cong ng̣i bút, viết xuống những điều trái với lương tâm, sự thật để được bố thí trả công bằng những nấc thang chức vị, những đồng lương tanh tưởi, nhà văn Vũ Hạnh đă gọi đó là "Bút Máu". Khi những quan ṭa, đổi trắng thay đen, cầm cán cân công lư có chứa thủy ngân như trong truyện cổ Việt Nam, họ cũng bị "ăn cắp" nhân tính mất rồi. Trong xă hội, toàn là "ăn cắp", vậy th́ kẻ cắp là ai? Ai cũng biết, nhưng giả vờ không biết, V́ văn hóa "giả vờ" là đồng lơa cho xă hội ăn cắp. Lấy 1 bịch, nhét vô cái túi này, ai mà thấy ! Cán bộ lănh lương 200 đô la một tháng, xây nhà chục triệu nhưng "giả vờ" đó là công sức lao động tay chân và trí tuệ hay quà tặng của cô em "kết nghĩa". Tôi muốn xin cô em đó cho tôi được làm "con kết nghĩa" của cô ta quá. Thế mà có những lănh đạo, ủy viên Trung Ương Đảng, Đại biểu Quốc Hội, Ban Nội Chính, UỶ Ban Điều Tra, Quan Ṭa "Thiết Diện Vô Tư", Phóng viên Lề phải, Thành Đoàn, Quân Đội Nhân Dân, Chiến sĩ Công An, Trí thức Yêu Nước, Việt Kiều Yêu Nước sẽ sẵn sàng giả vờ vào quà tặng của "cô em kết nghĩa" đó C̣n có thể trong tương lai, sẽ có nhiều quan chức sẽ nhận được nhà khủng, quà tặng của ông anh kết nghĩa, bà chị kết nghĩa, ông bố kết nghĩa, ông cố nội kết nghĩa, khi không t́m ra con người nữa, sẽ tiếp theo con chó kết nghĩa, con trâu kết nghĩa....... Công chúa mặc áo đầm hồng ưỡn ẹo trên đôi giày cao gót hồng đi thị sát công trường xây dựng, theo sau là một đoàn chuyên viên già tuổi tác, thâm niên công vụ, nhưng ai nấy vui vẻ, hớn hở, giả vờ công chúa là một chủ tịch tài năng thiên phú, không cần đi học, không cần kinh nghiệm. Thượng bất chính, hạ tắc loạn. "Thanh tra, thanh mẹ, thanh ǵ? Hễ có phong b́ th́ Nó "Thank you" Tôi buồn lắm, có đôi khi quá tuyệt vọng, tôi tự hỏi, ḿnh có nên quên ḿnh là người VN như con đà điểu vùi đầu trong cát, như quả chuối ngoài vàng, trong trắng, v́ tôi yêu nước Mỹ quá rồi. Nước Mỹ chưa, và có lẽ không bao giờ hoàn hảo, nhưng ở đây, ít nhất không ai có thể "ăn cắp" lương tâm, phẩm giá và nhân tính của tôi. Tôi được sống như một "CON NGƯỜI" không phải chỉ "giả vờ " "làm người" đang sống. ST |
MỘT LẦN XA BẾN
1 Attachment(s)
Tất cả mọi người đă quây quần bên chiếc bàn ăn đặt giữa pḥng. Ba tôi ngồi đầu bàn, mẹ tôi ngồi bên trái của ba, bên phải là Hoàng, em út tôi. Tôi, Kim Châu và Ngọc ngồi kế tiếp.
Cạnh mẹ tôi vẫn c̣n hai chiếc ghế trống, một của chị Lan, chị cả của tôi; hôm nay Chủ Nhật đúng vào phiên trực của chị ở bệnh viện nên chị về muộn; chiếc ghế c̣n lại dành cho anh Hoài, con của cô Ba, chị của ba tôi. Giờ này mà anh Hoài vẫn chưa đến, mặc dù chúng tôi đă nấn ná chờ anh ngót nửa giờ rồi. Cuối cùng, ba tôi quyết định vào tiệc. Tôi gắp chả gị cho mấy cô bạn nghịch ngợm của tôi, cô nào cũng hít hà khen ngon. Mà phải công nhận là mẹ tôi làm chả gị ngon thật, lại thêm nước mắm chua ngọt rất vừa miệng, vă lại sự đợi chờ làm cơn đói bụng tăng thêm nên bọn nhóc chúng tôi cùng nhai ngấu nghiến. Chợt có tiếng con ki ki sủa vang ngoài cổng vài tiếng rồi im bặt, tiếp theo là những tiếng kêu ư ử của nó mỗi khi gặp người quen. Tôi reo lên: Chắc là anh Hoài đến đó. Thằng Hoàng nhanh nhẹn chạy ra mở cổng. Anh Hoài vào đến pḥng ăn, chúng tôi đều ngưng đũa. Anh không đến một ḿnh mà cùng đi với anh c̣n có một anh chàng Hải Quân trong bộ quân phục trắng tinh, chiếc mũ đội chênh chếch vừa được anh giở khỏi đầu, ôm trước ngực và kính cẩn cúi người chào ba mẹ tôi. Anh Hoài nhanh miệng: – Thưa cậu, thưa mợ, đây là Trung bạn học của con hồi ở Petrus Kư. Mọi người chào nhau. Mẹ tôi vẫn cái tánh cố hữu băi buôi của người miền Bắc: – Gớm, sao bác sĩ đến trễ thế? Em nó sắp khóc lên đấy và cứ lo sinh nhật của nó mà anh Hoài không đến. Mẹ hay gọi thế cho nó trang trọng chứ anh Hoài mới học năm thứ ba Y Khoa thôi. Anh hơi ngượng v́ hai chữ bác sĩ mà mẹ tôi gọi anh. Mặt anh đỏ và anh nháy mắt với tôi. – Con xin lỗi cậu mợ v́ đă để cậu mợ và mọi người phải chờ. Mấy năm rồi tụi con mới gặp lại nhau. Con mạn phép cậu mợ mời Trung đến dự sinh nhật của Phượng luôn. Với bản chất hể hả của người miền Nam, ba tôi nói: – Lỗi phải ǵ, ngồi xuống đó đi hai cháu, cả nhà cũng mới bắt đầu ăn thôi. Thế là tôi quen anh từ đó. Những lần kế tiếp ghé nhà tôi anh c̣n đi chung với anh Hoài, dần dà sau đó th́ anh đến một ḿnh. Anh hay kể cho tôi nghe chuyện bạn bè, chuyện trên tàu của anh và chuyện của những v́ sao. Từ khi được anh kể cho nghe về huyền thoại của những v́ sao, tôi sinh ra bệnh mộng mơ, có lẽ nó phát sinh từ bản tính lăng mạn sẵn có của tôi chăng? Tôi thích nhất là huyền thoại của nàng Europa, nữ thần t́nh ái. V́ say mê vẻ đẹp mê hồn của nàng nên thần Zeus đă biến dạng thành con ḅ trước khi đến gặp nàng. Con ḅ thần này thật đẹp, toàn thân màu hạt dẻ, hàng lông mày bạc, c̣n sừng th́ như vầng trăng non. Bị thu hút trước vẻ đẹp của con ḅ, nàng Europa đến gần ve vuốt. Con ḅ liền nằm phủ phục dưới chân nàng như mời Europa hăy cỡi lên lưng của nó. Nàng Europa không chút sợ sệt, leo lên lưng ḅ. Lập tức ḅ đứng dậy chạy thật nhanh rồi bay bổng lên không trung. Chỉ một chốc, ḅ xà xuống mặt biển để nhận sự chào đón của các thần biển và những loài thủy tộc. Nàng Europa thấy sóng nước và đoàn thủy thần nhào lộn theo con ḅ, nàng sợ hăi, một tay nắm chặt sừng ḅ và tay kia cố giữ xiêm y đang tung bay phất phới. Khi đảo Crete hiện trong tầm mắt, họ liền hạ xuống. Các thần mùa màng và thần núi Olympic đưa đến cho nàng lễ phục tân nương… Tôi thích nhất huyền thoại trên đây, nói về thần Zeus là thần trên tất cả các vị thần, v́ yêu đă biến thành ḅ để “bắt cóc” nàng Europa về làm vợ. Thật là vừa lăng mạn, vừa “bạo tàn” theo cảm nghĩ của riêng tôi. Vào những đêm không trăng, bầu trời đen thẫm như nhung với ngàn sao lóng lánh, tôi thường ra sân thường ngồi một ḿnh trên chiếc ghế dựa bằng mây của ba tôi để ngắm các v́ sao và để mơ mộng! Đôi khi mẹ bước ra bắt gặp lại cằn nhằn: – Trời tối như mực thế mà c̣n ngồi ngoài này làm ǵ? Sao không vào đi ngủ để sáng mai c̣n đi học? Tôi rầu mẹ vô cùng! Mẹ đâu biết rằng tôi đang ở vào tuổi biết yêu và h́nh như đă gửi một phần trái tim lăng mạn của ḿnh theo bóng h́nh của một chàng thủy thủ! Là con gái một thời, ai lại không có những kỷ niệm đẹp để mang theo, có khi suốt cả cuộc đời? Hôm nay có lẽ là cuối tháng ta nên trăng đă trốn mất nơi nào, bầu trời đen thẫm không mây nên hàng ngàn v́ sao đang đua nhau lấp lánh. Tôi ngước t́m các cḥm sao mà anh đă chỉ cho tôi. Tôi thấy thật rơ thiên ṭa Taurus gồm những ngôi sao sáng rực nằm gần nhau thật âu yếm. Trong lúc đang mơ màng về huyền thoại của nữ thần t́nh ái th́ anh đă đứng sau lưng tôi từ bao giờ. Không biết anh đă đi vào bằng lối nào, cổng trước hay cửa sau? Từ sân thượng nh́n xuống, lờ mờ dưới ánh đèn, cổng rào nhà tôi vẫn c̣n đóng kín! C̣n đang thắc mắc chưa kịp hỏi, th́ anh nói khẻ vào tai tôi: – Bé có muốn “xa bến” không? Tôi rất thích hai chữ “xa bến” này, nó vừa làm cho tôi buồn, mà cũng vừa làm cho tôi thích thú. Tôi buồn v́ cứ mỗi lần tàu ra khơi là anh nói đùa với tôi rằng anh “xa bến”. Đó là những chuỗi ngày mong chờ dài dằng dặc. Rất thích thú là khi anh “về bến” th́ tôi lại được nghe anh kể nhiều chuyện về chuyến hải hành vừa qua. V́ vậy khi nghe anh hỏi th́ không c̣n nỗi vui mừng nào hơn, v́ biết bao lần tôi mơ được theo tàu anh ra khơi để hiểu thế nào là xa bến. Tôi reo vui: – Để em vào xin phép mẹ. Anh đưa vội ngón tay trỏ lên môi ra dấu cho tôi nói khẽ và th́ thầm bên tai tôi: – Ḿnh chỉ đi một tí thôi, mẹ không biết đâu! Tôi c̣n đang ngơ ngác nh́n anh th́ chợt cảm nhận một bàn tay thật ấm đặt nhẹ vào lưng tôi và đi lần qua hông phải, người tôi mềm nhũn ra, tim tôi ngưng đập, chợt toàn thân tôi nhẹ bổng. Th́ ra, tôi được anh ôm chặt bên hông và được anh d́u cùng bay ra khỏi sân thượng nhà tôi! Chúng tôi bay ngang thành phố Sàig̣n sáng rực ánh đèn, bỏ lại bến Bạch Đằng bên dưới, lướt qua vùng ngoại biên và ô ḱa, Băi Trước Vũng Tàu hiện ra dưới mắt tôi. Tóc tôi xơa dài tung bay trong gió lồng lộng. Một tay tôi bá chặt vào cổ anh, tay kia cố gom lại những sợi tóc dài quái ác đang vướng vào mặt mũi hai đứa. Đang bận bịu với mái tóc của ḿnh, chợt anh ghé vào tai tôi và nói: – Ḿnh đến nơi rồi! Tôi nh́n xuống. Một hạm đội thắp đèn sáng rực nằm giữa biển đen ng̣m. Ánh sáng bên hông tàu cho tôi thấy rơ số “802”. Anh nhẹ nhàng đáp xuống, chân tôi cũng chạm hẳn xuống sàn tàu. Tôi nh́n quanh thấy các thủy thủ vẫn chăm chú vào những công việc của họ, h́nh như không nh́n thấy sự hiện diện của chúng tôi. Từ trong pḥng chỉ huy, Trung Tá Hạm Trưởng bước ra. Anh thẳng người chào tay và nhận chào trả. Trung Tá Hạm Trưởng tươi cười bắt tay tôi và mời vào pḥng khách thật trang nhă. Trên tường, cạnh những bức tranh lịch sử hàng hải là những hàng đèn ẩn trong tường tạo cho căn pḥng ánh sáng vừa đủ ấm cúng và sang trọng. Cạnh hai chiếc sofa dài là một chiếc bàn nhỏ mặt kính trong vắt, trên để chiếc đčn bàn xinh xắn, ánh sáng vừa đủ rọi vŕo một quyển sổ lớn hơn quyển tập học tṛ dày độ 2 cm. Trung Tá Hạm Trưởng chỉ vào quyển sổ và nói với tôi: – Xin mời cô ghi vài ḍng vào quyển sổ lưu niệm của Cơ Xưởng Hạm 802! Tôi trang trọng lật tấm b́a cứng ra. Những trang kế tiếp tôi thấy danh tánh của những quan khách viếng thăm chiến hạm được viết theo hàng dọc. Từ từ, nhẹ nhàng và nắn nót; tôi ghi tên ḿnh vào quyển sổ. Tôi viết thật chậm để kéo dài thêm cái giây phút được làm khách danh dự của Cơ Xưởng Hạm 802, chiếc cơ xưởng hạm mới nhất của Hải Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa! Đang nắn nót viết, tôi chợt cảm thấy như có người đang nh́n ḿnh. Ngước lên, tôi bắt gặp đôi mắt lém lỉnh của anh như thầm nói: – Này cô bé, cô đang kư giấy trọn đời thuộc về gia đěnh Hải Quân rồi đấy nhé! Hai má tôi chợt nóng bừng. Tiếng của vị Hạm Trưởng cắt đứt ḍng tư tưởng lăng mạn của tôi: – Tôi sẽ đưa cô đi thăm một ṿng trên tàu. C̣n nỗi vui thích nào hơn! Tôi đặt cuốn sổ trở lại vị trí của nó và hân hoan bước theo Hạm Trưởng đi qua các “nhiệm sở” làm việc, pḥng họp, pḥng ăn và pḥng ngủ của các sĩ quan, thủy thủ v.v… Hạm Trưởng giải thích cho tôi biết, mặc dù phải đi sửa chửa những chiến hạm khác đôi khi cả tháng chưa về bến, nhưng tàu vẫn đủ nước ngọt để dùng, v́ tàu có trang bị máy lọc nước biển sang nước ngọt. Dù đang đóng vai thượng khách của tàu, tôi vẫn không dấu nỗi tánh trẻ con của ḿnh nên nói khẽ với Hạm Trưởng: – Thưa Trung Tá, có thể nào Trung Tá cho em nếm thử nước lọc từ nước biển sang được không? Ông cười nhẹ – Được chứ, xin mời cô… Ly nước lọc trong vắt được đặt vào tay tôi. Tôi vừa đưa ly nước lên môi chưa kịp nếm th́ bỗng nhiên người tôi bị ai đó lắc mạnh, hai vai bị kéo ngược về phía sau và tiếng của… mẹ tôi càu nhàu: – Dậy đi học kẻo trễ! Con gái lớn đầu rồi mà cứ ngủ trưa. Tôi mở mắt ra, nghe giận mẹ vô cùng và tiếc hùi hụi ly nước chưa kịp nếm, không biết vị nó ngọt ra sao nên vẫn c̣n ao ước đến bây giờ. Ba năm sau ngày miền Nam bị cưỡng chiếm, bạo quyền cộng sản đă dồn ép người dân Sàig̣n, nói đúng hơn là người dân cả miền Nam Việt Nam, phải lâm vào một thế kẹt không thể nào sống nổi. Chúng thực thi chính sách cướp bóc của cải và tài sản của người dân dưới cái tên “đánh tư sản mại bản”. Nhiều người đă tự tử v́ mất sạch của cải, tiền bạc và nhà cửa chỉ trong một sớm một chiều! Rất nhiều người trở thành khố rách áo ôm, không một nơi chốn dung thân, không c̣n một phương tiện sinh sống. Thật không bút mực nào có thể diễn tả hết nỗi thống khổ ấy. Phong trào vượt biên lên đến tột đỉnh. Một câu nói được mọi người nhắc nhở lúc ấy là “cây cột đèn mà có chân th́ nó cũng đi”. Nhận thấy nhiều người vẫn c̣n nhiều vàng bạc chôn dấu mà chúng không thể nào lấy hết được, cộng sản liền bày ra cái tṛ cho phép vượt biên “bán chính thức”. Đă gọi là vượt biên mà c̣n gọi là bán chính thức! Dù đă học hết lớp 12 rồi mà tôi cũng không làm sao hiểu nổi “danh từ” của bọn ấy. Kế hoạch này do nhà nước đứng ra tổ chức, người nào muốn đi cứ nộp đủ số vàng do bọn chúng đ̣i hỏi. Thật sự đây là một thủ đoạn vơ vét cho đến tận cùng, đến cạn kiệt tài sản của người dân miền Nam. Lũ người bất lương ấy đă cướp lấy biết bao nhiêu là vàng bạc, của cải, tịch thu biết bao nhiêu là nhà cửa đất đai mà những người vượt biên đă bỏ lại. Gia đ́nh tôi cuối cùng cũng phải gom góp hết tài sản do công lao khó nhọc của ba mẹ tôi tạo ra và dành dụm trong mấy chục năm trời nộp cho bọn chúng để được ra đi, để thoát khỏi sự kềm kẹp của một chế độ phi nhân xuất phát từ cái chủ nghĩa man rợ nhất trong lịch sử nhân loại. Ngồi trong ḷng chiếc ghe chật hẹp, người chen chúc nhau như cá ṃi đóng hộp, tôi mới thấm thía cái tâm địa tàn độc của bọn người theo chủ nghĩa Mác Lê. Thay v́ chúng đem những người có tài sản ra đấu tố, đập đầu, bắn bỏ… như thời cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc mà Hồ Chí Minh đă làm, th́ nay chúng hành xử văn minh và tiến bộ hơn tên đầu đảng của chúng một bậc. Bằng cách thức tổ chức vượt biên bán chính thức, chúng làm cho mọi người có cảm nghĩ là chính phủ có ḷng nhân đạo khi để cho người Hoa Kiều đi ra khỏi nước Việt Nam. Ngoài ra, chúng cũng làm giấy tờ giả mang tên Hoa Kiều để cấp cho những người Việt Nam chính gốc muốn ra đi. Có như thế, chúng mới vơ vét hết sạch của cải, tài sản của mọi người, đạt đến mục tiêu bần cùng hóa nhân dân cho dễ bề cai trị. Trước khi ra đi, tôi vẫn c̣n mơ mộng là khi tàu ra khơi, tôi sẽ nh́n thấy trời nước mênh mông của đại dương, tôi sẽ đứng trên boong tàu để t́m những v́ sao mà anh đă chỉ cho tôi… Nhưng có ngờ đâu, bọn người gian ác ấy sau khi lấy vàng của mọi người rồi lại c̣n muốn giết chúng tôi trên biển cả để giấu nhẹm tội ác của họ. Tàu đâu không thấy, hơn một trăm người bị nhét trên một chiếc ghe đánh cá cũ kỹ, mục nát. Vừa ra khơi là nước bắt đầu theo những lỗ mục ngấm vào ḷng ghe. Các thanh niên thay nhau múc nước đổ ra ngoài. Người đông, ghe nhỏ nên chiếc ghe khẳm gần ngang với mặt nước, có thể ch́m bất cứ lúc nào. Trải qua hai ngày, tôi mơ mơ màng màng trong những tiếng nguyền rủa, tiếng kêu khóc và sau cùng là những tiếng cầu kinh, tiếng gọi Phật, gọi Chúa, lẫn trong tiếng kêu la thảm thiết của những bà mẹ khi thấy con ḿnh ngất đi, không c̣n cựa quậy. Người tôi cũng chết cứng, tê dại trong cảnh tượng khủng khiếp mà cái chết cận kề chỉ trong gang tấc. Nhưng may mắn thay, lời cầu khẩn của chúng tôi đă được ơn trên đáp ứng. Hai ngày sau, chúng tôi được một tàu buôn kéo hộ vào đảo Bidong. Đó là lần “xa bến” duy nhất và thật là kinh khủng trong cuộc đời của tôi. Sau lần xa bến đó, tôi phải đương đầu với thực tế tại xứ người. Sau khi được định cư, tôi cắm đầu học hành và cắm đầu vào công việc làm để sống. Tôi phải luôn cố gắng v́ cuộc đời tha hương của tôi bắt đầu bằng hai bàn tay trắng. Trong những bước đầu vất vả ấy tôi không c̣n th́ giờ và thậm chí không c̣n nước mắt để khóc cho quê hương! Bây giờ, th́ tôi đă có một cuộc sống b́nh thường trên quê hương thứ hai, có gia đ́nh đầm ấm, các con thành đạt, ngoan ngoăn. Và có lúc, những kỷ niệm đẹp tuyệt vời của thời con gái thuở 17, 18 ngây thơ và mơ mộng lại hiện về. Đă nhiều lần tôi đi dự những buổi tổ chức kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6, tôi cũng đă gặp nhiều cựu quân nhân Hải Quân, nhưng có bao giờ tôi gặp lại anh đâu? Ngày xưa, tôi nh́n các anh Hải Quân bằng con mắt lăng mạn qua bộ quân phục trắng tinh, qua những lời ca trữ t́nh “áo dài xanh bên áo trắng hoa biển” hay “trăng đại dương không đủ viết thư đêm…“. Ngày ấy, tôi nghĩ rằng các anh Hải Quân ra khơi là ngắm trăng gió, là nói chuyện với các v́ sao… Đến bây giờ nghĩ lại mới thấy ḿnh đă lăng mạn hóa bộ quân phục trắng của các anh mà quên đi rằng, các anh cũng đóng góp máu xương trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho quê hương. Máu các anh đă thắm vào nước ngọt của sông rạch miền Nam, hoà tan vào biển mặn của vùng duyên hải, của Hoàng Sa, của Trường Sa, của biển cả Nam Hải… ”Tàu đưa ta đi, tàu sẽ đón ta hồi hương….“, tiếng hát của con gái tôi trong nhà bếp vọng ra. Tiếng hát của nó mềm mại suông sẻ theo những nốt nhạc, rất khác với lúc nó nói tiếng Việt ngập ngừng và hơi cứng nghe rất buồn cười, mặc dù tôi cố gắng uốn nắn rất nhiều. Không trách được, v́ nó nói tiếng Mỹ nhiều hơn tiếng Việt, một ngày 8 tiếng đồng hồ trong trường! Mấy năm nay, nó đă đủ lớn để hiểu là tôi muốn nó ǵn giữ tiếng mẹ đẻ nên phần nó cũng rất cố gắng. Nó hay hát nhạc Việt khi có mặt tôi. Câu hát vừa rồi của con gái tôi đă cho tôi một hy vọng tràn đầy. Hy vọng đất nước sẽ có ngày “giải phóng” thật sự, thoát khỏi ách đô hộ của bọn giặc nội xâm, bọn quỷ đỏ vô nhân tính. Để một lần xa bến của tôi sẽ không là “một lần đi là vĩnh viễn con tàu, đi để nhớ những chiều pha tóc trắng…” như hai câu thơ của thầy Tuệ Sỹ mà tôi đă thuộc nằm ḷng để thắm thía nỗi khổ đau mỗi khi nghĩ về quê hương Việt Nam nay đă rách nát v́ môi sinh ô nhiễm, t́nh thương đạo nghĩa đă băng hoại đến nỗi phụ nữ trẻ con bị đưa đi bán phấn buôn hương khắp các nơi trên quả địa cầu! Hăy “về bến” để chấm dứt mối tai họa đang hiện diện, để rồi xây dựng lại quê hương, xây dựng lại tinh thần đạo nghĩa của người Việt Nam mang ḍng máu Tiên Rồng, hỡi những ai c̣n nhận ḿnh là con Hồng, cháu Lạc! Mỹ Lệ Thiem Le Hải Quân QL.VNC |
Quote:
:hafppy: |
1 Attachment(s)
Quote:
|
Quote:
bó...rau muống và cục tỏi á đại ca:hafppy: |
Quote:
|
Bữa nọ rảnh rỗi, Bao Công rủ Công Tôn tiên sinh và Triển Chiêu đến thăm thành phố X. Đây là một thành phố đă hơn ngàn năm tuổi nên có nhiều cái để thăm thú, văn cảnh, t́m hiểu đời sống người dân thành phố này. Tuy nhiên, vốn mắc bệnh nghề nghiệp, nên Bao Công vẫn giành nhiều thời gian t́m hiểu về chuyện xử án nơi đây.
Biết ư Bao Công, Triển Chiêu vội chạy ra phố, đi t́m mua một đống báo về cho ngài xem. Khi cầm đến mấy số báo của một tờ báo nọ, Bao Công bị thu hút ngay bởi loạt bài phải ánh về một xử án vừa mới xong, trong đó, bị đơn là một người phụ nữ đă dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực trong nhiều năm qua. C̣n nguyên đơn lại chính là kẻ bị người phụ nữ kia đưa ra trước ánh sáng công luận về những việc làm khuất tất liên quan đến dự án nọ. Điều đáng nói là trong khi bị đơn đưa ra đầy đủ những chứng cứ chứng minh sự đúng đắn của ḿnh cũng như sự sai trái của nguyên đơn, th́ bà lại bị ṭa xử thua cuộc. Sau khi đọc đi, đọc lại mấy bài báo đó, Bao Công thấy bất b́nh thay cho người phụ nữ dũng cảm đó. Ông cùng hai người tùy tùng quyết định t́m đến nhà vị chủ tọa phiên ṭa đó. Thấy 3 người lạ mặt, chủ nhà tỏ ra cảnh giác: - Các ông đến t́m tôi có việc ǵ? Công Tôn tiên sinh đáp: - Về cái vụ án mà ông vừa xử xong. - Ṭa xử xong rồi là thôi, các ông c̣n đến hỏi làm ǵ? - Nếu toà xử đúng, chúng tôi chẳng đến t́m ông làm ǵ, nhưng v́ thấy ṭa xử sai, nên chúng tôi đến đây, v́ dù sao, chúng tôi với ông cũng là đồng nghiệp. - Đồng nghiệp? - Phải. Đây là Bao Công, vị này là Triển Chiêu, c̣n tôi là Công Tôn tiên sinh. Chủ nhà giật ḿnh, nh́n kỹ vào cái h́nh trăng lưỡi liềm trên gương mặt đen của Bao Công, rồi vội vàng thi lễ: - Dạ, kính chào Bao đại nhân. Các vị đến chơi mà không báo trước, tại hạ lại có mắt như mù, không trông thấy núi Thái Sơn. Mong Bao đại nhân cùng nhị vị đây lượng thứ cho. Bao Công phẩy tay: - Thôi, không cần đa lễ. Ta không có nhiều thời gian, chỉ muốn hỏi ông v́ sao trong vụ án vừa rồi, lại cố t́nh xử sai như thế? Chủ nhà căi: - Sai chỗ nào? Công Tôn tiên sinh liền đem tất cả những t́nh tiết của vụ án ra nói lại một lượt, nào là ṭa sai chỗ nào, nguyên đơn sai chỗ nào, những cơ quan tiếp tay cho nguyên đơn sai ra sao … Bao Công hỏi: - Ông c̣n ǵ để biện bạch không? Chủ nhà cười khẩy: - Tôi chẳng việc ǵ phải biện bạch, án đă tuyên rồi, cứ thế mà thi hành. - Ngay cả khi dư luận người dân và nhiều vị có uy tín, địa vị cao trong xă hội lên tiếng ủng hộ bị đơn, mà các ông vẫn cố t́nh xử sai sao? - Ủng hộ hay không là quyền của họ, c̣n xét xử là quyền của chúng tôi. Tôi xử thế nào th́ phải theo thế ấy, vậy thôi. Triển Chiêu nóng nảy: - Bao đại nhân ở đây mà ông vẫn ăn nói ngang ngược vậy sao? Chủ nhà lại cười nhạt: - Người như Bao đại nhân giờ… xưa rồi. Tôi chỉ biết tới 2 người cũng họ Bao mà thôi. - Ai vậy? - Một người là bạn rất thân với tôi, tên là Bao Thư (phong b́). C̣n người kia là đàn anh của tôi, tên là Bao Che. Có hai người họ Bao ấy, tôi cứ việc xử theo ư ḿnh, chẳng sợ ǵ hết :mad: |
1 Attachment(s)
té ghế
|
Tiếng Lóng Sàig̣n
3 Attachment(s)
Một thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, t́m sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời “tiếng lóng” khác đến thay thế. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rơ định vị địa lư và thời gian.
Tỷ như Sài G̣n vào thập niên 60, thịnh hành một chùm tiếng lóng “sức mấy” để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đă chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố “Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám”. Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài G̣n bị tạm chiếm, Tây - Mỹ nhiễu nhương, quê hương chiến tranh buồn phiền; “sức mấy” đă trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất c̣i ôtô đă chế ra một điệu c̣i ôtô, bấm c̣i là kêu vang trên phố một ḍng nhạc c̣i auto 9 nốt “tính tính tè tè, tè ti tè ti té”, làm cho đường phố càng náo loạn hơn. Trước đó cũng từ bài ca Diễm xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra cụm từ tiếng lóng “xưa rồi Diễm ơi”, mỗi khi có ai lặp lại một đ̣i hỏi nào đó, mà người nghe muốn gạt phăng đi. Thời các vũ trường mới du nhập Sài G̣n như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, th́ dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng “Cai gà”, gọi cảnh sát là "mă tà", v́ police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành “mă tà”. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: “gác-dang” tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dang. Cũng như nói “de cái đít” tức lùi xe arriere; tiền bồi dưỡng người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi “tiền boa”, sau này chế ra là “tiền bo”. Cũng thời Pháp thuộc, Sài G̣n có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi ngân hàng là nhà băng, gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là “con c̣”, c̣n nếu gọi “ông c̣” là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi “thầy c̣” tức là các ông chữa morasse các ṭa báo do chữ correcteur, nhưng nói “c̣ mồi” là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền c̣” th́ cũng giống như “tiền bo”, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới. Thời kinh tế mới phát triển, đi xe auto gọi là đi “xế hộp”, đi xe ngựa gọi là đi “auto hí”, đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là “xe điếc”, đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là “đi cấp”, đi khiêu vũ gọi là “đi bum”, đi tán tỉnh chị em gọi là đi “chim gái”, đi ngắm chị em trên phố gọi là “đi nghễ”, gọi chỉ vàng là “khoẻn", gọi quần là “quởn”, gọi bộ quần áo mới là “đồ día-vía”. Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là “đi x̣e”, đi đánh chắn gọi là “múa quạt”, đi chơi bài mạt chược các ông gọi là “đi thoa”, đi uống bia gọi “đi nhậu”, đi hớt tóc gọi đi “húi cua”. Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 - 1950 du nhập Sài G̣n, đó là “đi đầu dầu”, tức các chàng trai ăn diện “đi nghễ” với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là “hết sẩy”, quê mùa chậm chạp gọi là “âm lịch", hách dịch tự cao gọi là "chảnh". Tiền bạc gọi là "địa", có thời trong giới bụi đời thường kháo câu "khứa lăo đa địa" có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là "xù", "xù t́nh", tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là "bắt địa", ăn cắp là "chôm chỉa", tương tự như "nhám tay" hay "cầm nhầm" những thứ không phải của ḿnh. Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài G̣n gọi là làng "hia măo", có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi "kép chầu", có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng v́ một lư do nào đó không được nhập biên chế gánh hát, đêm đêm họ cũng xách valyse trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, th́ kép chầu thay thế vào ngay. "Kép chầu" phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó. Đào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là "đào thương", kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là "kép độc". Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các ṭa soạn báo chí, đó là "café à la... ghi” tức uống café thiếu ghi sổ... Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài G̣n xưa gọi "nhật tŕnh". Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là "tin kho tiêu”, các loại tin vớ vẩn dăm ḍng từ quê ra tỉnh gọi là "tin chó cán xe", tin quan trọng chạy tít lớn gọi là "tin vơ-đét" vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là “luộc bài", chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là "xào bài", truyện t́nh cảm dấm dớ gọi là "tiểu thuyết 3 xu", các tạp chí b́nh dân xoi mói đời tư gọi là "báo lá cải". Làng nhật tŕnh kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là "tin phịa", nhưng trong "tin phịa" c̣n có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm ḍ có chủ đích, lóng gọi là "tin ballons" tức thả quả bóng thăm ḍ, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là "tin Cá tháng Tư". Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Đó là "tịch", "hai năm mươi", "mặc chemise gỗ", "đi auto bươn", "về chầu diêm chúa", "đi buôn trái cây" hay "vào nhị tỳ”, "nhị tỳ" thay cho nghĩa địa và "số dách" thay cho số một... đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư. Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài G̣n đă chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài ḍng gọi là "ṿng vo Tam Quốc", ai nói chuyện phi hiện thực gọi là "chuyện Tề Thiên", tính nóng nảy gọi là "Trương Phi". Một số tên nhân vật điển h́nh của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là "Nhạc Bất Quần" tức ám chỉ người ngụy quân tử, gọi là "Đoàn Chỉnh Thuần" tức ám chỉ đàn ông đa t́nh có nhiều vợ bé.. sài G̣n là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng "ăn theo" mà ra đời. Thời Mỹ đến th́ một tiếng "OK Salem", mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là "sén" hay "chó lửa", dân chơi miệt vườn gọi "công tử Bạc Liêu" c̣n hiểu được, Sài G̣n xuất hiện cụm từ "dân chơi cầu ba cẳng" th́ thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi "dân chơi cầu ba cẳng"? Đó cũng là lúc các tiếng lóng như "dân xà bát", "anh chị bự", "main jouer" tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là "anh hùng xa lộ", bị bắt gọi là "tó", vào tù gọi là "xộ khám”. Bỏ học gọi là "cúp cua", bỏ sở làm đi chơi gọi là "thợ lặn", thi hỏng gọi là "bảng gót". Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại t́nh trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó "đi ăn chè" trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại t́nh trốn ra ngoại ô. Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như "chà đồ nhôm" tức "chôm đồ nhà”, "chai hia" tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với "cưa đôi”. Lóng thời sự loại này có "tô ba lây đi xô xích le" tức "Tây ba lô đi xe xích lô". Trong tiếng lóng c̣n chất chứa ân t́nh. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than "buồn như chấu cắn", hay có người than phiền v́ câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng "lu bu" để thất hứa, nay c̣n có người nhấn thêm "lu xu bu" nại lư do không rơ ràng để trốn việc. Để tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành "quả tó", gọi chiếc xe Honda là "con rim", gọi tờ giấy 100USD là "vé", đi ăn cơm b́nh dân gọi là "cơm bụi", xuống phố dạo chơi gọi là "đi bát phố", gọi người lẩm cẩm là "dở hơi"... Nhưng lư thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân mà Sài G̣n nay có một tiếng lóng hiện đại thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng theo American style - tiền ai nấy trả. Đó là cụm lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của "không - ai - mời - ai". Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai, món ăn cổ truyền nhưng ứng xử là thoải mái. Vào thời văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh trở thành phổ biến, giới trẻ đă chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một ai đó chảnh, các cô nói "lemon question" tức chanh hỏi - chảnh. Lê Văn Sâm |
“Người Việt” Giết Tiếng Việt!
1 Attachment(s)
Một bài viết ít có báo dám đăng Một bài viết bị cho là chữi nhăn răng! Bài nầy độc hơn thuốc Bà Lang Trọc Xướng ngôn viên các đài... Mần Răng? letamanh Chỉ có lad dám đăng vào các Tập San: Trách Nhiệm, Lại Giang, Tây Sơn, Tập San BĐQ thôi hà! Captovan Người Việt viết tiếng Việt là chuyện dĩ nhiên, chỉ có VC mới giết tiếng Việt, vì chúng nghĩ rằng nước Việt sẽ bị “háng hóa” nên cái anh chàng họ Bùi kia sáng chế ra kiểu viết tiếng Việt cc (cải cách) như thêm chữ “ô” vào cái họ Bùi của hắn thành Buồi thì bậy bạ thật. Vậy mà Người Việt ở hải ngoại lại đang có khuynh hướng thích “háng hóa” như thẳng cha V+ họ Buồi kia thì quả tình là không thể ngửi được. Tôi rất “khoái” được đọc các bài viết phê b́nh về ngôn ngữ “thổ tả” của V+ do người Việt yêu tiếng Việt đưa lên diễn đàn. Điển h́nh là ngày 9/12/2013, bạn Trần Quang đưa lên bài: “Chữ Nghĩa Sau 1975.” Rồi sau đó, bạn Vĩnh Can Canada đưa lên bài viết: “Nỗi Buồn Tiếng Việt.” Nội dung những bài viết này nêu lên những điều sai trong cách dùng tiếng Việt của bọn “đỉnh cáo trí tệ” “Xuống Hố Cả Nút” khiến người dân xuống hố cả nút theo. Hẳn nhiên các bạn Quang và Can đưa lên diễn đàn là có ư nhắc người Việt hải ngoại, đặc biệt tập thể cựu quân nhân phải tránh xa những con virus này, những con virus VC: “thân thương, tham quan, tiếp cận, khống chế, đánh giá cao v.v..” Tôi xin theo chân các bạn Can, Quang để nêu lên một vài trường hợp tôi đă thấy, để chúng ta mỗi người một tay chặn đứng mọi chữ VC “len lỏi” vào trong các tài liệu sách báo, các đặc san quân đội. Chắc chắn trong chúng ta không ai muốn thấy “tai nạn” này xảy ra, nhưng nó đă xẩy ra. Tôi gọi là “tai nạn” v́ người viết vô t́nh, dễ tính, hoặc không biết, v́ thế tôi xin góp ư để lạng lách cây viết cẩn thận hơn, không xảy ra “tai nạn” nữa. Nếu xẩy ở trong các emails riêng tư qua lại trên diễn đàn th́ cũng mau chóng qua đi, nhưng nếu có chữ VC trong các bài viết, trong sách báo, lại có cả trong những cuốn sách gọi là “dòng lịch sử” th́ làm sao tẩy xóa? Tôi đă thấy bóng dáng chúng trong các đặc san quân đội, tôi tha thiết xin các vị có trách nhiệm lưu ư cho. Đây là một việc không dễ, một vài tên du kích “ấn tượng, thân thương” núp trong nhiều trăm trang giấy, trong rừng chữ th́ làm sao phát giác? Các chủ bút BĐQ, TQLC Đa Hiệu, KBC “ra lệnh” mỗi anh trong BBT phải đọc qua ít nhất một lần khi có bài gửi đến và nhiệm vụ chính là “vạch lá t́m sâu” VC, vậy mà cũng c̣n sót đấy, thế th́ với tập tài liệu ngàn trang, hẳn là ban biên soạn sẽ vất vả lắm đấy, tôi không biết có bao nhiêu anh làm công việc này, nhưng chắc có anh phải ngồi tâm t́nh 12/24 giờ, ngồi thâu đêm với cô “thợ giặt mặt vuông” để nhặt cho hết rác VC thì mới có thể lộng ngôn gọi là tuyệt phẩm được, còn không.. thì không thể là “tuyệt” mà chỉ là “tiệt” phẩm. Giả sử sau này khi sách in ra mà c̣n gặp chữ “thân thương” th́ buồn quá! * * * Người Việt chọn tự do, tự do tư hữu, là ruộng của ai người đó cày, nên người Việt viết tiếng Việt. Việt+ chọn +Sản, nghĩa là cộng tất cả tài sản cá nhân lại để chơi chung hưởng chung, tất cả cày chung một miếng ruộng, sản phẩm tạo ra đem gửi nhà trẻ quốc doanh. Cái chế độ ảo tưởng +S đó nó đă “chết-mother” nó từ lâu rồi, chết ngay từ cái gốc, chết từ nơi ông tổ khơi mào ra nó, nó cũng “chết-father” nó ở cái XHCNVN từ lâu rồi, chỉ c̣n sót lại cái đuôi “định hướng XHCN”. Nhưng ngôn ngữ quái đản mà chúng tạo ra vẫn c̣n di hại măi về sau, nó như những mầm ung thư giết chết tiếng Việt. Nhưng có một số người Việt tỵ nạn cộng sản hay bỏ chạy V+ để tha phương cầu thực th́ không chịu viết tiếng Việt, thấy V+ đít đỏ tưởng nó chín nên vẫn cứ nói theo, viết theo những thứ tiếng khỉ gió đó: “Người Việt” Giết Tiếng Việt là vậy. Nếu là chuyện cá nhân, theo voi nhai bă mía th́ kệ .. họ, nhưng là truyền thông Tự Do mà theo đuôi ngôn ngữ V+ th́ ẹ quá, mang vi trùng lao gieo rắc đó đây những mần mống bệnh hoạn giết chết tiếng Việt th́ “thu em hỏi” (thủm) quá. Có người nói rằng vấn nạn này nó như bệnh nan y rồi, hết thuốc chữa, cứ mở radio ra mà nghe một số xứơng ngôn viên các đài phát thanh, ông xướng, bà xướng, cô xướng, cậu xướng họ đang xướng với nhau bằng những chữ quái đản như “quá tŕnh, tham quan, hoành tráng, rốt ráo, khuyến măi, khống chế, cực kỳ, thiếu đói v.v..”. Ông Vũ Ki của đài SG-Bé mà cà-kê-dê-ngỗng tin tức trên radio th́ có bao nhiêu chữ “mới” ông dùng hết. Ông Nguyễn Có Công th́ đọc tin tức: “Nếu Syria bị đánh, họ sẽ chống trả quyết liệt, trong quá tŕnh chống trả ấy sẽ khiến Hoa Kỳ không giải quyết được rốt ráo vấn đề.” Muốn hiểu rơ “quá tŕnh” là ǵ th́ hăy đến trung tâm văn hóa Hồng Bàng mà hỏi, đừng hỏi thầy cô giáo dậy tiếng Việt, mà hỏi ngay các em đang bập bẹ học tiếng Việt th́ các em sẽ giải thích rơ ràng như thế này: - Quá: là qua rồi, cũ rồi. Thí thụ như quá cố, quá vãng, quá khứ v.v.. - Trình: là đường đi, hành trình, đăng trình. Quá trình là diễn ra trong quá khứ, xin nghe bé tâm sự: - Sáng nay em ăn đỗ (đậu), trong quá tŕnh tiêu hóa thức ăn ở dạ dày, đậu phát sinh ra hơi nên bây giờ bé tức bụng, em muốn đánh rắm, muốn pupu.... Quá tŕnh là chuyện đă xẩy ra trong quá khứ, tức là sáng nay, c̣n bây giờ là hiện tại em đang muốn “pupu.” Các em đă giải thích rồi đấy nhé, các ông, bà, cô, bác, cậu, mợ, chú, d́, mi, mày, bay phải hiểu cho rằng “quá tŕnh” chỉ dùng cho những diễn tiến đă xảy ra trong quá khứ mà thôi không bao giờ được phép dùng cho hiện tại và tương lai. V+ dùng “quá tŕnh” cho bất cứ thời gian nào, nó dốt nó “say so”, vậy th́ đừng dốt theo nó. Nếu không biết th́ đừng “quá tŕnh” nữa mà hăy dùng những chữ dễ hiểu, thông dụng, dễ dùng cho bất cứ thời gian nào, đó là: “trong lúc, trong khi, trong thời gian, lúc mà, tiến tŕnh v.v...” Xin đưa ra một thí dụ bà nhà than phiền ông nhà cho dễ hiểu, dễ nhớ: - Đêm qua trong lúc (quá trình) em đang ngủ say th́ anh đụng chạm vào.. làm cho em thức giấc, bực cả cái ḿnh. Bây giờ trong khi (quá trình) em thức th́ anh lại nằm ỳ ra đó làm em khó chịu. Lần sau, lúc mà (quá trình) em đang ngủ th́ anh đừng có làm phiền người bên cạnh đang cần sự yên lặng để nghỉ ngơi nữa à nha.. Các cô cậu xướng ngôn thử nhét cái “quá tŕnh” vào câu trên xem nó ra cái ǵ? Những xướng ngôn viên khi đọc bản tin th́ đă xen vào những tiếng lạ tai, khó nghe, khi đọc quảng cáo th́ cứ tự nhiên như người “Hà-Lội”, như ngừơi của thành Hồ, cứ “hoành tráng, khuyến măi” loạn cào cào cả lên. Lăo bà-bà Huỳnh Qương quảng cáo rằng: - Tết Trung Thu đă được tổ chức trong khu Phước Lộc Thọ rất là HOÀNH TRÁNG, các loại bánh trông rất ẤN TƯỢNG và có chương tŕnh KHUYẾN MĂI”!!! Tôi hưởng tết Trung Thu từ ngày mặc quần đùi, tḥ ḷ mũi, rước đèn bằng lon sữa ḅ cho đến nay đă quá 7 bó mà chưa bao giờ nghe cái tên “Trung Thu Hoành Tráng”! Thế c̣n “khuyến măi” là ǵ nhỉ? Nghe “khuyến măi” mà tưởng chữ thu ngắn của “khuyến khích măi dâm.” Thà nói tiếng Mỹ là đít-cao, tiếng Việt là bớt giá, hạ giá có phải dễ nghe không nào? Huỳnh Qương là một ca sĩ thanh sắc vẹn toàn, khó có ai b́ kịp, trong vai tṛ xướng ngôn viên, cô là ngừơi học cao hiểu rộng, nhưng chỉ v́ vô ư tiếp xúc với virus Vicoism hoành tráng, khuyến măi mà cô bị biến tướng thành lăo bà-bà, thật đáng tiếc. Nhưng cái này mới khiếp đảm: Ngày 25/7/2018, trên Truyền hình băng tần 57...hai nữ xướng ngôn viên thật xinh đẹp, mặt hoa da phấn, ăn và “lói nưu noát”, mượn lưỡi VC từ lúc nào hay các cô mới trốn... làm từ XHCN chạy sang Hoa Kỳ cầu thực, vẫn giữ nghề cũ xướng ngôn, mỗi khi chấm dứt một chương trình nào đó, thay vì nói một cách dễ hiểu lịch sự, sạch sẽ là: “Chương trình của chúng tôi đến đây là chấm dứt, là hết v.v.. thì các cô lại toét miệng cười: “Chúng tôi xin KHÉP lại...” Ờ thì cứ cho là phụ nữ XHCN dạng ra khép lại là chuyện thường ngày ở huyện, nhưng còn các xướng ngôn viên nữ ở hải ngoại, vửa đẹp vừa xinh, vùa có học thức thì xin ngồi khép lại hay bắt chéo chân lên nhau, đừng dạng ra để rồi phải khép lại làm gì cho khán thính giả nhớ đến vế đối vịnh cái quạt của cụ bà Hồ Xuân Hương: “Chành ra ba góc da còn thiếu. Khép lại hai bên thịt vẫn thừa” (*). Dầu sao th́ trên các làn sóng phát thanh, những chữ nghĩa mà các cô cậu chôm chĩa của VC th́ nó cũng bay đi, tuy nó làm chói tai, tức bụng, nhưng cái tai hại là các cô cậu nhà báo viết trên giấy trắng mực đen ngôn ngữ VC cho đồng hương tỵ nạn cộng sản đọc th́ thật là “bây nặng”. Tôi đem vấn nạn này đi hỏi ngtười lính viết văn PNN rằng tại làm sao lại xẩy ra hiện tượng quái đản này th́ ông bảo: - Một số người sống lâu trong XHCN đă quen với lối nói này rồi, nay ra hải ngoại vẫn chưa thay đổi được. Một số báo cứ “copy và paste” những bản tin trong nứơc làm của ḿnh mà không dám ghi xuất xứ, mà cũng không có người sửa. Lời giải thích của ông đúng quá và cũng đau quá, ư ông muốn nói lấy của người khác làm của ḿnh là ăn trộm, lấy bài viết của người khác mà không ghi xuất xứ là đạo văn, lấy tác phẩm nghệ thuật của người khác đem vào sách của mình mà không ghi chú xuất xứ là “đạo hình”. Làm báo mà chỉ “cắt, dán”, “cọp dê, bát” th́ chán quá mấy anh chị ơi! Tiếng Việt là của chung, sống ở hải ngoại tự do mà bôi bẩn lên tiếng Việt th́ không chấp nhận được, Tự Do và XHCN có ranh giới rơ ràng. Ở XHCN họ nói, viết rằng những cái xe đụng nhau “liên hoàn” trên xa lộ th́ kệ họ, nhưng ở xứ tỵ nạn mà các anh chị viết xe dụng nhau “liên hoàn” trên xa lộ th́ không ai ngửi được. Báo trong nước vừa loan tin trên xa lộ Sài G̣n Biên Ḥa xẩy ra một tai nạn 10 xe đụng nhau “liên hoàn” th́ vài ngày sau, Người Diệt tháng 8/2013 cũng đăng tin trên xa lộ 405 vửa xẩy ra một tai nạn giao thông 20 xe đụng nhau “liên hoàn”! Ối trời cao đất dầy ơi! Nó dốt nó không biết phân biệt thế nào là liên tiếp, thế nào là liên hoàn nên nó mới viết xe đụng nhau liên hoàn, tức là cái xe bị đụng đầu tiên (số 1) quay ṿng ngược trở lại để húc, đụng đầu vào đít xe cuối cùng. Chuyện này chỉ có thể xẩy ra ở một ṿng tṛn, c̣n trên đường thẳng th́ chỉ có ở XHCN. Những chuyện tưởng như đùa mà có thật. Trong bản tin về trung tâm Vân Sơn, ông-bà Đức Tuấn ghi lại lời của Vân Sơn: - Bên cạnh phần mang lại tiếng cừơi cho khán giả, tuy chương tŕnh có vẻ nặng về MẢNG hài, chúng tôi vẫn không lơ là về MẢNG sáng tạo nội dung sống động cho phần ca hát. Đó là mặt mạnh của chúng tôi, bởi v́ đội ngũ nghệ sĩ tham gia MẢNG hài của TTVS được xem là phong phú. Chả hiểu có phải chính Vân Sơn dùng chữ “mảng hài” để nói về chương tŕnh hài hước của anh ta hay kư giả-giả của báo Người Diệt này mang cái “mảng hài” ra nhét vào miệng Vân Sơn, dù bất cứ anh nào đi nữa mà nói như vậy th́ đúng là hề thật. Tự điển tiếng Việt do Khai Trí xuất bản trước 1975 định nghĩa “mảng” là “mảnh”, mảng vườn, mảnh vườn, mảnh đất, mảng da, mảng áo tơi, “áo tơi một mảng lặng ngồi thả câu” chứ đâu có ai gọi là mảng văn nghệ, mảng hài bao giờ! Thấy VC gọi “mảng văn hóa” là các anh nhái theo “mảng hài”! Hề quá. Cũng vẫn là “Người Việt”, cô Lọc Ngan th́ gọi những người phụ trách trang trí sân khấu là những ông “đạo cụ”! Ơ hay nhỉ, tại sao lại có mấy ông cụ “cụ đạo” ṃ vào hậu trường sân khấu TN Paris làm ǵ trong khi các nữ ca sĩ thay đồ để bị cô Lọc Ngan mắng cho là đồ “đạo cụ”, không lẽ các cụ vừa ấy... lại vừa cạo? Cũng trên báo Người Việt, một ông là gốc Bắc Kỳ di cư 54 như tôi, chứ không phải BK mang AK vào Nam nhận họ nhận “hàng” sau 30/475, nhưng ông lại thích quên chữ Việt của ông để vuốt đuôi ngôn ngữ V+ trong bài viết cảm tưởng của ông về một ngừơi vừa mới ra đi là cựu Trung Tá TQLC Can Trường. Tôi đọc được điếu văn của ông trên Người Việt như thế này: - Anh (người quá cố) là một thành viên hoạt động NĂNG NỔ, chắc chắn anh sẽ gặp lại những người THÂN THƯƠNG. Thưa ông nhiều chữ họ Đoàn Thanh L.., trong tự điển tiếng Việt xuất bản trước năm 1975 tại miền Nam có 14 chữ NĂNG..., nhưng không có chữ nào là “năng nổ” cả, có 70 chữ THÂN..., nhưng không có “thân thương”. Bản tính người quá cố Đoàn Trọng Cảo là hăng say, hoạt bát, nhiệt t́nh, nhanh nhẹn, quyền biến, linh hoạt, có t́nh thần trách nhiệm v.v.., bao nhiêu đức tính sẵn có của nguời lính VNCH, của Can Trường Trường Can th́ ông L.. không dùng lại đi mượn cái chữ của V+ nghèo nàn mà gán vào áo quan cho người quá cố th́ phản bạn quá! Đội tuyển túc cầu XHCN đấu đâu thua đó, thua bét-ti-ngă, thua cả Lào, Cao Miên, khi về nước, câu đầu tiên mà thủ trưởng khen là: “tôi đánh giá rất cao các anh...”, sau khi đánh giá cao xong là mới chửi. Thế mà “Người Việt” lại viết “đánh giá cao” việc cộng đồng Việt hải ngoại đi bộ gây quỹ cho nạn nhân băo “Hải Yến” thì nhảm nhí quá đi thôi. Mấy cái chữ thổ tả “đánh giá cao” không bao giờ có trong tiếng nói hay sách báo VNCH, nó được V+ sáng chế ra để khen chiếu lệ sau đó mới kê khai khuyết điểm để chửi, việc đi bộ gây quỹ có kết quả tốt đẹp, một nghĩa cử vậy mà Người Việt “đánh giá cao” th́ NV tào lao thật. “Chỉn Chu” là con “bú dù” gì? Ông Lưu Vội Vã, một phụ mẫu chi dân thời VNCH viết bài than phiền về vụ giờ dây thun trong các tiệc cưới trên tờ xxx như sau: Thiệp mời ghi bắt đầu lúc 6 giờ, tôi ăn mặc “chỉn chu” đến nhà hàng đúng 6 giờ thì chưa thấy ai...!” Bớ ông Niu! Trong nước họ “chỉn chu” là quyền của họ còn ông, ngày xưa mỗi lần đi họp ông ăn mặc “chỉnh tề”, vậy ông phải nhớ viết là “chỉnh tề” chứ cớ chi nói leo theo VC “chỉn chu” là con “bú-dù” gì? Còn ông Trần Vớ Vẩn, một chuyên viên địa ốc kiêm địa.. thì than phiền giá nhà Nam CA quá cao vì “quỹ đất” để xây nhà mới không còn! Xin ông trả “quỹ đất, mặt bằng” về cho người dân XHCN, đừng lẻo mép liếm môi họ rồi nói theo. Người sính chữ nghĩa V+, dùng chữ V+ th́ bào chữa là không phải của V+, mà có trong tự điển tiếng Việt từ lâu. Tôi đồng ư với lập luận lập lờ này, đành rằng có một số chữ như “tiếp cận, đăng kư, ấn tượng, khẩn trương” v.v... có trong tự điển, nhưng chúng ta dùng đúng lúc đúng chỗ, thí dụ như “t́nh trạng khẩn trương, những đường tiếp cận, có ấn tượng tốt” v.v.. chứ không dùng lộn tùng phèo làm nghèo tiếng Việt như họ hiện nay. Tháng 5/75, đoàn xe motôlova chở tù từ trường Taberd xuống Long Giao, dọc đường anh em ta mót... quá kêu thầm tên ba-ác khiến tên cai tù nghe được bèn cho dừng xe thả tù xuống: - Các anh đái “khẩn trương” lên! Nghe V+ nói: “đái khẩn trương” nhiều anh em cười té đái, khỏi cần “khần trương.” Cái gốc của nó nghèo nàn th́ kệ họ, cả một đất nước đẹp giầu chúng c̣n muốn dâng cúng cho Tàu Cộng th́ xá chi một vài chữ nghĩa! Tiếng Việt c̣n th́ nứơc Việt c̣n, nay chúng dâng biên giới, biển đảo cho “tàu lạ” th́ việc chúng giết tiếng Việt cũng không lạ, cái lạ là Ngừơi Việt viết tiếng Việt bỗng chốc trở thành Người Việt giết tiếng Việt th́ tai hại quá, muốn theo voi V+ để hít bă míaTàu Cộng hay sao? Lại có bạn than rằng nạn chôm chĩa chữ nghĩa V+ là hết thuốc chữa rồi, nó làn tràn khắp nơi do nghị qu.. 36, có nói cũng như nứơc đổ lá môn, nước đổ đầu vịt v.v... Tự ḿnh yếu đuối nên cái ǵ cũng đổ thửa cho cái “nghị quyết 36 kiểu”, nứơc đổ lá môn, nhưng các lăo bà xướng ngôn, nhà báo, văn sĩ đâu phải lá môn, c̣n các ông th́ đâu phải là đầu vịt, chỉ v́ tí $ quảng cáo, viết văn dễ tính mà nỡ giết chết tiếng Việt. Cái cần làm ngay để giữ cho tiếng Việt được trong sáng, tiếng Việt c̣n th́ nước Việt c̣n là tất cả những báo chí, tập san, đặc san, “lỏng san” có gốc lính phải tuyệt đối làm gưong trước không để sót bất cứ một tên du kích “bức xúc” nào chui vào, không những diệt tận gốc mà c̣n có bổn phận phổ biến rộng răi, quảng bá nhiều lần những biện pháp ngăn ngừa và tiêu diệt chữ nghĩa V+. Những ngừơi từng cầm súng diệt cộng, nay cầm viết th́ vẫn có nhiệm vụ diệt chữ nghĩa V+, chứ đừng lười biếng, cẩu thả viết chữ VC là giết chữ Việt Nam Cộng Ḥa. Những ai “có chức” khi đứng trước đám đông muốn nói ǵ th́ nói nhưng phải uốn lữơi 7 lần để khạc ra những cục đàm “ấn tượng, thân thương, tham quan” v.v.., muốn viết văn thư, thông cáo, thông báo th́ phải lách cho kỹ, cho sạch ngôn ngữ VC kẻo bị người đời cười chê, bị mang tiếng là ngừơi “có chứt”. Những ai chữ nghĩa bề bề th́ không thể buông thả, khi viết th́ phải lách, phải loại bỏ những ngôn ngữ VC đi. Sau nữa là ước mong ngừơi dân tỵ nạn cộng sản đă bỏ chạy cộng sản th́ tiếp tục “bỏ chạy” ngôn ngữ VC đi, truyền thông, báo chí tỵ nạn cộng sản nêu cao tấm gương bảo vệ tiếng Việt cho được trong sáng, ứơc mong không v́ vài đổng bạc cắc mà bán rẻ chữ nghĩa tiếng Việt để mua về, ôm vào báo chí của ḿnh những cái nghèo nàn dốt nát của VC. Người Việt hăy viết tiếng Việt, Người Việt đừng giết tiếng Việt. Captovan (*) Vịnh cái quạt của bà Hồ Xuân Hương. Sau khi bài viết này được phổ biến thì người viết nhận được bài thơ của đọc giả Phong Châu có cùng lập trường “Xin đừng giết tiếng Việt.” Xin cám ơn Cô, Bà (Cậu, Chú, Bác) Phong Châu và gửi đến quý vị một bài thơ rất là “hoành tráng” (chứ không chia sẻ, chia xẻ gì cả): Sao đành quên tiếng Việt Cộng Ḥa, Ngôn ngữ Vàng của tổ tiên ta, Nói năng viết lách tanh mùi cộng, Tội này nhất định tớ chẳng tha. Chữ nghĩa thế này phải tránh xa, Tham quan, tiếp cận với lũ tà, Hoành tráng, quá tŕnh nghe rốt ráo, Ấy là chữ nghĩa của loài ma. Khuyến măi: hoan hô nghề măi dâm, Khẩn trương vơ vét của dân lành, Nói năng khoác lác thành năng nổ, Khống chế dân lành đang đấu tranh. Chị em ta được đánh giá cao, Mấy mảng khai xuân bác ra vào, (*) Vui xong bác bảo: hăy khép lại, Liên hoàn ngu tận tới đỉnh cao. *** Lắm kẻ quên tiếng Việt Cộng Ḥa, Ngôn ngữ ngàn xưa tổ tiên ta, Nói năng viết lách tanh mùi cộng, Tội này nhất định tớ chẳng tha. Chữ nghĩa thế này phải tránh xa, Tham quan, tiếp cận với lũ tà, Hoành tráng, quá tŕnh nghe rốt ráo, Ấy là chữ nghĩa của loài ma. Khuyến măi: hoan hô nghề măi dâm, Khẩn trương vơ vét của dân lành, Nói năng khoác lác thành năng nổ, Khống chế dân lành đang đấu tranh. Chị em ta được đánh giá cao, Một mảng thịt thiu cứ ra vào, Bác hồ bảo: khép khi xong cuộc, Liên hoàn ngu tận tới đỉnh cao. Phong Châu Ghi chú: khai: nguyễn thị minh khai xuân: nông thị xuân |
Chuyện thương tâm ..Cành Mai Nhị Độ
“Em và các con thương mến,
Được thư này em t́m mọi cách ra thăm nuôi anh. Khi đi nhớ mang cho anh các thứ cần thiết sau đây : - Bánh tét : 30 đ̣n, - Bánh ếch phơi khô : 100 cái, - Bánh tổ : 10 bánh, ... - Thịt chà bông : 3 kư, - Gạo sấy : 20 bịch, - Thuốc lào 3 số 8 : 10 bánh, - Kẹo chuối : 3 gô, - Đường thẻ : 5 kư, - Muối mè : 2 gô, - Sả khô trộn muối, ớt, bột ngọt : 1 bịch lớn, - Tôm khô : 5 kư, - Thịt gà ram mặn : 2 con, - Cà phê : 1 kư, - Lạp xưởng : 5 kư, - Sữa hộp : 20 hộp, - Thuốc lá : 1 cây (mười gói), - Sữa bột : 5 kư. Anh luôn cố gắng học tập, lao động tốt để sớm được Đảng và Nhà Nước khoan hồng xét tha để về sum họp với em và các con.” Các tù binh xôn xao. Người chắt lưỡi, kẻ hít hà, khi nghe bức thư với những liệt kê dài thọng và nặng kư vừa được đọc. Người ngồi bên phải tôi nói : - “Cầu cả trăm kư.” Người ngồi bên trái tôi lắc đầu, nói nhỏ : - “Vợ tôi chắc chắn chẳng làm cách nào có đủ sức mà mua ngần ấy thứ. Nội chạy gạo nuôi mấy đứa nhỏ đă đủ sặc máu.” Tôi nh́n người vừa nói với cái nh́n đồng cảm. Tên cán bộ công an phụ trách công tác giáo dục của phân trại nheo nheo mắt đọc tiếp bốn bức thư tương tự nhưng “nhẹ kư” hơn bức thư vừa đọc.Y ngúc ngúc cái đầu làm cái nón cối màu vàng lệch qua một bên, y đưa tay sửa lại chiếc nón cối, nói : - “Các anh nào có những bức thư tôi vừa đọc hăy viết lại thư khác. Xin ǵ mà xin dữ thế. Các chị phải bán cả nhà để đi thăm các anh ấy à. Đảng và Nhà Nước ta có bỏ đói các anh đâu. Đă bảo các anh nhiều lần là “Thăm viếng” chứ không phải “Thăm nuôi”. Việc nuôi các anh đă có Đảng và Nhà Nước lo.” Các tù binh im lặng nh́n nhau. Tất cả đều há miệng đáp “rơ” khi tên cán bộ giáo dục hỏi : - “Các anh có rơ không ?” Sau đó, đám tù binh đứng lên, sắp hàng để ra hiện trường lao động. *** Lật bật rồi cũng có những người vợ ở miền Nam đường xa lặn lội mang quà cáp ra miền Bắc thăm chồng. Hiểu rơ hoàn cảnh của gia đ́nh ḿnh nên tôi rất ít hy vọng vợ tôi sẽ ra thăm tôi. Thế nên tôi rất đỗi ngạc nhiên, mừng rỡ khi được gọi tên. Quà cáp vợ tôi mang theo không được như những yêu cầu của những bức thư bị bắt phải viết lại nhưng cũng đă quá đủ với tôi, người tù cải tạo đă mười năm. V́ là một cá nhân tiên tiến trong đội nên tôi được ở lại qua đêm ở nhà tiếp tân với vợ tôi. Chúng tôi đă hàn huyên tâm sự. Vợ tôi kể về chuyện học hành của các đứa con bây giờ đă lớn. Khi được tôi hỏi làm cách nào vợ tôi có đủ tiền nuôi con từ bấy đến nay, và có thể mua quà cáp để từ miền Nam ra miền Bắc thăm tôi, th́ vợ tôi cho biết là cũng bắt chước các chị em khác buôn bán làm ăn. H́nh như có điều ǵ đó nàng không muốn nói với tôi. Lúc tôi tỏ ư muốn ân ái với nàng th́ nàng từ chối với lư do v́ sợ phải chửa đẻ. Tôi nuốt nỗi ham muốn khi thấy lư do của vợ tôi nêu ra là chính xác. - “Bây giờ mà em bầu b́ chửa đẻ là có nước chết.” Khi mang những quà cáp vào trại với dồn nén sinh lư không được thỏa măn, tôi rất đỗi ngạc nhiên v́ những thứ đắt giá, cần thiết mà vợ tôi đă mang ra cho tôi trong chuyến thăm nuôi. Tôi không h́nh dung được công việc làm ăn buôn bán của nàng ra sao. Hồi tôi chưa bị tù tội, vợ tôi chỉ là người đàn bà nội trợ đảm đang. Gia đ́nh chúng tôi sống nhờ vào đồng lương Sĩ quan cấp Tá của tôi chỉ vừa đủ chi tiêu rất dè sẻn. Tôi im lặng nghe những người bạn đồng tù kể lể chuyện thăm nuôi. Anh Ân, ở chung đội nhà bếp với tôi, cười tủm tỉm, nói : - “Bà vợ của tôi bả hay thiệt. Anh biết bây giờ bả cũng biết mánh mung này nọ. Buông cái này, bắt cái kia. Hết đi buôn gạo tới buôn thuốc tây, hết đi thịt heo tới đi bột ngọt.” Anh nhỏ giọng nói với tôi : - “Anh biết, hồi tôi đi tù, bả ôm đứa con mới sanh mấy tháng.. Tôi đi mà rầu thúi ruột. Nhỏ con gái giờ đă mười tuổi rồi. Tôi tá hoả lúc bả đưa cái “Bao cao su ngừa thai” cho tôi lúc tôi ngỏ ư muốn ăn nằm với bả. Anh biết, bả mà biết xử dụng ba cái vụ này với ḿnh th́ ở nhà đâu có ǵ cấm bả đưa cho người khác xử dụng. Chắc bả cũng biết tôi nghĩ ǵ nên bả nói : Anh đừng có nghi tầm bậy, tầm bạ. Ba cái này bây giờ được mấy ổng phổ biến khắp nơi. Tháng nào hội phụ nữ ở trên Phường cũng thông báo chị em phụ nữ tới lănh. Thu xếp để đi thăm nuôi anh, đọc trong thư anh viết anh là cá nhân tiên tiến trong đội, vợ chồng được phép thăm nuôi 48 tiếng nên em mới nghĩ tới mang theo mấy cái này.” Lúc tuột quần ra, vợ tôi bả c̣n rắn mắc : -“Anh đừng có ghen tuông kỳ cục. C̣n y nguyên đây nè. Anh khám coi nó có ṃn miếng nào hôn ?” Anh ta lắc đầu : - “Anh biết, tôi chịu thua bà vợ luôn. Bả bắt tôi xài hết sáu bao cao su bả mang theo trong hai đêm, mệt muốn bứt gân luôn.” Tôi ngạc nhiên nh́n người bạn hiền lành, ít nói và chợt nhận ra khi một người được hạnh phúc, người đó muốn chia xẻ với người khác. *** Một hôm ở nhà bếp tôi gặp Long, lao động tự giác của đội 6, chuyên phụ trách hái trà của phân trại, cũng vừa được vợ thăm nuôi. Các tù nhân tự giác thuộc các đội buổi trưa đều được vào trại để lấy phần ăn. Trong số các tù nhân tự giác, Long là người rất dễ thương. Thỉnh thoảng anh ta vẫn dúi cho tôi gói trà “móc câu” nước trà xanh, uống vào đăng đắng lúc đầu nhưng hậu vị rất ngọt. Ở trại cải tạo, sáng sớm hút điếu thuốc lào ba số 8, chiêu một ngụm nước trà móc câu là một hạnh phúc tuyệt vời. Lâu lâu anh ta lại dúi cho tôi một gói, nói theo bọn tù h́nh sự là mới “thửa” được. Gặp tôi hôm đó, anh ta có vẻ buồn. Tôi hỏi : - “Sao được vợ ra thăm nuôi mà không được vui ?” Tôi thấy mặt anh ta sịu xuống, giọng nói chán nản : - “Bể hết rồi, ông anh. Tan nát hết rồi, ông anh !” Tôi lấy phần cơm sắn của ḿnh và thức ăn được thăm nuôi ra mời Long cùng ăn chung với tôi ở căn pḥng thay quần áo của đội nhà bếp. Tôi im lặng nghe Long kể chuyện. - “Anh biết, cả nửa năm rồi, má tôi có viết thư báo cho tôi biết là vợ tôi nó đă giao con cho má tôi đi lấy… Cán bộ rồi. Tôi cố không tin. Nhưng mà thơ của má tôi viết sờ sờ ra đó. Được phép viết thơ cho gia đ́nh ra thăm nuôi tôi cũng cứ viết đại. Người tôi chờ đợi ra thăm là má tôi. Ai mà dè lại là con vợ tôi.” Ngưng lại để nuốt mẩu sắn nhăo nhẹt, Long nói tiếp : - “Anh biết nó ra thăm nuôi tôi với thằng Cán bộ chồng mới của nó y như thơ của má tôi đă viết. Anh biết thiệt hết sức ngỡ ngàng. Tôi lại được thăm nuôi bốn mươi tám tiếng. Anh biết, lúc con vợ tôi nó giới thiệu với thằng Cán bộ nón cối, tôi chết điếng trong ḷng. Không biết phải nói ǵ. Con vợ tôi nó nói nó ra đây thăm tôi lần cuối cùng, xin tôi cho phép nó đi lấy chồng khác, v́ không biết phải chờ tôi tới bao giờ. Mà nó th́ c̣n trẻ.” Tôi nhận đồ thăm nuôi. Tôi nói với nó tôi sẽ vào trại. Tôi sẽ kư giấy ưng thuận cho nó, từ giờ nó tự do muốn lấy ai th́ lấy. Vợ tôi nó yêu cầu thằng cán bộ ra ngoài để nó nói chuyện với tôi. Nó yêu cầu được ăn nằm với tôi lần cuối cùng trước khi đi lấy chồng. Tôi vừa giận mà lại vừa thương con vợ tôi. Sao nó lại đi bày cái chuyện oái oăm. Nó ôm tôi khóc lóc thảm thiết. Tôi th́ nghĩ bụng: nó đă muốn vậy th́ cho vậy. Với lại đă lâu ḿnh cũng thèm khát. Trong hai đêm tôi trút tất cả những hờn giận, thương yêu vào thân thể con vợ tôi, trong khi bên pḥng bên kia thằng Cán bộ cứ lăn qua, trở lại v́ không ngủ được. Bốn mươi tám tiếng rồi cũng hết. Vợ tôi và thằng Cán bộ ra về.” Long chợt bật khóc : - “Anh biết, lúc đó tôi giận con vợ tôi ghê lắm : tại sao nó lại đặt tôi và thằng Cán bộ vào hoàn cảnh trái ngang. Tôi làm t́nh với nó để trả thù nó. Để chọc tức thằng Cán bộ. Giờ nó về rồi tôi mới nghĩ lại mà thấy tội cho nó. Không biết rồi nó với thằng Cán bộ sẽ sống với nhau như thế nào. Thiếu ǵ đàn bà, con gái mà sao thằng Cán bộ nó không lấy mà lại nhè lấy vợ tôi ? Bộ hết người rồi sao ? Sao con vợ tôi nó lại bày ra cái cảnh oái oăm ? Mà sao tôi lại đi chấp nhận cuộc chơi một cách kỳ cục ?” Long gạt nước mắt, nói tiếp với giọng nói ráo hoảnh : - “Tôi không biết con vợ tôi nó có được hạnh phúc không ? Thằng Cán bộ nó sẽ đối xử với vợ tôi như thế nào khi nó đă hai đêm nằm trằn trọc ở pḥng kế bên mà nó biết chắc chắn chúng tôi đang làm chuyện vợ chồng ở pḥng bên này.” *** Câu chuyện của hai người bạn tù được vợ thăm nuôi càng làm tôi âu lo về vợ tôi và cuộc sống gia đ́nh. Đêm đêm tôi trằn trọc nh́n những con chuột đói đuổi nhau trên mái nứa. Tôi lo sợ những bất trắc, đă và đang, xảy đến cho gia đ́nh tôi. Có phải vợ tôi, cũng như bao nhiêu người đàn bà miền Nam khác, là những cành đào trôi ngược trong cuộc đời giông băo hiện tại ? Những âu lo không có nhiều thời gian trong trại cải tạo. Cái đối diện thường trực của những người tù là cái đói. Là đợi chờ vô vọng một ngày về. Cuối cùng rồi tôi cũng được trở lại với đời sau khi đă trải qua những tầng địa ngục. Tôi có cái may mắn là khi trở về chẳng phải đứng trước ngôi nhà đổi chủ. Tôi cũng chẳng phải ngỡ ngàng khi bước vào nhà thấy có nón cối Bộ đội úp sẵn trên bàn, dép râu B́nh Trị Thiên nằm dưới sàn nhà, kế bên, con chó già không nh́n ra chủ cũ. Khi tôi trở về nhà cửa vẫn như xưa. Các con tôi đă lớn. Thằng con rất đẹp trai và có vẻ thông minh. Hai đứa con gái đang ở vào lứa tuổi : Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi ! Tôi cám ơn Trời, Phật đă giúp đỡ gia đ́nh tôi. Tôi thầm hănh diện là gia đ́nh ḿnh vẫn c̣n nguyên vẹn trong khi biết bao gia đ́nh khác đă tan nát v́ hậu quả của chiến tranh. Tiệc đoàn viên rất là ấm cúng. Vợ tôi có già đi v́ năm tháng nhưng tôi thấy nàng vẫn đẹp như xưa. Nàng, đối với tôi, quả là một chinh phụ của thời đại mới. Nàng đă thay tôi : dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân. Gia đ́nh chúng tôi, đối với mọi người, là một gia đ́nh hoàn toàn hạnh phúc trong cái xă hội đă nhuốm độc dược Cộng sản. *** Như những người tù cải tạo khác, tôi được Hoa Kỳ nhận cho định cư trong Chiến Dịch Nhân Đạo. Ngày từ giă Quê hương, tôi muốn hôn lên mặt đất thầm hẹn một ngày về khi đất nước không c̣n bị cai trị bởi một Chủ nghĩa bạo tàn. Cửa Thiên đường đang rộng mở. Tôi đă thầm tính toán với số tiền truy lănh, với ngôi nhà được chính phủ Mỹ cấp phát, với số tiền 2.000 đô-la được Đức Giáo Hoàng cho ngay khi tới phi trường Bangkok. Với ngần ấy thứ, tôi vẽ cho gia đ́nh tôi một tương lai tươi sáng. Tôi hân hoan bước lên phi cơ nơi phi trường Tân Sơn Nhất ngày càng bệ rạc v́ những chủ nhân ông mới. Những chú Công an, nhưng nhân viên Quan thuế rất là dễ dăi với những Lưu, Nguyễn của thời đại mới. Nh́n đâu cũng bắt gặp những nụ cười. Vợ tôi biếu chú công an gói 555, chú nhân viên Quan thuế hộp x́ gà, cô tiếp viên một thỏi son ngoại quốc. Chuyến bay xa dần quê hương mà tôi đă buồn đau, sung sướng trong gần sáu mươi năm trời, đáp xuống Thái Lan đất Phật nhưng lại là nơi xuất phát những tên hải tặc gieo đau thương kinh hoàng cho người Việt Nam vượt biển trong mười mấy năm qua. Hai ngàn đô-la của Đức Giáo Hoàng theo lời đồn đăi là một vỡ mộng ban đầu. Rồi những chuyến bay kế tiếp đưa những Lưu, Nguyễn bất đắc dĩ đến thiên đường hạ giới Hoa Kỳ. Căn nhà thuê mướn cho cả gia đ́nh là vỡ mộng thứ hai. Và số tiền truy lănh cũng chỉ là những tin đồn. Có điều mấy đứa con tôi đă lớn. Chúng nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh của Xứ Cơ Hội. Chúng tôi không may đến Mỹ vào lúc nền kinh tế nước này đang trên đà xuống dốc. Tiền trợ cấp buổi ban đầu đă giảm. Dù sao tôi vẫn c̣n có cái an ủi là được Tự Do và không c̣n lúc nào cũng lo sợ sẽ bị đưa trở lại nhà tù như lúc c̣n ở Việt Nam. Tôi rất đỗi đau long khi nghe tin một người bạn tù, quen biết hồi cải tạo, v́ sự tan vỡ của gia đ́nh, đă treo cổ tự tử. Tôi không bao giờ chọn giải pháp tiêu cực và bi thảm đó. Tôi đă không chết ở những địa danh muỗi ṃng đỉa vắt, mịt mù sương lam chướng khí, chẳng lẽ tôi lại chết ở xứ đất tiền, đất bạc này ? Tôi quyết làm lại một cuộc đời khác. Tôi không muốn sống măi với những nỗi buồn đau. Tôi muốn các con tôi có một tương lai. Và nhất là tôi muốn vợ tôi được hạnh phúc trong quăng đời c̣n lại; bởi, nàng đă phải hy sinh quá nhiều. Bởi, nàng là một người vừa được phục sinh. Nàng là một cành mai nhị độ. Tôi muốn kể lại đây một lần chuyện đau buồn của đời tôi mà cuộc chiến tranh dai dẳng giữa hai miền Nam, Bắc đă gây ra… Như đă biết, tôi là một tù binh đă trải qua những tầng địa ngục từ Nam chí Bắc. Khi c̣n sống sót trở về, gia đ́nh vẫn c̣n nguyên vẹn chớ không phải chia ĺa, tan nát như những gia đ́nh khác th́ tôi có ǵ mà phải đau buồn. Sự thực th́ không phải như vậy. Hạnh phúc nào chẳng ẩn giấu những nỗi khổ đau. Đôi khi hạnh phúc của người này lại là bất hạnh của kẻ khác. Và hạnh phúc không phải là sự vừa ư. Và người ta chỉ thực sự hạnh phúc khi biết tha thứ.Xin đừng thắc mắc với những “Triết lư ba xu” của tôi. Xin hăy vui ḷng nghe tôi kể tiếp câu chuyện. *** Đêm sum họp đầu tiên, sau bữa cơm gia đ́nh, những ly Champagne làm tôi ngầy ngật. Tôi thấy vợ tôi vô cùng lộng lẫy như đêm tân hôn mấy chục năm về trước. Các con tôi đă rút vào pḥng. Tôi ôm hôn vợ tôi và ngỏ ư muốn ân ái với nàng. Nhưng nàng lắc đầu từ chối với lư do là nàng đang tới kỳ kinh nguyệt. Nàng lui vào pḥng khép cửa lại. Tôi nằm trên bộ sa-lông với cơn thèm muốn dục t́nh tràn ứ cơ thể. Có lẽ v́ mệt mỏi, v́ rượu sau bao nhiêu năm mới được uống lại, tôi thiếp đi chẳng biết bao lâu. Khi thức giấc, tôi thấy đèn trong pḥng vợ tôi vẫn c̣n sáng. Cơn thèm muốn lại nổi lên. Tôi gơ cửa. Câu trả lời chỉ là những tia sáng hắt ra từ những khe hở. Tôi nghe h́nh như có tiếng khóc. Tôi xoay nắm cửa mới biết là cửa pḥng đă khóa. Tôi bực dọc trở lại chỗ nằm với ḷng ấm ức. Tôi cố dỗ giấc ngủ mà chẳng tài nào ngủ được. Trong cơn mê tỉnh chập chờn, tôi bỗng nghe có tiếng ngă xuống của một chiếc ghế ở trong pḥng của vợ tôi. Tôi gơ mạnh cửa nhưng chẳng có tiếng trả lời của vợ tôi. Tôi tông mạnh cửa pḥng để kịp nh́n thấy vợ tôi nằm sóng soài trên nền gạch, trên tay c̣n nắm chặt những tờ giấy. Ngọn đèn vẫn tỏa sáng. Mấy chai lọ nằm chỏng trơ bên cạnh nàng. Tôi hoảng hốt la toáng lên. Các con tôi thức dậy. Tôi biết vợ tôi đă dùng thuốc ngủ để quyên sinh. Tôi vội vàng đưa nàng đến Bệnh viện. Tôi van xin Bác sĩ, hăy cứu dùm vợ tôi. Tôi đau xót nh́n nàng nằm im như một xác chết. Vị Bác sĩ mới là đáng ghét làm sao. Ông ta nói như một cái máy: “Ông hăy an tâm, chúng tôi sẽ cố gắng. Nhưng mà bà nhà đă dùng quá nhiều thuốc ngủ nên t́nh trạng rất trầm trọng.” Tôi như kẻ mất hồn. Tôi van vái Trời, Phật nếu có kẻ phải chết xin để tôi chết thế cho nàng - người chinh phụ của thời đại mới đă thay chồng nuôi dạy con cái nên người. *** Vợ tôi nằm im ĺm như một xác chết trong ba ngày đêm. Tôi đọc đi, đọc lại nhiều lần bức thư c̣n hoen những giọt nước mắt của vợ tôi : “Anh yêu và các con thương mến, Khi anh đọc bức thư này cũng là lúc em ĺa bỏ cơi đời. Xin anh hăy tha thứ cho em về những việc làm nhơ nhớp chỉ v́ em muốn có tiền để nuôi sống các con và thăm nuôi anh. Ngay sau khi anh đi cải tạo một tháng theo lệnh của Ủy Ban Quân Quản, em cảm thấy bơ vơ và lo sợ vô cùng. Từ khi vợ chồng ḿnh chung sống với nhau cả gia đ́nh ḿnh chỉ sống nhờ vào đồng lương của anh. Rồi các con cái ra đời. Anh vất vả ngược xuôi lo cho mẹ con em. Nhờ chắt chiu dành dụm mà gia đ́nh ḿnh không đến nỗi túng thiếu. Khi những người thắng trận tràn vào Thành phố, không có anh em không biết xoay sở cách nào. Em đă cố gắng bắt chước các chị em khác đi buôn bán để kiếm sống qua ngày. Nhưng anh biết em đâu có nói dối được với khách hàng. Lại không biết cách bắt mối với tài xế, lơ xe để dấu hàng khi qua các trạm Thuế vụ. Do đó, sau vài chuyến đi buôn em đă cụt vốn, đành phải bán lần hồi những ǵ mà vợ chồng ḿnh đă mua sắm để mà sống qua ngày. Chiếc xe Honda anh vẫn dùng để làm phương tiện tới sở làm mỗi ngày được bán để mua sắm trong lần thăm nuôi anh ở trại Suối Máu, là vật đáng giá sau cùng. Khi nhận được thư anh gửi từ miền Bắc là lúc gia đ́nh chẳng c̣n ǵ để bán. Lúc đó cũng là lúc thằng con vừa được trở về nhà với chứng bệnh sốt rét sau hai năm đi Thanh niên Xung phong. Vừa đọc thư anh liệt kê những món cần thiết, vừa nh́n những đứa con ốm yếu xanh xao, cùng âu lo với mẹ mà ḷng em quặn thắt. Có lúc em định bán cái nhà để đi thăm nuôi anh nhưng sợ bán đi rồi th́ mấy mẹ con sẽ ở đâu. Thế nên em đă làm một chuyện vô cùng dại dột là đă “Ngủ với kẻ thù” để có tiền chữa bệnh cho con và đi thăm nuôi anh. Ngày ngày em trang điểm thật đẹp, em hẹn bán thân xác cho những kẻ thù có chức, có quyền (Và dĩ nhiên là phải có tiền). Em đă qua tay hết người này đến người khác, sau ba năm cầm đồ bán đạc. Những năm sau đó, cái em mang đi bán là cái trinh tiết, danh giá của một người đàn bà đă có chồng. Em không muốn các con không được đi học. Em muốn khi lớn lên chúng được đầy đủ kiến thức như ngày xưa chúng ta đă bàn tính với nhau. Em không muốn anh phải âu lo, thiếu thốn ở những trại giết người của những kẻ thắng trận. Em đă làm-đàn-bà-để-sống với ước muốn duy nhất là được gặp lại mặt anh để giao lại các con cho anh. Nhơ nhuốc này chẳng làm sao mà rửa sạch chỉ trừ cái chết. Em từ chối ăn nằm với anh v́ em nghĩ rằng em không c̣n xứng đáng với anh. Các con không biết được những việc làm nhơ nhuốc của mẹ nó. Em đă qua mặt được mọi người lối xóm. Ai cũng khen em là người đàn bà đảm đang v́ em đă khéo léo che đậy những việc làm nhơ nhớp của ḿnh. Em không muốn lừa dối anh. Em xin lấy cái chết để tạ tội cùng anh - người chồng mà em suốt đời yêu thương và kính trọng. Anh hăy đốt lá thư này sau khi đọc xong. Em không muốn tâm hồn các con bị vẩn đục v́ có một người mẹ không xứng đáng. Xin anh hăy chiều em một lần cuối cùng - như từ bấy lâu nay anh vẫn chiều em. Vĩnh biệt anh. Người vợ tội lỗi của anh.” Tôi hoa mắt lên. Tôi đọc đi, đọc lại bức thư nhiều lần. Th́ ra những điều lo sợ của tôi lúc c̣n ở trong trại cải tạo là sự thật. Những ḍng chữ như nhẩy múa trước mặt tôi. Tôi đă chạy như bay đến Bệnh viện khi được thằng con trai báo tin là vợ tôi đă được cứu sống. Tôi lao vào căn pḥng có vợ tôi đang nằm im ĺm, thoi thóp. Tôi kịp giữ nàng lại lúc nàng cố gắng lấy sức tàn để đập đầu vào tường tự sát một lần nữa. Tôi ôm nàng và khóc như chưa bao giờ được khóc. Tôi van xin nàng hăy v́ tôi, v́ các con mà sống. Tôi quỳ xuống lạy nàng ba lạy và nói với nàng : - “Đă chẳng phải em đă chết ba ngày, ba đêm rồi đó sao. Em bây giờ đă là một người khác.” Tôi nói miên man những ư nghĩ rất thực của ḿnh : - “Em không có lỗi ǵ với anh cả. Tất cả chỉ là cái hoàn cảnh trái ngang mà chúng ta phải gánh chịu. Bằng cái chết em đă sống lại trong anh, em lại càng cao quư hơn trong anh; bởi, em đă sống thực với em.” Chúng tôi ôm nhau. Và khóc. *** Mùa Xuân năm đầu tiên ở xứ lạ, tôi viết tặng “Cành mai nhị độ” của tôi hai câu lục bát : “Sau lần vấp ngă đứng lên Cảm ơn nhau : vẫn đi bên cuộc đời. Môi buồn lại nở nụ cười. Mắt hoen ố lệ lại ngời tin yêu.” Với tin tưởng rằng mùa Đông buốt giá rồi sẽ qua đi, để từ đó, bắt đầu một mùa Xuân nắng ấm. Nguyễn Thiếu Nhẫn |
Kìa quân tầu ô !!!!
1 Attachment(s)
Đợi đến khi nào dân Mỹ thấy tỵ nạn Việt mà bịt mũi, bịt mồm quay qua chỗ khác, khu Bolsa tại thủ đô Tỵ Nạn vắng teo như chùa Bà Đanh lúc bấy giờ nước đến chân…. hết nhảy! Kìa quân tầu ô !!!! Tuần trước, thủy thủ già đi dạo mát tại khu Embarcadero. Du khách Tầu, Đại Hàn, Nhật Bản bu đông nghẹt tại bức tượng The Kiss và chen chúc lên chiếc USS Midway. Cứ nghe tiếng líu lo, ngộ, nị ồn ào là ttg lảng ra chỗ khác, nhất là có tiếng ho và ách xì là khập khiễng bước nhanh. Đây cũng một phần là do tâm lý không thích thái độ tự nhiên hơn người Hà Lội của người tầu. Hành động bắn giết, cướp bóc, bắt nạt ngư dân, lấn chiếm biển đảo của nhà cầm quyền Bắc Kinh đã khiến không riêng gì người Việt mà cả thế giới e dè. Tránh xa đám đông là thái độ thận trọng, phòng ngừa lây bệnh đại dịch Corona là việc phải làm. Ngay cả chính dân Tầu cũng phải đeo khẩu trang và cô lập những nguồn bệnh, cho nên không nên suy diễn sự thận trọng quá đà mà thổi phồng tâm lý kỳ thị dân tầu. Những sự kiện ghét Tầu, tẩy chay nhà hàng, khu đông người Tầu tại Pháp và Hòa Lan chỉ là những trường hợp cá biệt, chưa phải là phong trào. Không phải toàn thể dân chúng của các quốc gia Âu Châu đều kỳ thị người Tầu trong đại dịch Corona mà chỉ có một số nhỏ vốn sẵn mang tinh thần kỳ thị đã có những lời phát ngôn và hành động quá đáng. Đợi đến khi nào dân Mỹ thấy tỵ nạn Việt mà bịt mũi, bịt mồm quay qua chỗ khác, khu Bolsa tại thủ đô Tỵ Nạn vắng teo như chùa Bà Đanh lúc bấy giờ nước đến chân…. hết nhảy! Bởi thế những ai về VN ăn Tết hãy mau trở lại Mỹ và những ai lăm le về thăm “chùm khế ngọt” hãy hủy vé máy bay ngay tút suỵt để tránh hậu hoạn. Còn quý vị nào chưa chích ngừa cúm hãy đi chích ngay! Hải Trinh |
Chuyện 30-4: Vợ chồng Điệp viên
Tôi làm t́nh báo v́ có máu phiêu lưu, thích chuyện mạo hiểm, sau nầy lại thêm mối thù việt cộng giết cha tôi. Ông già tôi là chủ một nhà máy xay lúa nhỏ ở vùng quê tỉnh Bạc Liêu. V́ là vùng mất an ninh nên phải đóng thuế cho Việt cộng, ấy vậy mà cũng bị chúng nửa khuya đến gơ cửa đem ra đồng bắn bỏ. Cả mấy năm sau, tôi cố tâm điều tra mới biết rơ thủ phạm là một tên nằm vùng trong xóm, chỉ v́ một xích mích nhỏ, hắn dẫn đồng bọn về giết người.
Dĩ nhiên tôi trả thù. Sau khi tốt nghiệp sư phạm, trong lúc chờ sự vụ lệnh, tôi lẻn về nhà trốn trong pḥng không cho hàng xóm biết, đến khuya tôi đến nhà hắn, nằm sau hè chờ. Ở thôn quê không có pḥng vệ sinh trong nhà, khi cần th́ ra sau vườn. Qua đêm thứ hai hắn mở cửa ra đi tiểu, tôi chĩa súng vào lưng hắn: - Đồng chí ra ngoài kia trả lời trước tổ chức về vài việc cần gấp. Hắn sinh nghi định phản ứng, tôi giáng cho một bá súng vào đầu, hắn bất tỉnh, tôi cột chân tay hắn, cơng trên lưng, ́ ạch băng đồng ra chỗ bọn chúng giết cha tôi. Tôi khai thác tận t́nh cho đến khi hắn thú nhận tội giết cha tôi, lúc đó tôi mới cho hắn biết sự thật. Hắn van lạy, nhưng vô ích, h́nh ảnh cha tôi chết oan ức, mắt vẫn mở trừng trừng khiến tôi sôi gan. Sau đó gia đ́nh tôi bán nhà máy xay lúa, bán nhà lên Sài G̣n ở. Tốt nghiệp xong tôi được điều đi các Tỉnh dạy học. Sau mỗi công tác t́nh báo dù thành công hay thất bại tôi lại chuyển qua Tỉnh khác. Câu chuyện bắt đâu khi tôi được giao cho việc theo dơi một cô thợ may ở ngoại ô một thành phố ven biển miền trung. Nguyên nhân là thỉnh thoảng lại có truyền đơn rải vào buổi sáng trên con đường vào Thị xă. Đây là con đường mà đa số nông dân thường đem nông sản vào chợ bán. Họ chở bằng xe đạp, xe Lam hay xe ḅ. Sáng sớm nào cũng có cảnh sát ŕnh ở đó nhưng chẳng thấy ai đáng t́nh nghi cả. Sau phải cho người nằm sát lề đường mới khám phá ra một cô gái đi xe đạp chở rau muống phía sau, dưới chân chỗ bàn đạp để mớ truyền đơn, cứ dỡ nhẹ chân là truyền đơn rơi xuống đường khó mà thấy được nhất là ở quăng đường tối. Qua điều tra đây là cô thợ may nhà ở vùng ngoại ô, sát địa giới thành phố. Sau nhà là một vạt ruộng nhỏ trồng rau muống, mỗi sáng cô chở rau vào chợ bán sỉ cho bạn hàng rồi về ngay. Cô sống với một mẹ già hơn sáu mươi tuổi. Gọi là tiệm chứ thực sự là một bàn máy may phía trước, cách một tấm vách cót là giường ngủ của hai mẹ con vừa làm chỗ thử áo quần. Gia đ́nh nầy mới từ một Quận miền núi về hơn một năm nay. Theo báo cáo, trước đó cô là nữ sinh trung học, sau theo nghề may. Tiệm của cô khá đông khách v́ cô hiền lành, vui vẻ lại lấy công rất rẻ, có lẽ đây là trạm giao liên hơn là cơ sở kinh tài của địch. Nhiệm vụ của tôi là t́m cách tiếp cận cô để theo dơi. Tôi sẽ đóng vai một kẻ si t́nh cô, gặp gỡ cô mà bọn chúng không thể nghi ngờ, hoặc tốt hơn nữa sẽ được móc nối làm việc cho chúng. Một buổi sáng Chúa nhật tôi chạy xe gắn máy gần đến nhà cô th́ xe chết máy phải dừng lại sửa. Tôi vào tiệm xin cô miếng giẻ rồi loay hoay mở máy ra chùi, thay bu gi, tháo b́nh xăng con… toát mồ hôi mà xe vẫn không nổ. Tôi xin cô miếng nước uống và ngồi trước hiên nhà cô hỏi vài câu vơ vẩn rồi dẫn xe về. Qua hôm sau tôi đem một xấp vải đến nhờ cô may cho một áo sơ mi. Lần nầy tôi được cô mời vào nhà v́ tôi là khách. Thế rồi, thỉnh thoảng tôi lại nhờ cô may một thứ ǵ đó và tôi ngập ngừng nói là tôi làm thế để được dịp gặp cô, không gặp tôi nhớ. Cô có vẻ bất ngờ, nhưng yên lặng. Những lần sau cô lại càng giữ ư, nhưng tôi bắt gặp trên đôi mắt cô mỗi khi thấy tôi, long lanh niềm vui. Trong lúc tṛ chuyện tôi cho cô biết về gia đ́nh tôi rằng ông già tôi tham gia mặt trận bị Quân đội Quốc Gia hành quân bắn chết. Thỉnh thoảng tôi đi chùa nghe thuyết pháp hoặc tham gia mít tinh, tôi phát ngôn bừa băi ra người bất măn chế độ. Sau một thời gian lạnh lùng, giữ kẽ, cô có vẻ thân thiện, vui vẻ hơn. Kẻ thù trong bóng tối đang kéo dần con mồi về phía chúng, tôi biết ḿnh đă được để ư, nhưng chỉ đến đấy th́ hầu như bế tắc, tôi không biết được những ǵ chúng tôi cần. Một sáng chủ nhật, như thường lệ tôi đến thăm cô, nhưng đến nơi chỉ thấy một đống tro tàn đang bốc khói. Th́ ra, không hiểu v́ sao lúc khuya lửa bắt cháy, hai mẹ con chỉ kịp chạy thoát thân. Tôi khuyên nhủ nhưng cô vẫn lắc đầu lo lắng. - Tiền mua bàn máy may, mua miếng đất em trả chưa hết nợ, c̣n quần áo của khách nữa, họ nói bao nhiêu phải cố mà trả. Nhưng em c̣n đồng nào đâu! Tôi hứa với cô là sẽ hết ḷng t́m cách giúp đỡ. Thế rồi tôi về bán chiếc xe gắn máy. Nhờ bà con chung quanh phụ giúp nhặt nhạnh những miếng tôle c̣n xài được, mua ít vật liệu, dựng lại căn nhà mới cũng khang trang, ngoài ra c̣n mua được một bàn máy may mới nữa. Chỉ trong một tuần tôi lo toan cho cô chu toàn. Từ đấy thái độ của cô đối với tôi thay đổi hẳn. Chúng tôi thường đưa nhau đi xem hát, ăn quà rong, đôi khi cô đến nhà trọ thăm tôi nữa. Mỗi khi đi với nhau cô thường chải chuốt, thoa chút phấn hồng trên má, trông cô đẹp hẳn ra, như lột xác từ một cô thợ may lọ lem thành một nàng tiên, nhưng đối với tôi, đi bên cô, nhất là những chỗ vắng, tôi có cảm giác rờn rợn, tưởng như ḿnh đang đứng trước đỉnh đầu ruồi của một họng súng nào đó trong bóng tối. V́ nghề nghiệp, lúc nào tôi cũng cảnh giác, ngụy trang, dọ dẫm t́m một chỗ an toàn phía sau lưng. Một lần cô ghé nhà trọ thăm tôi, có một bà hàng xóm biết cô là thợ may đến năn nỉ cho con gái học nghề may. Cô là học sinh thi hỏng tú tài, muốn theo nghề may để phụ giúp gia đ́nh. Nghe tôi nói thêm vào cô ta có vẻ bằng ḷng nhưng hẹn ít hôm nữa mới trả lời, có lẽ chờ quyết định của tên đầu sỏ, chỉ huy cô. Tuần sau cô đồng ư nhận học tṛ. Được độ ba tháng nhờ sáng ư, cô bé học nghề khá tiến bộ. Tiệm may cũng đông khách hơn trước. Một hôm tôi gọi riêng cô bé hàng xóm qua nói chuyện. - Em học nghề may với chị Lan đến đâu rồi? - Em cắt chưa vững nhưng may th́ khá lắm, khách nào cũng khen đường chỉ em thẳng, mịn và đẹp. - Có lẽ cần một máy may nữa mới phụ chị Lan kịp giao hàng cho khách. - Em cũng nghĩ vậy nhưng không có tiền. Tôi tâm sự với cô học tṛ. - Như em biết, thầy và chị Lan yêu nhau, dự định sẽ làm đám cưới, nhưng thầy c̣n ngại h́nh như chị Lan đang yêu ai nên thầy nhờ em giúp thầy t́m hiểu chị Lan xem có ai đến thân mật chuyện tṛ với chị ấy không? Em sẽ chẳng làm ǵ cho chị ấy nghi ngờ. Thầy có cái máy nầy, sẽ giấu dưới xách tay của em, khi đến nơi, em chỉ cần mắc xách tay sau lưng chỗ ngồi của em sát vách với pḥng thử áo quần. Chỉ thế thôi, đừng cho bất cứ ai biết chuyện nầy. Nếu chị Lan hay ai bắt gặp cứ bảo rằng đó là máy thu thanh, thầy sẽ chỉ em cách mở nghe đài phát thanh. Em cũng đừng cho chị ấy biết là thầy cho em mượn tiền mua máy may, sợ chị nghi ngờ, ghen tuông phiền phức. Thế là chúng tôi nghe rơ những trao đổi, bàn bạc với nhau của bọn chúng trong pḥng thử quần áo. Một bộ phận khác ŕnh thu h́nh những khách hàng khả nghi và tiến hành điều tra. Chúng tôi gần như nắm vững tất cả những tên nằm vùng, cơ sở kinh tài, nơi chứa chấp những tên xâm nhập nữa, nhưng tên đầu sỏ vẫn chưa t́m ra! Trong nghề nầy, một chút sơ ư là chết. Như cô thợ may, bị chúng tôi theo dơi mà không hay biết. Cô với tôi như hai tay nhu đạo đang lừa nhau để vật đối thủ xuống, cô đă bị thất thế hoàn toàn, nhưng tôi chưa ra tay và chờ cô ra đ̣n. Có thể cô làm bộ chuyện tṛ, hỏi han để t́m hiểu tôi hoặc rủ tôi một chiều nào đó ra vùng quê hóng gió tâm sự… Nhưng tuyệt nhiên chuyện đó không xảy ra. Cô lúc nào cũng ít nói, dịu dàng, nhưng như thế lại càng làm tôi e ngại và thấy cô rất bản lĩnh, rất nguy hiểm. Đi bên cô tôi cố làm vẻ sung sướng, hạnh phúc nhưng thật sự tôi có cảm tưởng cô như con rắn độc, chỉ một tích tắc cô hành động là đời tôi tàn ngay. Mạng tôi đổi mạng cô th́ không xứng. Thế nên tôi chẳng hứng thú ǵ trong vai tṛ nầy cả. Tôi được lịnh phải tiến xa hơn tức là phải chung đụng xác thịt để giữ chặt con mồi, nhưng tôi không làm được. Dù cô có yêu tôi thực hay giả vờ tôi cũng quyết không đụng chạm đến nơi thiêng liêng đó của người con gái. Đó là nhược điểm của một tên t́nh báo non tay nghề như tôi. Mùa hè năm đó, đối phương lên phương án tấn công Tỉnh. Mẻ lưới được tung ra. Chúng tôi dự định hành quân vào lúc khuya. Buổi chiều cô bé học may về báo cho tôi biết là lúc trưa có một ông sư khất thực đến trước nhà, cô Lan ra cúng dường, ông sư lầm thầm tụng kinh chúc phúc như mọi khi, nhưng lúc quay vào, thấy mặt cô tái mét, người cứ run lên bần bật… Chúng tôi đề nghị Cảnh sát hành quân sớm hơn dự định. Thế là cả bọn bị tóm, kể cả chính tôi cũng bị cảnh sát đến gơ cửa, c̣ng tay, đẩy lên xe cây. Thường th́ sau khi vở kịch đă hạ màn như thế, tôi thảnh thơi nghỉ ngơi rồi nhận công tác mới. Nhưng không hiểu sao h́nh ảnh cô ta vẫn nguyên vẹn trong đầu tôi. Khi cô bị bắt, bị giam giữ, ḷng trắc ẩn của tôi lại nổi lên. Đàn bà, con gái, trẻ con không có chỗ trong chiến tranh, họ phải được ở hậu phương, phải được thường xuyên che chở, bảo vệ. Một cô gái vô ư vấp ngă thấy đă động ḷng rồi, huống ǵ cô thợ may hiền lành, dịu dàng kia đang bị nhốt trong nhà giam sau những song sắt như một con thú đă bị săn bắt, chờ ngày bị đem xẻ thịt. Tôi đă nhiều lần bí mật nh́n cô ủ rũ ngồi ở một góc pḥng giam, héo úa như không có linh hồn, không c̣n cảm giác, suy nghĩ ǵ. Tương lai là chết rũ trong tù, t́nh yêu, hy vọng của tuổi thanh xuân coi như đă chấm hết. Đối với cô, tôi thấy thật bất nhẫn, lừa gạt một cô gái dù cô ta được điều khiển từ trong bóng tối. Và khi cảm tưởng cô không c̣n là kẻ thù của tôi nữa, sự cảnh giác đă được gạt bỏ, như bụi bặm trên một bức tranh đă được chùi sạch, để lộ ra h́nh ảnh trong sáng, dịu dàng của cô trong tâm trí tôi. Thế nên tôi đề nghị thả cô ra để cho những con mồi khác đến móc nối lại với cô. Từ pḥng giam, tôi lại được gọi lên để đối chất về sự liên hệ giữa tôi và cô. Chúng tôi xác nhận có yêu nhau nhưng chẳng biết ǵ về Việt cộng cả và anh cảnh sát thẩm vấn (vờ) tin ngay là thật, anh hứa sẽ thả chúng tôi ra và anh cảnh sát bỏ đi làm giấy tờ. Tôi đến ngồi gần cô cầm lấy tay cô, cô ngước nh́n tôi và lắc đầu, có lẽ cô cho rằng lời anh thẩm vấn viên chỉ là cái bẫy, nhưng tôi cố t́nh cho cô hiểu tôi là người có thẩm quyền, tôi cứu cô ra v́ tôi yêu cô. - Như em đă nghe lúc năy, anh xin bảo lănh em và chịu trách nhiệm liên đới về những hành động của em sau nầy. Nếu em thương yêu anh thực ḷng th́ em hăy lánh xa những ǵ có thể gây nguy hiểm cho em. Em c̣n mẹ già phải nuôi dưỡng, rồi em sẽ lập gia đ́nh, có con cái, sống hạnh phúc như bao người b́nh thường khác. Đừng dại dột nữa, không phải anh sợ bị vạ lây nhưng nếu em gặp chuyện không may anh sẽ đau khổ lắm. Anh sẽ thu xếp cho em và mẹ em vào Sài G̣n sống lẫn trong đồng bào th́ sẽ không có ai quấy rầy em nữa. Chúng ḿnh sẽ làm đám hỏi và khi nào anh vận động xin về dạy gần Sài G̣n sẽ làm đám cưới. Cô cúi đầu yên lặng nghe, rồi cô nắm tay tôi đặt lên đùi cô, siết nhẹ. Một giọt nước mắt rơi trên tay tôi. Tôi thở phào nhẹ nhơm. Cô đă hiểu ư tôi. Cô viết cho mẹ cô một lá thư, dặn bán nhà để chuẩn bị về quê, chỉ giữ lại bàn máy may. Sau đó chúng tôi lặng lẽ về Sài G̣n. Nhờ bạn bè giúp đỡ, tôi t́m mua được một căn nhà nhỏ ở chợ Cây Quéo, góc đường Hoàng Hoa Thám, Ngô Tùng Châu Gia Định. Dĩ nhiên việc theo dơi cô không phải đă chấm dứt. Công tác của chúng tôi thường được t́nh báo Mỹ yểm trợ. Người Mỹ rất hào phóng nhưng cũng rất nguyên tắc, họ đă vui vẻ trả lại tiền cho tôi mua lại chiếc xe gắn máy, trả cả những chi phí lặt vặt như đưa cô đi xem hát, ăn quà rong. Nhưng sau cuộc hành quân, hồ sơ coi như đă đóng. Lần nầy tôi lại bán xe, vay mượn thêm để lo cho cô mà không biết khi nào mới có tiền mua lại xe khác. Suốt mấy tháng hè, tôi về Sài G̣n với gia đ́nh. Buổi chiều tôi thường ghé thăm cô, có khi tôi ăn cơm tối với gia đ́nh cô. Sau bữa ăn, bà mẹ dọn dẹp chén đĩa, c̣n cô th́ xin phép đi tắm. Chợ Cây Quéo nằm trong một đường hẻm, sau khi tan chợ chiều, trở thành vắng lặng như ở một vùng quê Sau nhà cô có một sân vuông nhỏ, rào kín chung quanh, tôi thích ra đấy ngồi xuống một ghế gỗ dài để chờ cô. Cô có thói quen là sau khi tắm cô không mặc nịt ngực, nên qua lần vải mỏng, đồi ngực cô thẳng đứng lên, lồ lộ như hai mụt măng tre vừa chồi lên khỏi mặt đất. Cô ngồi cạnh tôi, nghiêng đầu dùng khăn ṿ mái tóc cho khô, chải nhẹ cho tóc thẳng, xong cô ngửa người vuốt mái tóc về sau lưng, rồi cô nh́n tôi mỉm cười. Tôi yên lặng ngắm cô, tưởng như thấy rơ làn da mịn màng, thơm tho của thân thể cô… Sau đó chúng tôi có một thứ quà rong như chè hay trái cây để vừa ăn vừa chuyện tṛ đến khuya mới chia tay. Sau kỳ nghỉ hè tôi được chuyển ra Huế dạy học, tôi viết cho cô một lá thư dài và hẹn Tết sẽ về xin làm đám hỏi. Tính cô ít nói, ngay cả thư trả lời chỉ vỏn vẹn mấy câu “Được thư anh, em khóc mấy hôm nay v́ vui mừng. Cám ơn anh đă hiểu em và lời hứa của anh lần nầy em tin là thật, bằng trái tim và cả cuộc đời em”. Khoảng cuối năm đó tôi xin phép về Sài G̣n, khi đến nhà cô tôi ngạc nhiên thấy nhà đă sửa sang lại tươm tất. Cô dẫn tôi ra phía sau khoe một căn pḥng vừa mới được xây thêm. - Mẹ ngủ pḥng ngoài kia, em ngủ trong nầy. - C̣n anh th́ nằm dưới đất? Cô đỏ mặt nhưng sung sướng. - Anh với em pḥng nầy chứ. Lễ hỏi chúng tôi diễn ra đơn giản, kín đáo. Gia đ́nh tôi cứ tưởng tôi sẽ lập gia đ́nh với một cô nữ sinh nào đó, không ngờ là một cô thợ may. Chẳng phải họ kỳ thị hay giai cấp ǵ mà theo lệ thường, thầy giáo rất dễ chọn vợ đẹp trong trường ḿnh dạy. Nhưng khi gặp lần đầu, mọi người đều thích cô ngay. Cô vừa hiền vừa đẹp một cách thùy mị. Mẹ tôi cứ mẹ mẹ con con với cô ngọt xớt, các cô em gái tôi th́ tíu tít hỏi han, tṛ chuyện rất thân mật khiến cô bối rối, vụng về v́ cảm động. Từ đó gần như ngày nào tôi cũng đến nhà cô, đôi khi ngủ lại nữa, nhưng chúng tôi đă hứa với nhau phải giữ ǵn, để dành cho ngày hôn lễ. Cô có những suy nghĩ lẩm cẩm rất đàn bà. Cô thêu những áo gối có h́nh quả tim, tên tôi và tên cô lồng vào nhau, h́nh đôi chim đang bay, rồi cô phân vân về tên của những đứa con trong tương lai. Tôi chế giễu th́ cô giận, nhưng thâm tâm cô rất vui sướng với giấc mơ đơn giản đó. Tôi bàn với cô vài tháng nữa sẽ làm đám cưới, nhưng rồi đầu năm 1975 miền Nam bắt đầu sụp đổ từng mảng, tất cả tan ră như bọt nước. Người ta ùn ùn chạy về phía Nam, tôi phải nấn ná lo tiêu hủy hồ sơ, phân tán mạng lưới nên vào đến Đà Nẳng lại đành quay về Huế v́ miền Trung đă rơi vào tay đối phương rồi. Kẻ thù h́nh như chưa biết ǵ về tôi cả ngoài cái vỏ bọc thầy giáo trung học. Việt cộng bắt đầu gọi các cô thầy đến khai lư lịch và như đang sắp xếp mở cửa các trường học. Thế rồi khoảng cuối tháng năm, năm bảy lăm, nửa khuya, chúng đến vây nhà trọ, gơ cửa, c̣ng tay tôi dẫn ra xe. Thoạt nh́n, ngoài chiếc xe cảnh sát chở đầy bộ đội tôi c̣n thấy một xe mang số ẩn tế Sài G̣n, tôi biết ngay bọn chúng đă t́m ra chính xác tông tích tôi. Nhưng tại sao trung ương lại không hủy hồ sơ? Ngồi kèm tôi là hai tên bộ đội c̣n trẻ mang súng AK. Phía trước, bên cạnh tài xế là một người đàn bà. Xe chạy ra khỏi cửa Thượng Tứ, qua cầu Trường Tiền đến đường Duy Tân, chiếc xe chạy trước quẹo vào Ty cảnh sát (cũ), c̣n xe chở tôi chạy thẳng, hướng về quốc lộ. Tôi đoán chúng đưa tôi về Sài G̣n khai thác. Tôi dự định thoát thân, nhưng đến gần phía Nam tôi mới hành động. Nghĩ thế nên tôi buông thả, thiu thiu ngủ dưỡng sức. Dọc đường xe phải ngừng ở các nút chặn, tên tài xế cũng là bộ đội tŕnh giấy và nói ǵ đấy, ánh đèn loang loáng vào xe, rồi xe lại tiếp tục. Đến Quảng Ngăi trời đă rạng sáng, tôi lơ mơ mở mắt nh́n quanh. Bỗng tôi lạnh người khi nhận ra người đàn bà ngồi phía trước là cô thợ may, vợ sắp cưới của tôi. Hoá ra chúng tôi đă lầm trong điệp vụ vừa kể, tên đầu sỏ là cô ta chứ không phải gă thầy tu khất thực. Tôi cay đắng cười thầm ḿnh thua trí một người đàn bà, cô đă ngụy trang một cách tài t́nh, không chỉ đánh lừa chúng tôi mà c̣n đánh lừa cả đến lũ chân tay của cô. Nhớ lại những ngày chúng tôi bên nhau, tôi sượng sùng, xấu hổ với cô. Cô đă đóng một vai kịch rất xuất sắc, rất bản lĩnh, tôi vẫn chỉ là một con mồi ngây thơ. Ấy vậy mà tôi cứ tưởng t́nh yêu chân thành của tôi đă cảm hoá được cô. Giờ đây cô ngồi đó, lạnh như tiền. Cô đang nghĩ ǵ về tôi, một tên điệp viên hạng bét, ngây ngô, lăng mạng tiểu tư sản? Xe đến B́nh Định, ghé vào một quán cơm bên đường, tôi được tên bộ đội mở c̣ng nhưng dặn: - Cần ǵ nói tôi, giữ khoảng cách năm bước, đến gần hay xa hơn, sẽ bị bắn bỏ. Tôi được dẫn vào ngồi một bàn ở một góc quán, mấy tên bộ đội ngồi hai bên, c̣n cô ta th́ ngồi riêng. Sau bữa ăn, lúc trả tiền cô lôi ra một xấp bạc mới tinh, rút vài tờ vất đấy, đứng dậy, không lấy tiền thối. Tôi cố tỏ ra sợ sệt và ngoan ngoăn để chúng tin, hi vọng đến chiều tối nếu cũng ăn uống như thế nầy tôi sẽ bỏ chạy rất dễ dàng và bóng đêm sẽ che chở cho tôi. Nhưng tôi đă lầm, xe chạy suốt đến sáng, đến ngă ba Hàng Xanh theo đường Bạch Đằng, rồi Chi Lăng, Ngô Tùng Châu và vào hẽm chợ Cây Quéo. Cô vào nhà một lúc lâu mới đi ra với bà mẹ. Hai mẹ con ngồi phía trước, xe lại tiếp tục trở ra xa lộ đến Biên Hoà quẹo hướng Vũng Tàu. Tôi đoán chúng sẽ truy tôi về công tác ở Vũng Tàu, Long Hải trước đây hoặc giao cho lũ nằm vùng, nội tuyến đă bị tôi đưa đi tù, và chúng sẽ mặc sức trả thù. Đến Vũng Tàu, ghé mua mấy ổ bánh ḿ thịt, xe vào một khách sạn hạng trung b́nh. Sau khi ăn uống, làm vệ sinh, tôi lại bị c̣ng tay cho vào pḥng riêng, phía ngoài là hai tên bộ đội canh cửa. Tôi nghe cô ta dặn hai tên gác là phải cảnh giác cao độ với tên địch nguy hiểm đó (là tôi), và cô đến ủy ban quân quản có chuyện cần, sẽ về ngay. Tôi mệt mỏi lăn ra ngủ một giấc lấy sức, dự định tối nay leo cửa sổ trốn đi. Cái c̣ng không thành vấn đề, một cọng thép nhỏ là xong, và cọng thép đó đang nằm trong sợi dây đồng hồ mà tôi đă có được lúc tôi đ̣i đi tiểu ở hàng cơm ở B́nh Định. Nhưng đến gần tối, sau khi được ăn một ổ bánh ḿ nữa, chúng lại c̣ng cả chân tôi vào giường và hai tên bộ đội ngồi ngay trong pḥng tôi, thay phiên nhau lơ đôi mắt cú vọ canh chừng tôi. Thế là hết đường trốn thoát! Nhớ lại thời gian hứa hôn chúng tôi sống bên nhau, cô đă dần dần hiểu tôi, trong sự săn sóc cô đón ư tôi rất tài. Lúc đó tôi sung sướng nghĩ rằng ḿnh có được cô vợ toàn tâm toàn ư, bây giờ chính cái toàn tâm toàn ư kia lại hại tôi. Cô đă thấy được không sai chạy những ǵ tôi nghĩ trong đầu, dù chỉ vừa thoáng qua là cô đề pḥng ngay. Tối đó độ hơn mười giờ, tôi được dẫn ra xe, vẫn đủ sáu người như trước. Xe chạy loanh quanh trong thành phố một lúc rồi hướng ra Băi Sau. Trời đêm đầy mây, lạnh kinh khủng, miền Nam chưa bao giờ lạnh như năm đó, đường vắng tanh, lờ mờ ánh đèn, tiếng sóng vỗ ŕ rào, buồn bă. Xe chạy đến cuối băi th́ dừng lại. Cô ra lịnh bịt mắt tôi lại. - Đồng chí đưa tôi khẩu AK. Cứ ở đây chờ, khi nào nghe tiếng súng nổ tôi sẽ ra. Và cô nói với bà mẹ, giọng lạnh lẽo, hàm răng rít lại. - Mẹ phải theo con, xem con trả thù kẻ đă giết hại gia đ́nh ḿnh và bao nhiêu đồng chí khác nữa. Đúng là oan oan tương báo. Tôi đă xử tội tên nằm vùng giết cha tôi ra sao, bây giờ tôi sẽ gặp y như vậy. Nhưng tôi không nhớ rơ ḿnh đă làm ǵ để cô thù hận tôi đến độ giờ đây đem ra xử bắn tôi, không lẽ cô là con của tên nằm vùng kia? Cô lên đạn, chĩa súng vào lưng tôi, đẩy tôi đi trước. Cô đă phạm một sai lầm chết người. Cô dí súng vào lưng tôi là giúp tôi nắm được quăng cách giữa cô và tôi. Tầm vóc cô th́ tôi c̣n lạ ǵ. Chỉ cần tôi quay nhanh lại là mũi súng sẽ chệch ra ngoài và với một đ̣n chân, tôi có thể đá găy cổ cô hay ít ra cũng hạ gục cô trong tích tắc. Trong bóng tối th́ bị bịt mắt hay không cũng mù như nhau. Tôi lần t́m cọng thép trong dây đồng hồ và bắt đầu mở khoá c̣ng tay. Được một quăng, khi đoán đă xa tầm nghe ngóng của mấy tên bộ đội, tôi vừa định ra đ̣n th́ cô mở băng bịt mắt tôi. - Anh cơng mẹ được không? Nhanh lên! Nếu có chuyện ǵ, anh và mẹ cứ chạy thoát đừng lo cho em. Có thuyền chờ sẵn đằng kia. Cô ôm súng chạy phía trước, tôi cơng bà cụ men theo bờ rừng dương liễu mải miết theo cô. Độ một cây số, chúng tôi đến một thuyền nhỏ có người chờ sẵn. Thuyền được đẩy ra, nổ máy và nửa giờ sau chúng tôi ra thuyền lớn đi thẳng. Hôm sau chúng tôi được tàu Mỹ vớt về đảo Guam. Phạm Thành Châu |
Tin tức mới nhất là Coronavirus có thể truyền từ không khí vào miệng. Những người hay chửi bậy sẽ có cơ hội truyền nhiễm nhanh nhất. :hafppy::hafppy::haf ppy: |
1 Attachment(s)
Quote:
Vợ con lúc đó than khóc ..ông ơi là ông ơi !!!!!!!! không chết v́ con Coronavirus mà lại chết hộc máu tức tưởi hàm oan ... Tui không biết ǵ hết nha ...;) |
Nhiễm Covid_19
1 Attachment(s)
Hôm đó chủ nhật, hắn căi nhau kịch liệt với vợ và quyết định bỏ nhà ra đi mấy hôm cho vợ biết tay. Đi lang thang chán chê, nghĩ đi nghĩ lại về nhà bố mẹ đẻ th́ các cụ c̣n chửi cho mục mả, đến nhà mấy thằng bạn thân th́ cũng không ổn. Đi ngang qua trước cửa Bệnh Viện Trung ương, Hắn bèn quyết định ôm ngực lảo đảo vừa đi vừa ho rũ rượi tiến vào pḥng khám xin được xét nghiệm Corona Virus và khai với Bác sĩ rằng mới ở Vũ Hán về mấy hôm. Các Bác sĩ, y tá vội túm lấy hắn yêu cầu xét nghiệm và cách ly khẩn cấp. Thế rồi cơm bưng, nước rót, an ủi động viên sẽ phải ở lại BV 14 ngày, tất cả đều miễn phí hết. Sáng thứ hai mới 8h, tiếng chuông ĐT réo đánh thức hắn dậy, th́ ra là Sếp gọi... Sếp gầm lên: - Anh đang ở đâu ? dự án tôi giao cho anh hôm nay phải tŕnh lên mà giờ này không thấy mặt mũi anh đâu, tôi sẽ đuổi việc anh. Hắn run rẩy trả lời: - Thưa Sếp em bị nghi dính Corona đang cách ly ở BV, nếu Sếp cần em sẽ trốn BV về tŕnh Sếp cái dự án ngay , Sếp nghe vậy liền hốt hoảng hạ giọng: - Thôi cậu mà về th́ lây cả Công ty à ? Cứ yên tâm nằm đấy, lương thưởng hưởng đủ, dự án tôi giao người khác làm, chống dịch là công việc quốc gia nghe chưa... Hắn mừng quá, cái dự án khó như cục xương, chó không thèm gặm, hắn làm măi không xong, nay th́ thoát nợ. Không ngờ một mũi tên bắn trúng hai đích, hắn tự khen ḿnh giỏi như Khổng Minh Gia Cát !!! Nằm viện được 3 hôm, hắn nhớ vợ quá liền gọi điện thoai làm lành, vợ hắn nhận được ĐT mừng như trúng Viet lottery, khóc nức nở, xin lỗi hắn và muốn được vào BV thăm để thỏa nỗi nhớ nhung. Hắn liền gặp Bác sĩ khai thêm rằng khi từ Vũ Hán về có ghé qua nhà ôm hôn vợ mấy cái. Thế là 30 phút sau, một chiếc xe cấp cứu đă đỗ trước cửa nhà hắn, các nhân viên y tế phủ kín toàn thân như robot tiến hành khử trùng toàn bộ nhà hắn và đưa luôn vợ hắn vào bệnh viện để cách ly. Vợ chồng gặp nhau thỏa nỗi nhớ mong, có ăn và..được hầu hạ chu đáo, lại c̣n có thứ trưởng bộ Y tế đến thăm tặng hoa ... Sau 14 ngày tất cả xét nghiệm đều âm tính, Bác sĩ tuyên bố hắn khỏi bệnh và cho vợ chồng hắn xuất viện. Các cơ quan báo chí đến chụp ảnh, đưa tin, viết bài tùm lum. Bộ trưởng đến tặng hoa, chụp ảnh lưu niệm chung. Trông hắn cười tươi tắn như từ cơi chết trở về... Nhà nước tuyên bố chữa khỏi ca bệnh thứ 19 thành công. |
KINH BỎ MẸ
2 Attachment(s)
Anh tài xế máy bay UH-1 ngày xưa viết khá vui......
" Ta vốn dĩ là con chiên không ngoan đạo Nếu lỡ lên thiên đàng cũng chỉ v́ em. " Tôi đi đạo theo cái kiểu đó, nhưng khi bị vào hộp sau 30-4 vẫn bị kể là một thằng "Bốn có" của trại cải tạo. Đó là: có du học; có phi pháo; có Công giáo; có Bắc Kỳ di cư. Ba có đầu th́ tôi không phàn nàn, nhưng ghép tôi vào tội Bắc Kỳ di cư th́ quả là oan ơi ông địa. Vốn sanh đẻ ở B́nh Dương, nhưng ngụ cư ở Cái Sắn với những người di cư năm 54, nên mấy đứa cùng lớp kêu anh em tôi là "thằng Nam". Nhờ gần mực th́ đen, gần đèn th́ tối, nên mấy năm sau tôi chửi thề và nói tục bằng tiếng Bắc c̣n ngon hơn tụi nó nhiều. Ngày thi tiểu học, cần có khai sinh để nộp đơn, má tôi dụ khị được hai ông Trùm Khờ của xứ đạo đi xuống toà Hoà Giải Rộng Quyền của tỉnh Kiên Giang mà thề rằng: Tôi đẻ ở tỉnh Bùi Chu ngoài Bắc. Thế là tôi nghiễm nhiên trở thành thằng Bắc Kỳ di cư với tờ Thế V́ Khai Sanh ghi sinh quán là làng Địch Giáo, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Bùi Chu. Khi lên học trên Sài G̣n, mấy thằng Nam Kỳ Quốc muốn chọc quê tôi, cứ chờ khi có mặt mấy đứa con gái, giả làm một ông già hút thuốc lào rồi nói: - Thuốc lào Cái Sắn! Say! Đó là câu quảng cáo mà ta hay thấy ở chợ Ông Tạ hay đầu ngơ vào xứ Bùi Phát đường Trương Minh Giảng. Có khi tụi nó c̣n hợp ca: - "Ai bảo Di Cư là khổ, di cư sướng lắm chứ Ngồi tàu bay ta vào miền Nam, Ḷng ta sướng nao nao Rao muống trong Nam lại nhiều, mà người Nam không biết ... Ước mong sao, rao muống lên cao, tăng sức mạnh cần lao .... " Những lúc đó tôi cầu trời khấn Phật cho mấy thằng giá sống kia thi rớt để vô Quang Trung cho đáng đời. Sau bao nhiêu năm quân ngũ với bao lần sưu tra lư lịch, tôi vẫn yên trí rằng ḿnh sinh ở tỉnh Bùi Chu. Măi cho đến ngày xập tiệm, có một anh Bắc kỳ chính hiệu Bà Lang Trọc cho tôi biết là ở ngoài Bắc làm ǵ có tỉnh Bùi Chu, Giáo Phận Bùi Chu th́ có. Tôi thắc mắc: Bùi Chu là Giáo phận hay họ đạo nhỏ bé là thế mà sao đi đâu cũng thấy địa danh dính dáng tới nó?? Tôi ở xứ Tân Chu, bên kia sông là Tân Bùi, bác tôi ở trên Bùi Phát SG, ở gần Nghĩa trang QĐ Biên Hoà c̣n có Bùi Thái nữa. Người Bắc Bùi Chu đặt tên ngộ lắm: Ông Bứa có thằng em là ông Bỉnh, hai thằng con ông là thằng Vênh, thằng Váo. Kêu tên cả gia đ́nh ông ra th́ dân anh chị nghe cũng phải phát rét. Ông anh rể tôi tên là Yêm, anh ông tên là Uông, bố tên Am, tên cả nhà: Am Uông Yêm nghe cứ như bản nhạc ếch nhái kêu ngày mưa đầu mùa dưới ruộng vậy. Ngôn ngữ người di cư hồi đó cũng khó hiểu: Cái thước thăng bằng của thợ nề họ kêu là cái Li-vô (level), cái gào mên ăn cơm của lính họ gọi là cái Lập-là (plate): Tôi vào khoá 69A Hoa tiêu th́ họ gọi là Lái Phi Công!!! Gần nhà tôi có ông hàng xóm tốt bụng nhưng coi bộ ông ganh với má tôi lắm, chỉ v́ bà là đàn bà goá mà dám có đứa con "Bay được lên giời". Thỉnh thoảng để tự an ủi hay để an phận, ông thở dài nói: - Bay lên giời! Kinh bỏ mẹ! Nếu có ai hỏi tôi bay bổng ra sao, tôi thường cười rồi lập lại câu nói ngày xưa của ông: Kinh bỏ mẹ. Thực ra đời bay bổng, kể cả đi bay lẫn đi máy bay có những cái vui, nhưng cũng có những nỗi lo sợ ít ai chối căi được. Tính tôi nhát cáy, mà sao ông trời cứ cho tôi gặp những sự bủn rủn tay chân. Hôm chở ông Tư lịnh Sư đoàn từ Tân Uyên sang Lai Khê họp, mới qua khoảng Bố Lá th́ trần mây thấp quá nên phi cơ chỉ bay cao khoảng 1000 bộ, đạn VC nổ như bắp rang dọc theo một tuyến thật dài cả cây số. Ngài Tư Lịnh hoảng quá vội lấy tấm bản đồ hành quân che lên mặt để .. tránh đạn! Thử hỏi gặp cảnh như thế bố thằng nào lại không sợ. Nhất là khi đáp xuống Lai Khê kiểm lại: Thân tàu lănh hơn 10 lỗ đạn. Đi hành quân Kampuchia, gồm 1 C&C, 2 gunships, và 4 slicks khởi hành từ Biên Hoà trực chỉ Tây Ninh. Ông C&C muốn dẫn bầy rồng rồng đi le gái nên dơng dạc ra lệnh: - Bay theo quốc lộ cho an toàn. Một hợp đoàn gồm bảy chiếc bay rà rà sát mặt đường, thỉnh thoảng lơ xe đ̣ nh́n lên có vẻ ngưỡng mộ lắm. Ngang Trảng Bàng, chiếc Lead la lên: - Sương mù nhiều quá. Ê! C&C làm sao bây giờ?? - Lead cứ bay tới; thằng một quẹo trái; thằng hai quẹo phải; trail bốc lên cao. Gunships bay sau la hoảng: - Tụi tao kè hai bên, thằng nào quẹo, tao húc!! Tôi bay trail (chiếc cuối cùng) nghe thế hồn phi phách tán, bèn bốc tít lên tận trời xanh, mặc cho sương mù dầy đặc.. Khoảng hai phút sau, văng ra được một lỗ mây, to hơn cái dạng háng của thím Tư Năi, mừng thầm. Bỗng thấy một chiếc UH từ cụm mây bên kia bay cái vèo bên hông và lủi tuốt vào vùng mây khói âm u. Trong cảnh này có ai dám nói là ḿnh không sợ?? Chàng Xạ thủ ngồi đằng sau, đái ra chiếc "Phi bào" sau khi kêu lên được một câu: - Chúa ơi! Nhờ vận số hên, (hồi đó tôi cứ tưởng là do tài bay bổng của ḿnh) bốn Tề Thiên tụi tôi cũng đằng vân lên được bên trên mây, có điều không thằng nào đoán nổi là núi Bà Đen nó nằm ở chỗ nào phía dưới. Sợ cảnh "Đi không ai t́m xác rơi" nên chiếc UH cứ bay ṿng ṿng trên mây hoài. Khốn nỗi là xăng có hạn, làm sao bây giờ? Chúa ơi! Nếu có thiêng th́ cho người đi kiếm xác bọn con, trước sau ǵ con cũng phải đục mây chui xuống. Tôi chuẩn bị làm một kỳ công tối kỵ của ngành phi hành: Chui mây. Có lẽ lời cầu được Chúa thông cảm v́: Dù sao th́ chúa cũng Một thời làm trai tơ Dù sao th́ chúa cũng Là đàn ông dại khờ (Thơ trích) Sau một hồi vật lộn với mây, bọn tôi cũng xuống được đất an toàn. Anh chàng Xạ thủ nói: - Vợ em nó bảo Giời vật em cũng không chết. Thiêng thật! Những chuyện như thế, không gọi là sợ th́ gọi là ǵ? **** Sang Mỹ, mỗi lần có dịp đi máy bay, tôi hay lén nh́n ra phi đạo xem chiếc phi cơ chở ḿnh có mở nắp ca bô lên không, v́ theo kinh nghiệm ngoài xa lộ, cứ chiếc nào có cái hood mở lên là y như rằng chết máy. Đúng ra mấy hăng máy bay Mỹ, nếu thấy phi cơ không đủ tiêu chuẩn cất cánh th́ cũng nên lôi vào chỗ kín kín mà sửa, đừng để cho khách thấy, nếu sợ tốn th́ giờ th́ cứ bay đại đi rồi tính sau. Chuyện bay đại ở VN th́ Kỹ Thuật KQ làm là thường. Tôi nhớ có lần hành quân ở Chơn Thành, cái đèn Chip Detector báo đỏ, phải gọi Kỹ Thuật Biên Hoà lên sửa, ông Thượng Sĩ già ung dung trèo lên pḥng lái, nhẹ nhàng rút chiếc cầu ch́ ra cho đèn tắt rồi bảo: - Trung uư cứ bay về đi. Tôi cự lại, th́ ông nói máy bay này chỉ bị mát, chứ không có hư và để bảo đảm lời nói của ḿnh, ông sẽ leo lên bay về chung với tôi. Ông ta c̣n giải thích: -Điện có mát th́ chỉ cháy thôi, chứ không nổ trên trời như khi có mạt sắt trong máy. Về VN năm nào, nhớ lại nghề bay bổng nên cứ mỗi lần nh́n thấy phi cơ trên trời là ḷng tôi lại thấy nao nao. Tôi hỏi thằng em ruột: - Rạch Giá đi Sài G̣n, thuê xe hơn hay mua vé máy bay hơn? - Máy bay hết 45 phút, xe chạy hết bốn tiếng, tiền thuê xe bằng tiền mua vé máy bay. Tôi quyết định đi máy bay của Nga cho biết với người ta. Sáng thứ tư tôi chuẩn bị cho thằng em đưa ra phi trường Rạch Sỏi để đi Sài G̣n, nó nói: - Không biết hôm nay có máy bay không. - Sao mày nói nó bay mỗi thứ tư và thứ bảy? -Ừ, đó là chương tŕnh, c̣n nó bay hay không th́ chưa biết. Chờ ở phi trường chừng nửa tiếng th́ chiếc phi cơ khá lớn đáp xuống phi đạo. Tôi làm thủ tục lên tàu, vé mang số 5 ở tuốt hàng đầu, thiên hạ chen nhau lên trước nên khi tôi lên đến nơi th́ không c̣n chỗ. Cô tiếp viên nói gia đ́nh họ đi có đoàn, tôi đành nhường chỗ và theo cô xuống phía dưới.. Cô khá xinh, chỉ cho tôi vịn vào chiếc cột nhôm gần đuôi chiếc máy bay để cô xếp chỗ. Một lúc sau viên phi công hầm hầm đi xuống từ pḥng lái, cự nự: - Các cô làm ăn thế này th́ chết cả lũ. Một cô mặc áo màu xanh, nhân viên pḥng vé dưới đất (hồi xưa Tiếp viên Hàng không đi bay th́ mặc áo màu xanh, c̣n bây giờ họ lại đổi màu hồng) năn nỉ: - Anh Ba thông cảm cho em chuyến này, chuyến sau em làm tốt hơn. - Chuyến sau! Chuyến sau! Quá tải có ngày chết cả lũ. Viên phi công hậm hực trở lên pḥng lái, chiếc phi cơ gầm lên lao nhanh trên phi đạo rồi rời khỏi mặt đất. Tôi nh́n qua cửa máy bay, sống lại cảm giác hồi ḿnh c̣n ở trong Không Quân, bay liên lạc đáp xuống phi trường Rạch Sỏi này. Có khác chăng là ngày xưa th́ ngồi, c̣n bây giờ th́ đứng ôm chiếc cột trong thân tàu. Chuyện phi cơ quá tải ở VN là thường, tôi đă từng chở 18 người từ An Lộc về Lai Khê, trong khi UH chỉ có 9 chỗ ngồi mà có sao đâu. Phi cơ không về SG ngay mà lại ra Phú Quốc. Lỗi này là tại tôi không đọc kỹ vé. Hàng Không Dân Dụng có ghi rơ tuyến đường là: HCM-Phú Quốc-Rạch Giá-Phú Quốc-HCM. Có nghĩa là máy bay từ SG ra tới Phú Quốc đổ khách, bốc khách về Rạch Giá, đưa khách từ Rạch Giá ra Phú Quốc rồi mới ṿng về SG. Không đọc kỹ vé th́ không kêu ca vào đâu được. Có điều bay từ Rạch Giá ra Phú Quốc th́ được free, cho dù là đứng hay ngồi. Tôi cũng chẳng phàn nàn ǵ về cái ghế trên phi cơ, v́ cô tiếp viên cũng ôm chặt cái cột khi máy bay cất cánh như tôi. Tôi hỏi: - Cô bay tuyến này khá không? - Chả có ǵ đâu anh ạ, bay tuyến quốc ngoại mới ăn, nhưng đỡ hơn bay tuyến ngoài Bắc. - Sao thế?? - Tuyến ngoài Bắc khách cứng đầu lắm, nói thế nào cũng chẳng chịu nghe. Cô ta làm tôi nhớ tới một ông "Bắc Kỳ Di Cư", y hệt tôi đi trên chuyến Hồng Kông - Sài g̣n trước đây một tuần. Trời SG tháng bảy nóng như đổ lửa mà ông mặc bộ com lê đầy đủ. Khi chuyển máy bay ở Hồng Kông, ông ngồi lộn ghế, tiếp viên năn nỉ thế nào cũng không chịu đứng lên, cuối cùng cô tiếp viên đành chào thua để ông ngồi lỳ ở đó. Lát sau ông quay qua phía tôi phân bua: - Cứ tưởng ông như nhà quê mà bắt nạt. Mẹ, ông mua vé th́ ông muốn ngồi đâu ông ngồi chứ! Tôi hy vọng ra đến Phú Quốc sẽ có chỗ ngồi, tôi lại lầm v́ có lẽ VN đang trên đà đổi mới nên làm ăn khấm khá, tuyến nào cũng đầy khách. Tôi lại đành làm anh hùng đứng ôm cột với cô tiếp viên như khi c̣n nhỏ chơi Thả Đỉa Ba Ba vậy. Khi phi cơ trở ra cuối phi đạo để cất cánh, tôi ḍm ra thấy có hai viên công an chạy hai chiếc Honda kề bên hông nên hỏi: - Họ làm ǵ vậy? Cô giải thích: - Họ chạy theo để chặn ḅ. Đôi khi phi cơ cất cánh, mà ḅ chạy ra trên phi đạo th́ cũng có... vấn đề đấy. Tôi hỏi ḅ của ai mà vào được cả trong phi trường, cô trả lời không biết, chắc là của Công an. Khi đáp xuống Tân Sơn Nhứt tôi mới khám phá ra một sự lạ nữa, là không phải chỉ có tôi và cô tiếp viên không có ghế, mà ở tuốt trên hàng ghế đầu, đặt nằm dưới sàn có một cái băng ca, trên đó nằm đưỡn đừ một bệnh nhân đang thiêm thiếp. Có lẽ ông này được khiêng lên ở Phú Quốc lúc tôi ngồi trong pḥng đợi. Người ta khiêng ông xuống và chiếc băng ca được đặt nằm trên mặt đất ngoài phi đạo thi gan cùng nắng gió và bụi, h́nh như chờ xe thuê bao đến chở đi nhà thương. Vị chi chuyến này có ba người ngồi ghế SÚP, y hệt lơ xe đ̣ ngày xưa ráng nhét hành khách vào giữa hai hàng ghế!! Tôi rời nhà lúc 7g sáng, phi cơ đáp Tân Sơn Nhứt khoảng 12g trưa, vậy là khoảng 5 tiếng đồng hồ. Lâu hơn đi xe, có điều là được đi một đoạn miễn phí và học hỏi được đôi điều thú vị. Mấy hôm sau, gặp lại thằng em ở SG, nó hỏi: - Anh đi máy bay Nga có sướng không? Tôi cười như mếu: - Kinh bỏ mẹ!!! |
Hạt Mưa Trên Poncho
2 Attachment(s)
Bất cứ ai đă một thời ca bài “Ta đi ṭng quân” đều không thể nào quên được đời lính. Trong đời lính, dù là lính già hay lính trẻ đều mặc bộ đồ trận, vui buồn theo tiếng kèn đồng đếm nhịp thời gian. Và một trong những món hành trang cần thiết thân yêu của người lính ngoài cây súng nhân t́nh, phải kể đến thành phần quân quân dụng này: Ấy là chiếc Poncho. Nhà binh gọi là “Pông Xô”. Về h́nh thức, nó lớn bằng chiếc chiếu, mầu xanh cứt ngựa, làm bằng vải pha nylon gọi là vải ngụy trang, bốn cạnh chung quanh có lỗ, có khuy bấm bằng sắt.Chính giữa có một cái lỗ chui đầu làm thành cái mũ che, có giây buộc đàng hoàng. Về nội dung, Poncho có công dụng chính là làm cái áo đi mưa. Khi trời bắt đầu nổi cơn mưa gió, người lính chỉ việc mở chiếc Poncho ra chui đầu vào giữa, đội nón là xong. Phần c̣n lại của Poncho nó lùng tùng x̣e quanh cổ, quanh vai, quanh người che chở từ súng đạn đến ba-lô rất ư kín đáo an toàn. Nó dản dị đơn sơ như thế nhưng công dụng th́ lại vô cùng đa diện. Đến ngay người sáng chế ra nó cũng không thể nào ngờ rằng Poncho được dùng trong nhiều việc như thế. Với chiếc áo đi mưa nhà binh – Poncho - mắc vào cành cây có thể làm chỗ che nắng che mưa khi canh gác một ḿnh. Với hai chiếc Poncho ghép lại có thể thành một lều cho hai quân nhân tá túc. Với 4, 6 hoặc 8, 10 Poncho, dùng cọc dă chiến nối lại cho dài, dùng giây ghép Poncho cho kín là có một lều cho cấp tiểu đội, nom rất tư cách. Khi quân ta sang sông trong một chiều hành quân, Poncho có công dụng như phép lạ. Nếu không có chuyến đ̣ vĩ tuyến chuyển quân, nếu không có giây đu bắc ngang ḍng nước ngược, nếu không có chiếc cầu khỉ, cầu treo... th́ nhất định người chiến sĩ phải dùng đến chiếc Poncho làm phao di chuyển. Mở rộng chiếc Poncho ra, túm chặt lỗ chui đầu lại, bao nhiêu ba lô đạn dược tập trung vào đó. Xong bỏ vài cành cây khô cho cồng kềnh, gấp Poncho lại theo kỹ thuật nhà binh làm sao cho kín mít, nước không lọt, thắt giây xong là Poncho chẳng khác ǵ một chiếc phao. Thả Poncho xuống nước, gác súng trên Poncho, người lính ôm cái phao cá nhân tà tà sang sông rất là đẹp mắt. Ngoài công dụng che nắng che mưa, làm phao nổi, lều cá nhân, lều tập thể, Poncho c̣n dùng làm chiếu, làm nệm, có khi làm vơng. Trong các trại gia binh, anh em ở dưới mái nhà tôn nóng như ḷ bánh ḿ th́ lại có sáng kiến dùng Poncho làm trần làm vách cho vợ con đỡ được đôi ba phần nắng nôi gió máy. C̣n các cấp chỉ huy ở nhà gạch mái ngói không cần đến Poncho làm trần nhưng nhiều vị có sáng kiến lấy Poncho may thành chiếc bạt phủ xe nhà cho khỏi bụi bậm, đỡ trầy nước sơn. Những nhà dân giả, nhà binh, nhà quê thiếu ống máng hứng nước mưa th́ Poncho là cái phễu vĩ đại, hết sẩy! Poncho cũng lan tràn đến cả chợ búa. Từ xa trông cảnh chợ, xanh xanh một mầu cả trăm chiếc Poncho giăng mắc la liệt khắp nơi, nom tưởng như một tiểu đoàn đóng quân vậy. Lại gần mới thấy Poncho làm mái che cho hàng cá, hàng thịt, hàng rau, hàng quà, quán nhậu, hủ tíu ḅ viên, bún riêu bún ốc. Poncho cũng di chuyển cùng chiều với các bạn đạp xích lô, kéo xe thồ, lái xích lô máy. Một chiéc Poncho thôi là đủ may chiếc áo mưa, vừa che đầu, che thân tới nữa người, gọn gàng và bền bỉ. Poncho được chiếu cố tận t́nh như thế cho nên mức độ tiếp liệu dù cao, dù đúng hạn, dù mau lẹ vẫn không thỏa măn được nhu cầu của quân đội và dân sự. Các binh đoàn tiếp nhận xong, nhập kho, phân phối là Poncho đă chuẩn bị tan hàng. Một phần về đơn vị, một phần vào các khu dân sinh, chợ Kim Biên, chợ cũ, chợ Ông Tạ... Tại các tỉnh, các quận, t́nh trạng Poncho cũng tương tự như rứa. Poncho chẳng những phổ biến rộng răi, đa dụng trong t́nh quân dân cá nước mà c̣n đóng một vai tṛ quan trọng tại các quân trường. Ai đă một thời nhập trại Quang Trung, Đồng Đế, Thủ Đức mà không nhớ nhung kỷ niệm quân trường những ngày gió mưa tàm tă. Buổi sáng tinh mơ tập họp trung đội, đại đội, tiểu đoàn mà nhằm ngày trời mây u ám gió cuốn tả tơi hoa lá th́ anh em rất là một sự lục xục, lộn xộn, lạo xạo. Ai cũng nón sắt đội đầu Poncho chùm thân, đi đứng lù đù. Khi anh em đi băi về trong buổi chiều mưa, từng trung đội lạch bạch bùn đất, hàng ngũ trật tự nhưng không mấy chỉnh tề. Nếu có người yêu nào đó đứng chờ, t́m kiếm người t́nh giữa chốn ba quân th́ có mà như đá vọng phu vẫn hoài công đứng đợi. Bởi cả trăm người lính xùm xụp Poncho trong hàng quân như thế, làm sao nhận ra được ai là người yêu của lính? Thế là hoa lạc giữa rừng gươm. Nhưng bù vào những cái bất tiện như rứa, Poncho cũng có lúc trở thành một ngụi bạn tâm phúc, đắc dụng. Vào những ngày nghỉ cuối tuần, quân trường nào cũng đầy ắp thân nhân bạn bè vào thăm tân binh, sinh viên sĩ quan. Ngoại trừ những ai được đi phép đặc biệt như chim sổ lồng, c̣n th́ đa số nằm trong trại chờ người nhà đến thăm viếng. Cái cảnh đồng bào ta lái xe nhà, đi xe đ̣, chạy Honda, Vespa, Lambretta, gắn máy đi thăm lính thật là ồn ào náo nhiệt. Quà bánh th́ nào là bánh ḿ, bánh bao, bánh ngọt, lạp xường xúc xích, cam táo chôm chôm ổi mận trái cóc, sữa Guigoz, Similac...Có người đem khăn mặt, bàn chải đánh răng, xà bông, thuốc lá,dầu cù là, dầu thơm... Tất cả cho lính! Rồi người ta kéo nhau tấp nập vào cổng trường, ghi tên lấy thẻ, qua trạm kiểm soát rồi là coi như thong thả tới địa điểm dành cho từng đơn vị. Về phía lính th́ cả tuần tập tành, “quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, chỉ ŕnh mong đến cuối tuần để được đón gia đ́nh, bè bạn vào thăm viếng nên chuẩn bị rất ư là kỹ lưỡng. Có điều giống nhau, chả ai bảo ai, ai cũng cặp kè chiếc Poncho ra khu tiếp tân ngóng đợi thân nhân. Thành phần thân nhân được phân định làm nhiều giới. Giới cổ điển là các ông bô bà bô đi thăm con th́ được ngay anh tân binh hay sinh viên sĩ quan mời các cụ vào câu lạc bộ nghỉ đỡ chân. Nếu câu lạc bọ hết chỗ th́ mời hai cụ quá bộ ra cạnh quán, trải chiếc Poncho là tạm xong phần nghênh tiếp. Bố con, mẹ con rủ rỉ chuyện tṛ, ăn uống lai rai cho đến hết giờ thăm viếng. Giới thứ nh́ là giới bán cổ điển với bầu đoàn thê tử đi thăm chồng vào lính trễ. Giới này thường trải Poncho dưới tàng cây cao bóng mát hoặc ở trong các khu tiếp tân tập thể, vợ chồng con cái đ́u íu, chuyện nhà chuyện cửa, chuyện con cái học hành, chuyện làm ăn buôn bán, chuyện hàng xóm láng tỏi, ồn ào như chợ Bến Thành hay chợ Cầu Ông Lănh. Giới thứ ba là giới độc thân, toàn đàn ông con trai đi thăm con trai mà thôi. Giới này thường tụ tập tại câu lạc bo nhậu nhẹt tán dóc. Xong cái màn đó, các cậu lại rủ nhau ra lề đường, ngồi trên Poncho ngắm các em gái hậu phương đi thăm chiến sĩ, với lời bàn Mao Tôn Cương rất ác liệt. Giới thứ tư là giới cô đơn, gồm những anh không có người nhà đến thăm, ôm chiếc Poncho đi ḷng ṿng khắp khu tiếp tân, ngong ngóng một chuyện ǵ như thể sắp xẩy ra mà lại mơ hồ như có như không mới khổ! Giới thứ năm là giới chiến thuật mà mỗi người là một chiến thuật gia. Giới này thường chuẩn bị rất kỹ, nghiên cứu địa h́nh địa vật và lựa chọn điểm đóng quân thật sớm. Thông thường, các vị trí này cách xa khu tiếp tân, xa các khu ồn ào nhiều kẻ qua người lại. Họ lựa chọn chỗ vắng vẻ kín đáo, có tí mô đất, có tí cành cây để giăng chiếcPoncho hững hờ lơ lửng. Tuy chiếc Poncho nom ra vẻ lụp xụp, thiếu mỹ thuật thật đấy nhưng lại chứa đựng tất cả những ǵ gọi là nghệ thuật tinh vi và khoa học hiện đại. Giới chiến thuật này thường có đối tượng là người yêu của lính! Khi những chiếc Poncho xanh mầu lá cây rừng rải rác vô trật tự họp lại mí nhau thành một chiến tuyến th́ dưới những mái Poncho là những cặp t́nh nhân đang tỉ tê quyến luyến, thề non hẹn biển... Thời gian lặng lẽ một ḍng tưởng chừng buồn tênh mà hóa ra sống động, vùn vụt như ma đuổi. Cho đến khi lá hoa về chiều, lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa, các đôi lứa lại càng quyến luyến xoắn xuưt lấy nhau như sam, như chẳng muốn rời. Nhất là vào những buổi chiều có tí gió mưa th́ lại càng làm cho ḷng người thêm mưa gió. Mây trời hạ thấp, những giọt mưa nho nhỏ rơi đều trên Poncho trong làn gió thoảng, đủ làm cho Poncho hạ thấp xuống một chút xíu nữa, như che gió che mưa cho cặp t́nh nhân tạm quên đi thế giới bên ngoài. Chỉ thấy những mái Poncho lay động, bập bềnh, ngả nghiêng vội vă, trong khi ngoài kia tiếng kèn thu quân đang dục giă liên hồi... Cuộc hẹn ḥ nào rồi cũng chia xa. Giới chiến thuật là đơn vị giải tán thành phần cơ hữu sau cùng, vơ vội ôm quàng chiếc Poncho ù té chạy về doanh trại. Để rồi người lính quân trường lại có những ngày chờ ngày đợi ngày mong. Mong sao cho chóng đến cuói tuần, cặp kè chiếc Poncho với nỗi ḷng nao nức, rạo rực thương yêu của tuổi hoa niên thời chinh chiến. Như thế, quả nhiên chiếc Poncho đa dụng đa năng cho cả hai phía quân dân. Nó lại c̣n là một biểu tượng của đồng lơa, cho đời vẫn c̣n mầu hồng, c̣n một chút ǵ gọi chút dễ thương. Và rơ ràng cụ thể nhất, nó chính là kỷ vật cho em Nghĩ thế, một hôm nhớ về quân trường cũ, kẻ này gặp một cựu nữ sinh hoa khôi, mới khẽ hỏi xem nàng nghĩ thế nào về chiếc Poncho đối với tuổi trẻ ngày xưa? Người đẹp bỗng nhiên má đỏ hồng hồng, mắt sáng trong trong, thỏ thẻ đáp rằng: - Poncho! Poncho! Ồ, thật là kỳ diệu... Hoang Pham |
Bà ơi, bà có giàu không?
1 Attachment(s)
Hẳn ai cũng biết: Không phải chỉ có giàu mới có ḷng thương người. Và cũng không phải chỉ có người giàu mới có hạnh phúc. Một nồi khoai tây hầm với nước xốt màu nâu óng ánh, một mái nhà che mưa nắng, những cái tách và dĩa bằng sành màu xanh trông khá là ḥa hợp, và một người chồng có việc làm tốt và chắc chắn…, chỉ chừng đó thôi, rất thực tế và cũng rất tầm thường, đă tạo nên cuộc sống hạnh phúc của một gia đ́nh. Câu chuyện cảm động thuật lại sau đây, trích từ Chicken Soup for the Soul, sẽ nói với chúng ta rất nhiều về ư nghĩa của cuộc sống. Hai đứa trẻ nép ḿnh vào sau cánh cửa để tránh gió lạnh. Áo quần chúng đều tả tơi. – Bà có báo cũ không? Lúc ấy, tôi đang bận. Tôi đă muốn nói không -chợt tôi nh́n xuống chân chúng. Những chiếc sandals mỏng manh đẫm mưa tuyết. “Các cháu vào trong này và bà sẽ làm cho các cháu một tách ca cao nóng.” Không nghe tiếng chúng nói chuyện. Những đôi sandals ướt nhẹp của chúng để lại dấu lấm trên nền đá trước ḷ sưởi. Tôi đă dọn cho chúng ca cao nóng, bánh nướng với mứt để tăng sức cho chúng chống với cái lạnh bên ngoài. Sau đó tôi đi vào bếp và lại bắt đầu tính toán việc chi tiêu trong nhà Xem thêm: Mối t́nh đầu Sự im lặng trong căn pḥng trước làm tôi ngạc nhiên. Tôi nh́n vào. Con bé gái cầm cái tách không trên tay, và chăm chú nh́n. Thằng con trai hỏi bằng một giọng b́nh thản. “Thưa bà, bà có giàu không ạ?” “Bà giàu hả? Ơn trời, không đâu!” Tôi nh́n vào cái tạp dề sờn cũ của ḿnh. Con bé gái đặt cái tách vào lại trong dĩa, một cách cẩn thận. “Bộ tách của bà rất hợp với những cái dĩa.” Giọng nói của nó có vẻ người lớn, đượm chút ǵ đó như là ưa thích. Sau đó hai đứa lại lên đường, lấy đống báo cũ che những cơn gió buốt. Chúng không nói lời cám ơn. Mà chúng cũng không cần nói nữa. Chúng đă bày tỏ hơn thế nhiều. Những cái tách cái dĩa sành màu xanh. Nhưng chúng hợp với nhau. Tôi nếm thử khoai và khuấy nước thịt. Khoai tây và nước thịt hầm màu nâu, một mái nhà trên đầu che mưa nắng, chồng có việc làm tốt, ổn định -tất cả những cái này cũng ḥa hợp với nhau đấy chứ. Tôi dời những cái ghế ra xa ḷ sưởi và dọn dẹp lại pḥng khách. Những dấu sandals nhỏ bé lấm bùn vẫn c̣n dính trên nền đá ḷ sưởi. Tôi để nguyên như thế. Tôi muốn chúng vẫn c̣n đó để nhắc tôi nhớ rằng ḿnh giàu có biết bao. Như Sao |
Đi cyclo dạo phố SàiG̣n
4 Attachment(s)
Từ nay trở đi Bác Tài cyclo sẽ "nhơng nhẽo" cho coi.
Cô du khách hồn nhiên dễ thương ghê. Trước kia ḿnh chỉ thấy mấy anh Mỹ trẻ lái cyclo cho bác tài ngồi chơi thôi, nay lại có mấy cô Tây Âu thích chơi b́nh dân không phân biệt giai cấp như Á Đông. Thấy bác xích lô già yếu, cô tây xung phong chở bác đi dạo phố Sài G̣n luôn! H́nh ảnh hài hước và đáng yêu này được ghi lại trên một con phố Sài G̣n vắng vẻ. H́nh ảnh du khách nước ngoài ngồi xích lô đă không c̣n xa lạ với chúng ta. Mới đây, một fanpage lớn đă đăng tải nhưng h́nh ảnh ghi lại cô tây đang đạp xích lô chở vị khách đặc biệt đang hút hồn cư dân mạng. H́nh ảnh được ghi lại trên một con phố ở thành phố Sài gon Đưa anh đi chơi xa trên con xe xích lô..Chỉ cần nắm thật chặt anh và em sẽ đi đến cuối con đường. Mọi nẻo đường em hứa sẽ luôn mỉm cười. Sau khi những h́nh ảnh hiếm gặp được đăng tải, rất nhiều dân mạng để lại b́nh luận. "Dễ thương quá, chắc bác xích lô vui lắm". "Khuôn mặt bác căng thẳng quá, chắc mọi ngày ngồi sau quen rồi, giờ ngồi trước không quen". |
Vụ chiếc UH-1 bị đánh cắp tại Đà Lạt năm 1973 Hồ Duy Hùng là ai?
2 Attachment(s)
Vụ chiếc trực thăng UH-1H mang số 60-139 của Phi đoàn 219 bị đánh cắp tại Đà Lạt năm 1973, trong Không Quân hầu như mọi người đều biết và dân chúng Sàig̣n cũng được đọc tin tức trên báo chí thời đó.
Kẻ đánh cắp chiếc trực thăng nói trên là Hồ Duy Hùng, cựu Thiếu Uư Không Quân VNCH, sau khi thụ huấn ở Hoa Kỳ trở về, bị An Ninh KQ khám phá có thân nhân đi theo địch nên tên Hùng đă bị sa thải khỏi Quân Đội. Sau này, bộ máy tuyên truyền của Việt cộng nói rằng Hùng là người của chúng được gài vào Không Quân VNCH để làm nội tuyến. Tuy nhiên đă có nhiều yếu tố khách quan cho thấy thoạt tiên Hùng chỉ là một tay bất măn, đánh cắp máy bay để trả thù việc ḿnh bị sa thải khỏi Quân Đội, để rồi măi về sau này trở thành một người hùng bất đắc dĩ của "Cách mạng"! Để chứng minh cho lập luận nói trên, thiết nghĩ chúng tôi chỉ cần nêu ra hai sự kiện: *Sự tuyên dương muộn màng: Khác với Nguyễn Thành Trung - kẻ đă lái F-5 dội bom xuống Dinh Độc Lập, cũng như rất nhiều tên nội tuyến, nằm vùng khác đă được tô son trét phấn để tuyên dương sau ngày "Cách mạng thành công", Hồ Duy Hùng cho măi đến năm 2000 mới được báo chí "quốc doanh" ở Sàig̣n đề cập tới: Bán Nguyệt San Thanh Niên với bài: "Người hùng lặng lẽ", tờ Phụ Nữ Chủ Nhật với bài: "Vụ đánh cắp chiếc trực thăng UH-1...", và bài "Từ vụ án chiếc trực thăng UH-1" kéo dài 12 ngày trên một tờ báo nọ. Nếu không kể tới những chi tiết "chửi cha nhau" trong ba bài báo nói trên, th́ độc giả được biết đại khái (theo lời kể của Đại tá Quân báo VC Lê Nam Hà và được phóng viên "xào nấu" laị) th́ Hồ Duy Hùng (bí danh là Chính), trước kia hoạt động trong phong trào sinh viên học sinh tại Quy Nhơn, sau Mậu Thân 1968 vào Sàig̣n và được Việt cộng móc nối kết nạp vào "Quân báo đặc khu Sàig̣n-Gia Định". Sau khi đánh cắp chiếc trực thăng bay về "mật khu", Hùng và Nguyễn Tường Long, một cán bộ Không Quân VC được gửi tới để tháo gỡ chiếc trực thăng chuyển ra miền Bắc. Tại Sơn Tây hai người này ráp trở lại và bay thử thành công. Sau đó cả hai trở lại miền Nam hoạt động, c̣n chiếc trực thăng th́ được xử dụng trong viện huấn luyện phi công Bắc Việt. Nguyễn Tường Long, nguyên là một kỹ sư gốc Việt kiều (cha Việt, mẹ Pháp) ở Lyon - Pháp; sau t́nh nguyện về nước tham gia "Cách mạng". Điều đáng lưu ư là khi các báo nói trên đồng loạt khai thác vụ "đánh cắp trực thăng" này th́ Nguyễn Tường Long đă chết. Từ đó đưa câu hỏi: phải chăng v́ "chiến sĩ quân báo Hồ Duy Hùng" chỉ là câu chuyện bịa đặt cho nên phải đợi tới lúc một trong hai vai chính về chầu "bác" th́ mới dám "phịa"? Hỏi tức là trả lời. Và chỉ có câu trả lời đó mới có thể giải thích tại sao sau ngày 30/4/1975, CSVN không rầm rộ tuyên dương "người hùng" Hồ Duy Hùng mà phải đợi đến 15 năm sau? Xét về công trạng, việc "đánh cắp một chiếc trực thăng ngay trước mũi địch rồi chuyển ra miền Bắc" (nguyên văn trên báo VC) của Hồ Duy Hùng nếu không hơn th́ cũng phải bằng vụ dội bom Dinh Độc Lập của Nguyễn Thành Trung! Hiện nay "đồng chí" Hồ Duy Hùng đang giữ một chức vụ khiêm nhượng: Giám Đốc Công Ty Du Lịch Phú Thọ! * Bị pḥng không Việt Cộng bắn: Theo lời kể của Đại tá Quân báo VC Lê Nam Hà th́ việc Hồ Duy Hùng đánh cắp trực thăng bay về đáp ở đồn điền cao su Dầu Tiếng, thuộc mật khu Lộc Ninh là "nằm trong kế hoạch", và các đơn vị địa phương đă được Bộ chỉ huy Miền thông báo trước để chuẩn bị đón "người chiến sĩ phi công anh hùng". Thế nhưng trên thực tế th́... "Thấy máy bay địch bay về căn cứ của ta, các chiến sĩ giải phóng bắn lên. Máy bay bị trúng nhiều vết đạn nhưng ghế ngồi của phi công có tấm chắn pḥng đạn nên ông Hồ Duy Hùng không bị thương. Ông hạ thấp độ bay pḥng đạn và đă đáp xuống rất chính xác trong một băi không rộng lắm dưới rừng cao su." (Nguyên văn trên báo Thanh Niên). Theo báo Phụ Nữ Chủ Nhật th́ lúc đó Hùng liên lạc với điện đài đơn vị (của VC) không được là v́ "đồng chí trực điện đài đột ngột bỏ đi uống nước"!!! Tác giả hai bài báo nói trên - Mạc Đại và Nguyễn Phương Thảo - cho biết họ viết " theo lời kể của Đại tá Nguyễn Nam Hà - nguyên phó giám đốc Quân báo Sàig̣n & Gia Định và đồng chí Hồ Duy Hùng tức Chính", nhưng giữa hai bài báo đă có nhiều chi tiết mâu thuẫn tới mức không thể chấp nhận. Chẳng hạn, trong khi Mạc Đại của báo Thanh Niên viết rằng chiếc UH-1 nói bị trúng đạn, sau khi được tháo gỡ, vận chuyển ra phi trường Ḥa Lạc ở Sơn Tây (miền Bắc) th́ "Từ Hà Nội, Trung đoàn Không Quân Vận Tải đă phải điều tới một xe công tŕnh có đủ phương tiện sửa chữa và một toán cơ khí...", th́ Nguyễn Phương Thảo của báo Phụ Nữ lại viết "... Sau khi kiểm tra chiếc máy bay, Ban Quân Báo tiếp tục phân công Chính (H.D.Hùng) nhiệm vụ mới là dùng máy bay mang bom thả vào Dinh Độc Lập đúng vào 9 giờ sáng ngày 1 tháng 1 năm 1974 là ngày mà Thiệu và nội các tụ tập đón mừng năm mới. Bom đă được đặt làm, Chính cũng đă chuẩn bị các phương tiện kỹ thuật để thực hiện nhiệm vụ. Nhưng đến giờ phút chót, cấp trên đề nghị hủy bỏ kế hoạch này và thay vào đó là một nhiệm vụ khác" (tháo gỡ để mang về Bắc). Việc để "mất cắp" một chiếc phi cơ để cuối cùng lọt vào tay địch là một việc đáng trách - và rất đáng buồn khi người chịu trách nhiệm lại là một trong những cấp chỉ huy đáng kính phục nhất là trong ngành trực thăng - Cố Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa. Tuy nhiên Lư Tưởng Úc Châu nhắc lại chuyện cũ không với mục đích chê trách người đă khuất mà chỉ để mọi người được biết rơ về một biến cố trong quân chủng (cũng như số phận của chiếc trực thăng mang số đuôi 60-139) - hiện đang được các nhà báo của chế độ CSVN thêu dệt và khai thác - một cách trâng tráo và rẻ tiền. Tiếp theo chúng tôi xin giới thiệu tới chiến hữu KQ và độc giả bài tường thuật của một người trong cuộc, đó là anh cơ phi Phạm Minh Mẫn của chiếc trực thăng trong phi vụ nói trên. _________________ Vụ mất máy bay trực thăng UH-1 số 60139 - Ngày 7 tháng 11 năm 1973 MINH MẪN, Cơ Phi PĐ 219 Sáng sớm ngày 6 tháng 11 năm 1973, Thiếu Tá Huỳnh Xuân Thu gặp tôi và nói "Chú về sửa soạn đi bay Quảng Đức ngay, nhớ mang theo đồ ngủ đêm". Tôi chộp vội bộ đồ nhái, cái mền dù và trang bị vệ sinh cá nhân cùng một bộ Domino, sau đó tôi theo Anh Thu và Trung Tá Nguyễn Văn Nghiă (Phi đoàn trưởng) ra kiểm tàu số đuôi 139 để bay đi Quảng Đức thăm biệt đội đang biệt phái tại đây. Trung tá Nguyễn Văn Nghĩa đang được gắn cập bậc mới trong ngày vinh thăng (1973). Sau năm 1975, ông bỏ ḿnh trong trại cải tạo ở miền Bắc Khi đến nơi, Chi khu trưởng thuộc tiểu Khu Phú Bổn tiếp đón rất niềm nở, pḥng nghỉ của biệt đội và chi khu gần nhau nhưng lại xa sân bay: từ sân bay qua một con phố, xuống dốc rồi lại ṿng lên nơi nghỉ ngơi của Biệt Đội 219. Khí hậu ở đây ban ngày th́ rất nóng nực nhưng ban đêm lại lạnh vô cùng v́ chung quanh toàn là núi đá. Anh Nghiă và Anh Thu đi thăm từng nơi ở và làm việc của Biệt Đội, hỏi thăm t́nh h́nh cuộc sống ăn ở của anh em, sau đó anh muốn ở lại đêm để khích lệ tinh thần anh em. Chiều xuống, cái giá lạnh bắt đầu và rất buồn tẻ. Phố xá không có sự nhộn nhịp, người ta tụ tập ở nhà không muốn ra ngoài đường và trời càng lúc càng tối chỉ leo lét những bóng đèn vàng ố không đủ thắp sáng một căn pḥng, v́ vậy anh em biệt đội chỉ ngồi bù khú trong giây lát rồi tất cả đi ngủ. Nơi đây không có gường, chỉ có ghế bố xếp nhà binh và có đôi khi anh em phải ngủ chung một ghế bố v́ không có đủ; cũng may v́ trời lạnh nên ngủ chung cũng không đến nỗi khó chịu. Khoảng 10 giờ đêm, khi mọi người đă ngủ th́ Chi Khu xuống báo địch quân hăm đánh vào chi khu và sân bay. Thế là toàn bộ anh em ra ứng chiến tại sân bay. Tất cả mở máy kiểm tra t́nh trạng phi cơ rồi tắt máy nghe Trung Tá Nghiă hướng dẫn bản đồ và phương hướng bay trong trường hợp chi khu bị overrun, sau đó ai nấy về tàu. C̣n lại ba thầy tṛ chúng tôi trong tàu và một phi công nữa tôi quên tên ngồi chơi Domino, cứ chơi như vậy cho đến sáng. Ban đầu th́ tôi thắng nhưng đến gần sáng th́ Anh Nghiă gom sạch. Sáng sớm hôm sau chúng tôi bay trở về Nha Trang, bay một đoạn Anh Nghiă nói " Thu, chú bay thử vào đám mây kia xem". Anh Thu bay vào khoảng 5 phút, Anh Nghiă bay ra lại và nói "Chú không chịu khó bay instrument, bay ǵ mà kỳ dzậy?". Rồi Anh Nghiă lại nói Anh Thu bay vào trong mây, rồi Anh Nghiă lại bay ra, mây mỏng cứ lấp phất lướt qua phi cơ. Sau đó Anh Nghiă lại nói Anh Thu bay vào cụm mây dầy kia thử xem, rồi càng lúc máy bay càng vào sâu trong mây, mây mỗi lúc một sậm lại, lúc này Anh Nghiă cầm control và anh nói huyên thuyên đủ thứ chuyện trên đời. Anh hỏi tôi:"Mẫn, chú thấy mây thế nào, mây màu ǵ kia?". Tôi lưỡng lự nh́n vào mây trước mặt và nói "Tôi thấy mây màu Hồng Trung Tá!". Anh Nghiă phá lên cười "Trời ơi! Thằng này Vertical quá rồi (ư nói Vertigo), cho chú cầm cần lái chắc chết hết anh em". Rồi anh quay sang Anh Thu cũng hỏi mây màu ǵ và anh cứ nói, chỉ dạy lung tung trong khi anh cứ tiếp tục bay trong mây, 15, 20, rồi 30 phút, anh vẫn b́nh tĩnh bay, phi cơ êm ru. Gần một tiếng đồng hồ sau, Anh Nghiă thấy cây lờ mờ phía dưới, hỏi Anh Thu "Chú biết ḿnh bay tới đâu rồi không?", Anh Thu chưa kịp đáp th́ Anh Nghiă đă chỉ con đường ở phiá dưới nói là Đơn Dương. Anh theo con đường đó bay đến Đà Lạt với ư định thăm một nhân viên phi hành của 219 đang nghỉ dưỡng thương tại đây. Lúc 9 giờ sáng, phi cơ đáp xuống bờ hồ Xuân Hương bên cạnh nhà hàng Thủy Tạ, tôi cất hành trang của tôi vào sau tail cone, ngay chỗ oil cooler fan. Sau đó ba thầy tṛ đi vào tiểu khu Tuyên Đức nhờ gởi phi cơ nhưng không gặp ALO, đại diện không quân ở đó, định bay vào sân bay Cam Ly nhưng từ đó lại không có phương tiện ra thành phố, hơn nữa lúc đó thời tiết quá xấu, bay vào đáp ở trung tâm Đà Lạt là đă giỏi lắm rồi. Chúng tôi trở lại máy bay, sau đó Anh Nghiă rủ lên nhà hàng Mekong uống cà phê và ăn sáng. Tôi xin Anh Nghiă cho về nhà v́ nhà Bác tôi ở đối diện với cửa sau bên hông nhà hàng Mékong, thấy ngay sát bên, Anh Nghiă đồng ư cho tôi về nhà, hẹn khi nào về th́ hai anh sẽ đến gọi. Tôi ở nhà chơi và chờ các anh gọi bay về Nha Trang, nhưng măi đến 1 giờ rưỡi trưa vẫn không thấy các anh đến gọi. Tôi chạy sang nhà hàng Mékong th́ không thấy các anh đâu, Sau đó tôi nhờ Bác tôi chở ra nhà hàng Thủy Tạ chỗ đậu phi cơ, khi ra đến nơi th́ không thấy phi cơ đâu cả, chạy qua sân vận động gần đó cũng không thấy. Tôi nghĩ chắc Anh Nghiă và Anh Thu đă bay về Nha Trang mà quên gọi tôi rồi, hay là không lẽ Trung Tá lại đến nhà Thượng Sĩ gọi đi bay?... Các câu hỏi chỉ quanh quẩn vào những điều vô lư đó, và tôi lại lo thêm nữa là khi Anh Nghiă và Anh Thu bay về th́ đồ đạc của tôi dấu vào sau chỗ oil cooler fan lỡ cái mền dù hay bộ đồ nhái nó rơi ra và bị hút vào trong cánh quạt của oil cooler th́ khổ! Rồi thắc mắc và lo âu cứ như thế dồn dập, rồi cái túi đựng helmet đă kép phẹc-mơ-tuya chưa?...Thật t́nh lúc đó tôi rất lo sợ, không sợ Anh Nghiă la rầy mà sợ lỡ phi cơ có bị ǵ th́ sao? Hai anh có sao không? Tôi quay ngay ra bến xe đ̣ mua vé trở về Nha Trang, dọc đường tôi rất lo lắng và mệt mỏi, rồi gục trên ghế trước ngủ thiếp đi, lát sau giật ḿnh thấy có người nắm tay tôi, tỉnh lại thấy tay ḿnh để trên đùi cô gái ngồi bên cạnh, cô cầm tay tôi để nhẹ qua đùi tôi. Tôi quê quá, vội vàng xin lỗi cô, cô nói thấy tôi có vẻ bồn chồn lo lắng. Cô gái cởi mở và thật có duyên với đôi răng khểnh dễ thương. Tôi quên hết mọ bồn chồn lo lắng, bắt đầu tấn công cô gái, suốt chặng đường chúng tôi đă quen nhau, khi về đến Nha Trang chúng tôi cùng đi ăn và Hường tên cô bé, đă cho tôi địa chỉ hẹn ngày hơm sau tôi sẽ đến t́m. Khi về đến trại Hàm Tử khu gia binh của phi đoàn 219, lúc đó khoảng 7 giờ rưỡi tối, Hồng "già" chặn tôi lại hỏi: "Mày có biết ǵ không? Mày bay của mày bị mất cắp rồi", tôi chỉ cười v́ cho đây là lời đùa, và như vậy là Anh Nghiă, Anh Thu đă về rồi, tôi thấy yên trí hơn. Sau đó tôi gặp Trần Mạnh Khiêm, nó nói: "Mày về phi đoàn đi, máy bay bị mất rồi, để tao chở mày vô!". Mọi người đều nói một cách nghiêm trang như vậy nghiă là có thật. Lúc này tôi không c̣n hoang mang nữa, chẳng hiểu v́ sao, không thấy sợ, không thấy lo nghĩ, cứ dửng dưng như không có chuyện ǵ cả. Có lẽ v́ mấy chữ "mất máy bay" hay "mấy cắp máy bay" nó không có trong tự điển lưu trữ trong đầu tôi, thành ra đầu tôi cứ trống rỗng. Cũng có thể chỉ số thông minh của tôi thấp, không biết suy nghĩ và không biết phản ứng như thế nào, hoặc v́ tôi mệt lả cả người?... Vừa về tới cửa pḥng trong trại Bắc B́nh Vương định lấy ch́a khoá mở cửa pḥng th́ có hai Trung Sĩ Không Quân ngồi trên xe Ford Pick-up chờ sẵn ở đó, họ lại chào và hỏi tôi:"Xin lỗi có phải Thượng Sĩ Mẫn không ạ?". Tôi trả lời ngay: "Vâng, tôi đây". Một trong hai người nói:"Chúng tôi mời Th/sĩ lên Pḥng An Ninh có việc cần". Tôi trả lời:"Tôi vừa mới về, các anh có thể cho tôi tắm một cái rồi tôi lên ngay". Nhân viên an ninh trả lời:"Không có ǵ đâu, Th/Sĩ lên một chút xíu rồi về tắm cũng được mà". Mặc dù mệt mỏi tôi cũng phải lên Pḥng An Ninh, việc đầu tiên là họ phủ đầu tôi trước, đưa tôi vào căn pḥng 12 mét vuông, cửa sổ bị đóng bít lại bằng ván ép dằn từ phía bên ngoài, không có đèn điện. Một lát sau họ quăng vào một cái chiếu đơn và 4 cây đèn cầy của em bé đốt đèn Trung Thu, rồi khoảng 15 phút sau, họ đứng bên ngoài quăng vào cái bô nhôm, nghe một cái cảng, và cứ 15 phút họ lại mở cửa rọi đèn bin vào xem tôi có tự tử hay không? Khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ sau th́ vị Đại Úy An Ninh tôi quên mất tên, cho gọi tôi lên, lúc này khoảng 10 giờ đêm. Thấy điệu bộ của vị Đại úy An Ninh, tôi hiểu ngay rằng năy giờ họ làm như vậy là để hù họa tôi và cũng để câu giờ chờ sĩ quan đến thẩm vấn tôi. Vị Đại Úy nói:"Tôi biết Th/Sĩ chỉ là tép riu thôi, như vậy không có ǵ phải sợ, Th/Sĩ cứ tŕnh bày mày bay rời Nha Trang lúc mấy giờ và đến Quảng Đức làm ǵ, sau đó mấy giờ cất cánh và xuống Đà Lạt lúc mấy giờ, và gặp ai, trông thấy ai, rồi đi về hướng nào, và cứ như thế cho đến khi Th/Sĩ khám phá ra mất máy bay". Rồi ông ta đưa cho tôi một xấp giấy bơ-luya và một cây bút bi, tôi cứ hí hoáy viết và kể lại toàn bộ những ǵ tôi biết được, theo dàn bài và cách thức sắp xếp của ông Đại Úy đưa ra. Xong, vị Đại Úy đọc lại rất cẩn thận, rồi đọc lại cho tôi nghe, sau đó nói là sai chưa đúng, bắt tôi khai lại và ông cất tờ kia đi. Cứ như thê nhiều lần... Cho đến 2, 3 giờ sáng, tay tôi cứng lại không c̣n viết được nữa, vị Đại Úy mới cho tôi nghỉ và đưa về pḥng giam. Về phần Anh Nghiă và Anh Thu khi đến nhà Bác tôi gọi tôi đi về th́ Bác tôi mới nói:"Nó ra chỗ đậu máy bay không thấy máy bay đâu cả, nó sợ các ông bỏ nó nên nó lên xe đ̣ về Nha Trang rồi". Lúc đó hai anh mới hết hồn, nhờ Bác tôi lấy xe LaDaLat chở vô phi trường Cam Ly vẫn không thấy, sau Bác tôi đưa về Tiểu Khu Tuyên Đức ḍ hỏi vẫn không ra, cuối cùng hai anh quyết định tŕnh diện Tiểu Khu báo cáo sự việc và nơi đây Pḥng An Ninh của Tiểu Khu đưa hai anh về Pḥng An Ninh Không Quân Nha Trang ngày 8 tháng 11 năm 1973. Tại Nha Trang hai anh không bị giam giữ, hai anh ở nhà và nhân viên điều tra đến tận nhà làm việc. Tôi bị giam như vậy lúc đầu tưởng về ngay nên tôi chỉ nhờ bạn đưa vào cái dù thả trái sáng để làm mùng, nhưng rồi vừa nóng vừa ngộp, tôi cứ lấy thuốc là châm thủng từ từ, lúc đầu lỗ nhỏ và ít, sau đó lỗ to và nhiều hơn, cuối cùng th́ nó cũng như không v́ chỗ nào cũng có muỗi. C̣n ăn uống th́ mỗi bữa nhờ nhân viên an ninh mua dùm ổ bánh ḿ và một bịch nước mía, c̣n bạn th́ chẳng thấy ma nào dám bén mảng đến nữa, có lẽ họ sợ liên lụy chăng hay là Pḥng An Ninh không cho thăm viếng? Ăn bánh ḿ măi không thể nuốt nổi, mà Pḥng An Ninh không có quy chế ăn uống. Tôi phải tự túc mua ở ngoài, tưởng hết chịu nổi th́ sau một tuần lễ, họ lại mời Thiếu Tá Thu vào ở chung với tôi, lúc đó họ mới cho khiêng hai cái gường sắt rồi đóng cửa lại. Lát sau, vị Đại úy điều tra tôi vào xin lỗi:" Thiếu Tá thông cảm, tôi phải đóng cửa lại", Anh Thu tức giận:"Thiếu Tá cái ǵ, tao là thằng tù!", Đại Úy An Ninh trả lời:"Lệnh trên chứ tôi đâu dám...", Anh Thu tức giận nhảy chồm tới:"Tao là thằng tù...", vị Đại Úy nhảy vội ra ngoài và từ đó ngày đêm không đóng cửa nữa. Rồi mỗi bữa Chị Thu mang vào hai phần cơm cho Anh Thu và cả cho tôi nữa, Chị c̣n làm một lon ghi-gô đậu phộng da cá cho Anh Thu nhưng anh không thích ăn nên giao cho tôi "xử lư" nó. Hai thầy tṛ được tự do đi lại, hay là ra ngoài sân hóng mát khi thoải mái. Sau khi đối chiếu tất cả những lời khai của Anh Nghiă, Anh Thu và tôi, Pḥng An Ninh Không Quân chuyển hồ sơ về Bộ Tư Lệnh Không Quân cho Trung Tướng Trần Văn Minh duyệt xét, sau đó chuyển lên cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, xem xong Tổng Thống bác lời khai của chúng tôi. Thế là thấy tṛ chúng tôi phải khai lại, và cứ như thế khai đi khai lại cho đến lần thứ ba, Trung Tướng Trần Văn Minh tuyên bố ông đă duyệt xét theo hệ thống quân giai, nếu Tổng Thống c̣n bác nữa tức là không tín nhiệm ông sẽ từ chức, đồng thời Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh cũng can thiệp yêu cầu Tổng Thống xét lại, cho tới lúc đó ông Thiệu mới chịu duyệt. (Trung tá Nguyễn Văn Nghĩa là người Công Giáo, tên thánh là Paul (Phao-lô), gia đ́nh là chỗ thân thiết với Đức Tổng Giám Mục Sài G̣n Phao-lô Nguyễn Văn B́nh. Ông ghé Đà Lạt với ư định thăm Đại úy Phạm Công Khanh của 219 đang dưỡng thương tại đây. Chú thích của Thiên Ân) Hết tuần lễ thứ hai, họ đưa Anh Nghiă lên Pḥng An Ninh làm thủ tục, xong xuôi họ giải cả ba thầy tṛ chúng tôi ra Đại Đội 24 Quân Cảnh Tư Pháp Nha Trang. Cơ sở của Quân Cảnh Tư Pháp Nha Trang là một dăy nhà cất theo kiểu dă chiến của Pháp, các pḥng làm việc th́ bừa bộn, thiếu tiện nghi, hồ sơ để lung tung, nhưng cách làm việc có vẻ chuyên môn hơn Pḥng An Ninh KQ Nha Trang. Khi chúng tôi đến nơi, một vị Đại Úy chấp pháp lấy cung chúng tôi từng người một, và không như trong An Ninh KQ, ở đây họ hỏi theo thứ tự lớp lang và họ ghi chép lấy chứ không để chúng tôi tự ghi chép. Anh Nghiă vào làm việc trước, sau đó đến Anh Thu. cuối cùng mới đến tôi. Sau khi Anh Nghiă ra, Anh Thu vào làm việc. Vị Đại Úy chấp pháp lấy cung rất là lâu nên tôi có hơi bồn chồn, và có vẻ buồn buồn ưu tư. Anh Nghiă thấy vậy nói:"Này cái thằng chết nhát, có ai khai cho chú đâu mà cái vẻ mặt lo lắng, lo sợ vậy hả?... Xem anh đây này, sự nghiệp, địa vị, danh vọng, vợ con... mất hết mà anh có lo lắng điều ǵ đâu, sự việc đă xảy ra rồi th́ điều ǵ đến nó sẽ đến, có lo lắng cách nào th́ nó cũng phải đến vậy thôi..." Rồi việc lấy cung của chúng tôi cũng kéo dài đến chiều, xong họ sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho chúng tôi. V́ ở đây chỉ có pḥng tạm giam, mà pḥng tạm giam th́ toàn là lính "trời ơi" không thôi, nào là x́-ke, ăn cắp, hiếp dâm, đào ngũ, đánh lộn .v..v.., mà pḥng th́ chỉ là cái cũi làm bằng vỉ sắt phi trường, chung quanh trống trơn, mái cũng bằng vỉ sắt, nếu mưa th́ chịu trận vậy thôi. V́ không có chỗ giam riêng chúng tôi nên buộc ḷng họ phải nhường ba cái gường sắt của họ cho ba thầy tṛ chúng tôi nằm, c̣n họ nằm dưới đất. Sau năm ngày đúc kết hồ sơ thụ lư của chúng tôi, họ đưa Anh Nghiă vô Quân lao c̣n Anh Thu và tôi được cho về. Lúc này tôi mới nhớ tới cô bé tên Hường mà tôi mới chỉ nắm tay được trước đó 20 ngày. Tôi lục t́m địa chỉ mà em cho tôi, nó thất lạc mất rồi, tôi tiếc ngẩn người, đă hụt mất một nàng thật dễ mến và đáng yêu. Vài ngày sau, tôi vào Quân Lao Nha Trang thăm Anh Nghiă. Trông thấy tôi, anh nói đùa:"Cái thằng chết nhát, mày vô đây làm ǵ, họ bắt nhốt mày bây giờ". Tư cách của anh thật ung dung. Tôi đưa cho anh quyển "Papillon" (Người tù khổ sai), anh ph́ cười khi thấy tựa cuốn truyện. Và anh kể cho tôi biết ngày anh vô đây, gặp một tên "Đại bàng" trong tù, khi hắn ta biết anh là phi đoàn trưởng phi đoàn 219, hắn kính phục anh ngay, v́ hắn cũng là một quân nhân, đă từng nghe những huyền thoại về 219. Ngoài đời hắn là một tay anh chị khét tiếng ở Nha Trang, và hắn đă có lần đụng độ với những tay ĺ lợm của 219 vào những năm 1968-69, khi phi đoàn chưa dời về Nha Trang (h́nh như hắn là kẻ đă chém lầm vào tay anh Châu Lương Cang tại Bar số 1). Gặp Anh Nghiă hắn nể phục ngay và ra lệnh cho đàn em phục vụ Anh Nghiă mọi nhu cầu. Hắn tuyên bố với các đàn em rằng Anh Nghiă là một "Đại ca giang hồ trí thức" của hắn. Về phần Anh Nghiă, sau này cứ mỗi tháng hay vài tuần là Đại Tá Đặng Duy Lạc hay Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Lượng lại bảo lănh cho về phép... Đến tháng 5 năm 1974,Anh Thu và tôi được Ṭa Án Quân Sự Nha Trang mời ra làm việc và mọi sự lại khai lại như ban đầu. Sau đó, trong phiên ṭa xử ngày 12 tháng 7, Anh Nghiă bị tuyên án "8 tháng tù ở, kể từ ngày bị bắt giam". Phiên ṭa kết thúc, mọi người chạy lại chúc mừng anh v́ anh đă trong quân lao 9 tháng, quá thời gian ṭa tuyên án. Từ đó anh về nhà luôn. Trong năm 1974, không ai cắt tôi đi bay nữa, chỉ trực tại phi đoàn. Lúc này Anh Huỳnh Văn Phố lên làm quyền Phi Đoàn Trưởng, sau hoán chuyển với phi đoàn trưởng 253 ngoài Đà Nẵng là Thiếu Tá Phạm Đăng Luân về làm Phi Đoàn Trưởng 219, Anh Huỳnh Xuân Thu làm Phi Đoàn Phó, Anh Trần Ngọc Thạnh làm Sĩ Quan Huấn Luyện, Anh Phạm Ngọc Sâm làm làm Trưởng Pḥng Hành Quân. Buổi đầu, Anh Sâm cắt bay không để ư đến sự trùng hợp tên tuổi của nhân viên trong phi đoàn nên có vài việc buồn cười xảy ra như khi cắt một phi hành đoàn biệt phái đi Ban Mê Thuột, anh đă ghi trên bảng phi lệnh;"PHĐ: Bơ - Đường - Xả -Cải" (Phan Công Bơ, Trưởng phi cơ - Lư Bổn Đường, Hoa tiêu phó - Hồ Văn Xả, Mevo - Lê Văn Cải, Xạ thủ), thế là mọi người được một mẻ cười v́ nguyên phi hành đoàn toàn đồ ăn, không sợ đói. Sau anh cắt một phi hành đoàn cũng bay đi Ban Mê Thuột, sáng ra các anh thấy tên của phi hành đoàn này th́ đều rụng rời tay chân: "Kiệt - Lực - Quan - Tài" (Vơ Tấn Kiệt, TPC - Nguyễn Hùng Lực, HTP - Nguyễn Văn Quan, Mevo - Nguyễn Văn Tài, Xạ thủ), không anh nào chịu bay cả. Anh Sân phải cắt bay lại với các tên khác các anh mới đi bay... Minh Mẫn 219 |
Trường Hậu Đại Học Hải-Quân Hoa-Kỳ (U.S. Naval Postgraduate School)
1 Attachment(s)
Lời giới thiệu: Cựu Hải-Quân Trung-Úy Trần Trúc Việt xuất thân khóa 19 sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang. Năm 1972, khi đang ṭng sự trên Hải-Vận-Hạm Ninh-Giang HQ 403 và sắp thuyên chuyển về Giang-Đoàn 21 Xung-Phong, ông Việt được chấp thuận sang Hoa-Kỳ du học. Ông Việt thụ huấn khóa II Communications tại Naval Postgraduate School. Đọc những ḍng sau đây, quư vị sẽ có ư niệm rơ ràng hơn về một trong những trường Hải-Quân có tầm vóc quốc tế mà nhiều sĩ quan Hải-Quân V.N.C.H. đă theo học. Naval Postgraduate School (NPS) là trường đại học cao cấp nhất được trực tiếp quản trị bởi Bộ-Hải-Quân Hoa-Kỳ. Trường NPS nằm trong thành phố Monterey, thuộc tiểu bang California, một thành phố du lịch nằm ven biển với khí hậu mát mẻ gần như quanh năm, cách San Jose độ hơn một giờ lái xe. Nói đến NPS là nói đến một trường đại học có rất nhiều sĩ quan thuộc các quốc gia đồng minh của Hoa-Kỳ theo học, dĩ nhiên trong đó có các sĩ quan Quân-Lực V.N.C.H., đa số xuất thân từ Trường sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang và Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt. Sơ Lược về Sự Tổ Chức của Naval Postgraduate School Trường Hậu Đại-Học Hải-Quân Hoa-Kỳ gồm có ba khối: General Lines School, Engineering School và Management School. Management School (Tạm dịch là Trường Quản-Trị). Trường này có lớp riêng cho sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ và lớp riêng, ngắn và dài hạn dành cho sĩ quan đồng minh. (International Defense Management Course). Trường NPS không chỉ dành riêng cho sĩ quan Hải-Quân, mà thời đó, chính phủ V.N.C.H. gửi cả sĩ quan Lục-Quân, Không-Quân và luôn cả công chức cao cấp quốc pḥng sang tu nghiệp. Về sau, Hoa-Kỳ mở ngay tại Việt-Nam lớp quản trị cho Quân-Lực V.N.C.H. Engineering School (Tạm dịch là Trường Kỹ Thuật và Cơ khí). Trường này dạy cho sĩ-quan Hải-Quân Hoa-Kỳ xuất thân từ Annapolis và General Lines School và cũng dạy cho sĩ-quan Hải-Quân Đồng-Minh. Những sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam theo học trường này được chia ra hai nhóm: Sĩ quan cơ khí học các ngành như: Mechanical, Electronic… Sĩ quan chỉ huy học các ngành: Communications, Operations Research, Aerology… General Lines School (Tạm dịch là trường dạy ngành chỉ huy). Đa số sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ theo học tại NPS đều xuất thân Annapolis Naval Academy. Sĩ quan nào xuất thân từ OCS hoặc Naval Aviation School, v. v… đều phải ra đơn vị phục vụ một thời gian tối thiểu là hai năm rồi mới được xin về NPS học tiếp để lấy bằng Cao Học (Master’s Degree), hoặc tiến sĩ (Ph.D.); do đó NPS được gọi là trường hậu đại học. Những sĩ quan đồng minh, nhất là sĩ quan Hải-Quân Việt-Nam, theo học trường này đều phải là sĩ quan ngành chỉ huy. Những Tiêu Chuẩn Được Tuyển Chọn Để Theo Học Trường NPS Qua chương tŕnh MAP (Military Assistance Program) của chính phủ Hoa-Kỳ, sĩ quan Hải-Quân muốn theo học Trường NPS phải hội đủ những điều kiện sau đây: Có văn bằng hoặc chứng chỉ của phân khoa Đại Học Khoa-Học Saigon; điểm Anh ngữ tối thiểu 80; và hồ sơ quân bạ phải không có “củ”. Ban Du Học thuộc Pḥng Quân-Huấn, Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân có nhiệm vụ xét đơn các ứng cử viên xem có đủ điều kiện hay không sau đó hồ sơ hợp lệ của sĩ quan ghi danh sẽ được chuyển về Trường NPS để duyệt xét, tuyển chọn và quyết định. V́ phương pháp tuyển chọn do chính Trường NPS quyết định chứ không phải do Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân cho nên rất công b́nh. Sau khi nộp hồ sơ, các sĩ quan phải chờ để được gọi về thi Anh ngữ tại trường Sinh-Ngữ Quân-Đội. Nhiều sĩ quan bị loại v́ không về kịp để thi Anh ngữ. Trường hợp của tôi khá may mắn, hai lần trước về không kịp v́ tàu đang công tác; lần thứ ba – cũng là lần chót – bảy giờ sáng tàu vừa cặp bến chưa cột hết giây, tôi đă xin phép Hạm-Trưởng “phóng” xuống bờ, lấy Honda chạy một mạch đến Trường Sinh-Ngữ Quân-Đội, vừa kịp giờ vào pḥng thi. Được Chấp Thuận và Lên Đường Du Học Trong đợt tôi đi, danh sách có năm sĩ quan. Bốn người, kể cả tôi, cùng khóa và một người khóa đàn em. Trong bốn người cùng khóa, có một anh nổi tiếng từ quân trường và có biệt danh là “Gà Tồ”. Anh này phải ở lại đi sau v́ không đủ điểm Anh ngữ; lư do v́ mê chơi cờ tướng nên thường bỏ học Anh ngữ và phải kể cộng thêm cái “gà tồ” của anh nữa. Những sĩ quan được chính thức lên đường phải qua một số thủ tục cần thiết như: xin Thông Hành Quân-Vụ, Sự Vụ Lệnh, chiếu khán nhập cảnh, may quân phục, đổi tiền, v. v… Chúng tôi đi bằng phi cơ từ phi trường Tân-Sơn-Nhất, dừng tại Hawaii độ hai giờ rồi bay thẳng sang Lackland Air Force Base, San Antonio, Texas, để học thêm ba tháng Anh ngữ. Sau thời gian học Anh ngữ, bốn người chúng tôi đáp máy bay sang Travis Air Force Base, California; từ đây, chúng tôi lấy bus đến Trường NPS. Trong thời gian di chuyển từ Việt-Nam sang Mỹ, mặc dù Anh văn đă học “một bụng” nhưng mà nói th́ múa máy tay chân hơi nhiều. Nhờ đi chung bốn đứa cho nên cũng đỡ, trật đứa này c̣n đứa khác. Trường hợp anh “Gà Tồ” th́ bi đát hơn, v́ anh đi trễ nên chỉ có một ḿnh. Anh kể rằng khi ghé tạm nghỉ ở Hawaii, anh đi t́m rest room – danh từ duy nhất anh học tại trường Sinh ngữ Quân-Đội – đi mấy ṿng mà không thấy rest room đâu cả, chỉ thấy mấy nơi đề Gentlemen, anh ngẩm nghĩ, không biết ḿnh có được xem như là một Gentleman hay không, v́ quần áo xốc xếch quá. Cuối cùng anh đành nhịn, không dám mở cửa bước vào! Chương Tŕnh và Các Môn Học Mặc dù được Bộ-Hải-Quân quản trị, nhưng thật ra không có ǵ là quân đội cả, chương tŕnh học không khác ǵ các trường Đại Học dân sự, ngoại trừ phải lấy nhiều môn học cho mỗi quarter, gần như gấp đôi so với các đại học ngoài. V́ vậy mà ghế trong thư viện của NPS được các sĩ quan “đánh bóng” rất kỹ vào những ngày cuối tuần; đặc biệt là sĩ quan thuộc các quốc gia đồng minh. Những môn học thường được sĩ quan Việt-Nam theo học gồm: Electronic Engineering Mechanical Engineering Communications Operations Management Operations Research. Ban giảng huấn đa số là giáo sư dân chính. Nếu tôi không lầm th́ có tất cả ba khóa học dài hạn được Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân gửi sĩ quan theo học qua chương tŕnh MAP. Ngoài ra, tại NPS có hai khóa huấn luyện ngắn hạn đặc biệt về Quản-Trị Quốc-Pḥng (Defense Management) mỗi năm một lần dành riêng cho sĩ quan cấp Tướng; khóa ba tháng dành cho sĩ quan cấp Đại-Tá. Mỗi năm đều có nhiều sĩ quan cao cấp Việt-Nam theo học hai khóa này. Một người rất đặc biệt trông coi về hành chánh và giao tế cho hai khóa Quản-Trị Quốc-Pḥng tại NPS mà tất cả sĩ quan đều kính trọng v́ sự phóng khoáng và giúp đỡ tận t́nh của Bà. Đó là bà Betty Field. Có thể nói, không một sĩ quan nào theo học tại NPS, khóa ngắn hạn cũng như dài hạn, mà không nhận được sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần của Bà. Sau tháng 4-1975, v́ sự tận t́nh tranh đấu và giúp đỡ những sĩ quan Việt-Nam c̣n đang theo học tại Trường đang gặp khó khăn, Bà đă được sự kính mến và xem như là “Mẹ Tinh Thần” của các sĩ quan tị nạn. Tôi cũng như nhiều sĩ quan khác bọi Bà bằng Mom. Các con của tôi gọi Bà bằng Grandma. Hiện giờ Bà vẫn c̣n trông coi các khóa Quản-Trị Quốc-Pḥng tại NPS. Trợ Cấp Tài Chánh Học Hành và Ăn Ở Với số tiền trợ cấp 600 Mỹ kim một tháng - không thuế - được coi là dư giả đối với vật gía vào năm 1972, xăng 32 xu một ga-lông và đi chợ 20 Mỹ kim th́ đầy xe. Sĩ quan có thể thuê nhà ở ngoài, mua xe hoặc mặt thường phục đi học. Chương tŕnh học cũng giống như các đại học dân sự, không như mọi người lầm tưởng là sẽ nặng về quân sự. Có một anh bạn thuộc Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt, cụ bị đem theo đồ trận và giày trận, v́ nghĩ rằng chắc phải lăn lộn dữ dội ngoài thao trường; khi biết chương tŕnh chỉ toàn học chữ, anh cảm thấy lỡ bộ, bèn dấu biệt đôi giày trận, không bao giờ dám nhắc tới nữa. Đa số sĩ quan bị trở ngại khoảng ba tháng đầu. Sĩ quan Việt-Nam theo học tại NPS có năm đông nhất lên khoảng 21 người. Những khóa học Electronic, Mechanical và Communications kéo dài ba năm; khóa Operations Research khoảng hai năm rưỡi; khóa Operations Management khoảng 18 tháng. Sĩ quan Bộ-Binh thường theo học khóa Operations Research. NPS là trường đại học về văn hóa cao cấp nhất của quân đội Mỹ, được công nhận bởi hệ thống đại học Miền Tây Hoa-Kỳ và có quyền cấp phát văn bằng tiến sĩ. Một sĩ quan nổi tiếng trong Hải-Quân Việt-Nam là ông Nguyễn Tiến Ích. Ông xong cao học ở NPS và sau đó theo học ở MIT và đỗ bằng tiến sĩ. Trường hợp đặc biệt có hai sĩ quan đă hai lần theo học NPS, đó là Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Vân và Hải-Quân Trung-Tá Hà Ngọc Lương. Ông Lương về nước và tự tử chết khi xảy ra cuộc rút quân tại Nha-Trang vào đầu tháng 4 năm 1975. Anh Dzĩnh, một sĩ quan Bộ-Binh, nhỏ con nhưng bù lại anh có một khối óc thật vĩ đại, thuộc loại thiên tài. Anh Dzĩnh theo học khóa Operations Research, được tất cả giáo sư kính nể. Một giáo sư đă nói rằng: “Anh Dzĩnh có cả một thư viện trong đầu.” Anh về nước khoảng cuối năm 1974. Nhà trường sẵn sàng can thiệp để anh ở lại tiếp tục học lấy bằng tiến sĩ, nhưng anh từ chối. Những Sinh Hoạt Trong Trường và Ngoài Trường Hằng năm nhà Trường thường tổ chức nhiều buổi văn nghệ và triển lăm quốc tế, đặc biệt là ngày International Day. Vào ngày này, những sĩ quan và gia đ́nh thuộc các quốc gia Đồng-Minh thường làm những món ăn “quốc hồn quốc túy” để giới thiệu món ăn truyền thống của quê hương ḿnh. Riêng về phía Việt-Nam, chỉ toàn sĩ quan “độc thân tại chỗ”, cho nên chỉ biết mượn vài bộ lư hương và đồ gốm để trưng bày. Sở dĩ sĩ quan Việt-Nam không được phép đem gia đ́nh theo là v́, trong những năm trước, có một sĩ quan – có lẽ bất măn với Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đă không cho phép ông gia hạn học thêm – đă cùng vợ trốn sang Canada, không chịu trở về nước. (Theo quy chế cũ, sĩ quan được phép đem vợ theo nếu khóa học hơn một năm). Từ đó, Bộ-Tổng-Tham-Mưu cấm tuyệt đối, không cho sĩ quan du học đem vợ con theo. Tất cả sĩ quan đều thuê pḥng trọ cách trường vài blocks để có thể đi bộ đến Trường. Đa số đều có xe, thỉnh thoảng rủ nhau đi San Francisco ghé phố Tầu ăn ḿ và mua thực phẩm Á-Đông. Những sĩ quan trẻ thỉnh thoảng cũng làm một chuyến đi xa tận Nevada thăm Mustang Ranch. Sĩ quan thâm niện hiện diện lúc đó là Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Ngọc Quỳnh. Thỉnh thoảng Ông mời các sĩ quan họp để, thứ nhất, nhắc nhở các sĩ quan vài điều cần thiết; thứ hai, để thưởng thức món phở đặc biệt và tiếng cười “bất hủ” của Hải-Quân Trung-Tá Đoàn Doanh Tài. Vùng Monterey và Pacific Grove có khoảng năm gia đ́nh Việt-Nam kỳ cựu và rất hiếu khách. Các sĩ quan trẻ thường đến chơi vào dịp cuối tuần. Đặc biệt phải kể đến gia đ́nh ông bà Thiệp và gia đ́nh Cụ Diệp. Có lẽ tất cả sĩ quan theo học tại NPS đều biết, ngoài đức tính hào phóng và hiếu khách, hai gia đ́nh này c̣n có mấy cô con gái rất đẹp và dễ thương. Mấy chàng sĩ quan trẻ đôi khi bị “C” cũng v́ mấy cô dễ thương này. Có một trường cũng rất đặc biệt thuộc thành phố Pacific Grove là Trường Sinh Ngữ Quân-Đội (Defense Language Institute). Vào những năm Hoa-Kỳ đổ quân tối đa vào Việt-Nam, Trường đă có hơn 200 giáo chức người Việt dạy tiếng Việt cho những quân nhân chuẩn bị sang Việt-Nam. Biến Cố Tháng 4 Năm 1975 Mấy tháng trước biến cố tháng 4-1975, những sĩ quan đang theo học tại NPS đều thấy rơ người Mỹ đang chuẩn bị bỏ miền Nam Việt-Nam. Gần như trong suốt thời gian này tất cả sĩ quan không ai c̣n tinh thần để học nữa. Trong giảng đường th́ như người mất hồn, chỉ chờ chiều về để cùng nhau đón xem tin tức từ các đài ABC, NBC và CBS. Sau tháng 4 năm 1975, Trường NPS chấm dứt việc huấn luyện sĩ quan Việt-Nam, v́ chính phủ V.N.C.H. không c̣n nữa! Tất cả được chuyển qua quy chế tị nạn. Anh em thỉnh cầu nhà Trường gia hạn cho những sĩ quan chỉ c̣n một hoặc hai quarter nữa là măn khóa được tiếp tục học cho xong. Nhà Trường chấp thuận, nhờ đó một số sĩ quan đă kịp thời hoàn tất chương tŕnh học. Tôi thuộc vào số sĩ quan may mắn này. Tôi đă hoàn tất văn bằng cao học vào tháng 6 năm 1975. Tiếc rằng tôi đă không được dịp đem vốn kiến thức hấp thụ tại xứ người để về phục vụ quê hương Việt-Nam và quân chủng Hải-Quân V.N.C.H.! |
Hồi Kư Lănh Tàu
1 Attachment(s)
Lời giới thiệu: Cựu Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Ngọc Quỳnh xuất thân khóa II Trường Hải-Quân Pháp tại Brest. Mời độc giả hăy cùng “Ngưới Lính Biển chuyên nghiệp” Nguyễn Ngọc Quỳnh khơi lại những kỷ niệm sống thật ở những khía cạnh tốt đẹp nhất trong đời Hải-Quân. Lănh tàu là điều mơ ước của nhiều lính biển, kể cả kẻ viết bài này. Đó là dịp tốt để thực hiện mộng hải hồ, vượt đại dương, khám phá nhiều chân trời mới lạ và cũng là dịp du lịch nước ngoài miễn phí. Nhưng, lệnh chỉ định lănh tàu đến với tôi không đúng lúc. V́, lúc đó, ngày 5 tháng 2 năm 1962, tôi đang ở San Diego, chờ ngày hồi hương. Sau một năm du học và gần tám năm hải vụ liên tục, tôi không mơ ǵ hơn là trở về với gia đ́nh và phục vụ ở đơn vị bờ một thời gian. Nhưng đă trót vướng vào nghiệp hải hồ, tôi không thể từ chối một chuyến lênh đênh nữa. Chiến hạm tôi sắp lănh là Dương-Vận-Hạm Cam-Ranh HQ 500. Ngày bàn giao được dự trù vào giữa tháng 4. Trong khi chờ đợi, tôi theo học các khóa huấn luyện về hành quân thủy bộ tại Coronado; v́ hành quân thủy bộ là nhiệm vụ chính của các Dương-Vận-Hạm. Khi tôi tới Hải-Quân Công-Xưởng San Francisco th́ thủy thủ đoàn từ Việt-Nam đă đến vào ngày hôm trước. Tôi rất mừng khi gặp họ và được sống lại trong bầu không khí của một đơn vị Hải-Quân Việt-Nam sau một năm xa cách. Tôi cũng mừng v́ có một bộ-tham-mưu và thủy thủ đoàn khá hùng hậu. Bộ-tham-mưu gồm có các anh Nguyễn Ngọc Rắc, Đinh Vĩnh Giang, Lê Văn Th́; Đặng Trần Du, Hạm-Trưởng và Hoàng Nam, Cơ Khí Trưởng. Mặc dù từ nhiều đơn vị khác nhau tới, chỉ trong một vài ngày chúng tôi đă tạo được tinh thần đồng đội và t́nh tương thân. Đó là yếu tố cần thiết giúp chúng tôi vượt qua những khó khăn, mệt nhọc trong những ngày tháng sắp tới. Chiến hạm lúc đó sắp hoàn tất chương tŕnh tái trang bị sau một thời gian dự trữ bao kín (mothball). Chúng tôi làm quen với chiến hạm và tiếp tay vào việc tái trang bị. Hải-Quân Hoa-Kỳ biệt phái một toán huấn luyện lưu động để giúp đỡ nhân viên chiến hạm từ lúc đó cho tới khi chiến hạm rời bến, đưa chúng tôi hồi hương. Chúng tôi học hỏi được rất nhiều nhờ sự chỉ dẫn tận t́nh của toán huấn luyện lưu động này. Mặc dù nhiều nhân viên chiến hạm khá thành thạo tiếng Anh, nhưng sự liên lạc giữa hai bên trong vài tuần đầu cũng khá… mỏi tay, v́ phải bổ túc bằng “thủ hiệu quốc tế!” Lễ trao chiến hạm được tổ chức trọng thể, với sự có mặt của đại diện hai chính quyền Việt-Mỹ. Phía Việt-Nam là một vị đặc sứ từ Ṭa Đại-Sứ Việt-Nam Cộng-Ḥa tại Washington, D.C. Phía Hoa-Kỳ là Đô-Đốc Tư-Lệnh Hải-Khu 12. Nhiều phóng viên báo chí và truyền h́nh Hoa-Kỳ đến làm phóng sự. Ngay sau lễ bàn giao, chiến hạm bắt đầu tuần lễ huấn luyện trắc nghiệm và làm quen (Shakedown Training). Đúng như nghĩa tiếng Mỹ, trong tuần lễ này chiến hạm bị “quần” rất kỹ, từ nhân viên đến máy móc và dụng cụ, xem có ǵ trục trặc để bổ khuyết, tu chỉnh. Toán huấn luyện lưu động rất hài ḷng về sự hăng hái và khả năng học hỏi của thủy thủ đoàn; nhưng cũng rầu về thói coi thường các biện pháp an toàn của lính biển Việt-Nam. Trong một lần thực tập tác xạ pḥng không, một viên đạn đại bác 20 bị tịt ng̣i, nằm trong buồng súng. Biện pháp an toàn là xịt nước lạnh lên thép súng, phủ một tấm bố lên súng rồi nhân viên tránh xa ra, chờ một chốc cho đạn nguội mới lấy ra. Nhưng, khi nhân viên đang phủ tấm bố lên th́ anh Trung-Sĩ hỏa đầu vụ đi ngang; có lẽ v́ kinh nghiệm chiến đấu của anh trên sông ng̣i với đại liên, anh cho rằng biện pháp an toàn đó là “bày đặt, mất th́ giờ”, anh bèn phóng tới, mở ngay cơ bẩm, móc viên đạn nóng ra ném ngay xuống biển! Lần khác, trong cuộc thực tập tiếp tế dầu ngoài biển giữa hai chiến hạm đang chạy song song, nhân viên phải tập cách tháo ống dẫn dầu khẩn cấp, pḥng khi có nguy cơ hỏa hoạn hoặc địch sắp tấn công. Một lần, dây cột đầu ống dầu không tháo ra được, phải cắt đứt ở phía ngoài thành tàu chừng hơn một săi tay. Huấn luyện viên Mỹ đang giúp một nhân viên cột giây an toàn, mang áo phao, nón nhựa để ra cắt, th́, một “đấng” Hạ Sĩ ḿnh trần trùng trục, không mũ, không phao, leo ra ngoài thành tàu để cắt một cách rất…anh hùng! Sĩ quan phụ trách chỉ biết “khóc thét” v́ ngăn không kịp! Sau tuần huấn luyện, những sửa chữa cần thiết được làm ngay tại San Francisco; phần c̣n lại sẽ được thực hiện tại San Diego. Chiến hạm rời vịnh San Francisco vào một buổi sáng đẹp trời. Cầu Golden Gate nổi bật trên nền trời xanh thẫm, điểm một vài cánh hải âu trắng. Nhớ lại mấy tuần trước, chúng tôi qua cầu để ra khơi thực tập, cầu ch́m trong sương mù hoặc mưa bụi. Tiếng c̣i báo sương mù the thé ḥa với tiếng gió ù ù và ḍng nước triều chảy xiết khiến cầu có vẻ “đáng sợ” hơn nhiều. Đây là cảm giác mà khi lái xe trên mặt cầu phẳng phiu, thẳng tắp, khó mà h́nh dung ra được. So với tuần lễ huấn luyện Shakedown, hải tŕnh đi San Diego thật êm ả, dễ chịu. Hải hành dọc theo bờ biển California vào giữa mùa Xuân thấy cảnh trí rất đẹp. Chắc không ai trong chúng tôi nghĩ rằng có ngày ḿnh sẽ nhận nơi này làm quê hương thứ hai. Đến San Diego chúng tôi tiếp tục sửa chữa, trang bị, huấn luyện và chuẩn bị hành tŕnh hồi hương. Chương tŕnh huấn luyện gồm một tuần huấn luyện tổng quát và một tuần huấn luyện chuyên về hành quân thủy bộ. Phần huấn luyện chính xác được đặt nặng vào sự chính xác hải hành, chính xác tác xạ, v. v…Qua tuần này, mọi người mới nhận thấy từ trước tới nay ḿnh làm việc quá đại khái. Sở dĩ Hải-Quân Hoa-Kỳ đ̣i hỏi độ chính xác cao v́ kinh nghiệm chiến tranh cho họ thấy đó là vấn đề sinh tử. Chẳng hạn như khi chiến hạm hải hành qua một băi ḿn – có thể là một vùng biển rộng hàng chục hải lư – phải theo đúng lối đă rà ḿn. Lối này thường hẹp, nếu lạng quạng ra ngoài một chút là có thể về tŕnh diện Đại-Hải Long-Vương. Hành quân thủy bộ có vẻ mới lạ đối với chúng tôi; v́, tuy nhiều người trong chúng tôi đă phục vụ trên các tàu đổ bộ, có lẽ chưa ai được huấn luyện đầy đủ và kỹ lưỡng về chiến thuật này. Chúng tôi tập ủi băi ngày, ủi băi đêm, ủi băi với cầu nổi, ủi băi với một máy, ủi băi không dùng tay lái, ủi băi không neo, ủi băi chính xác, v. v… Để tiến vào băi đổ bộ, tàu phải chạy theo một hành lang rất hẹp, nếu lệch ra ngoài có thể đụng vào chiến hạm bạn ở hành lang bên cạnh, hoặc lạc vào khu chưa rà ḿn. Chiến hạm c̣n phải ủi băi đúng từng phút. Giờ giấc phải chặt chẽ như vậy v́ trước khi tàu vào băi, hải pháo và phi cơ bạn phải tác xạ cho địch không ngóc đầu dậy được mà bắn chận tàu. Tác xạ này chỉ ngừng đúng bốn phút trước khi tàu chạm băi. Nếu tàu vào sớm, sẽ “ăn” đạn của bạn; nếu vào muộn, địch sẽ ngóc đầu dậy để tấn công ta. Tất cả công tác khó khăn đó được thực hiện tại bờ biển lạ, thường là vào ban đêm, không có hải đăng. Chúng tôi ủi băi chính xác đến độ các huấn luyện viên Mỹ phải ngạc nhiên. Có lẽ v́ nghĩ rằng tôi “ăn may” cho nên họ yêu cầu các sĩ quan khác làm thử, và ai cũng đạt kết quả tốt. Chúng tôi được sắp hạng cao hơn các chiến hạm Mỹ cùng tập dượt trong tháng đó. Đạt được thành quả tốt đẹp đó có lẽ nhờ sự cố gắng của tất cả nhân viên chiến hạm: Từ người giữ tay lái đến người điểu chỉnh tốc độ máy, từ người xử dụng radar đến người xác định vị trí trên bản đồ, v. v… Ai nấy đều muốn tỏ cho huấn luyện viên Mỹ thấy rằng lính biển Việt-Nam, nếu được huấn luyện và có phương tiện th́ cũng không kém ai. Ngoài nỗ lực chung, cũng phải kể đến một vài cái “tủ” hay mẹo vặt, hay nói một cách văn chương là một vài “sáng kiến độc đáo” của chúng tôi. Thí dụ như nếu chỉ dùng radar, chiến hạm sẽ khó chạy đúng trục của hành lang đổ bộ. Khi tới gần băi, dù trong đêm tối, với ống ḍm, tôi cũng cố t́m ra một vài dấu vết đặc biệt của dăy cột điện trên bờ, hiện lờ mờ trong ánh sáng của thành phố San Diego ở chân trời xa, và nhờ đó điều chỉnh được chính xác hơn vào mấy phút chót. Thử lại một vài lần thấy đúng, tôi bèn bỏ nhỏ cho các sĩ quan cái “tủ” đó. Các huấn luyện viên Mỹ không hề biết có sự “huấn luyện” nội bộ bí mật này. Để bảo toàn an ninh, chiến hạm phải che tối hoàn toàn để địch ở trên bờ không trông thấy, kể cả khi mở cửa đổ bộ ra. Một huấn luyện viên Hoa-Kỳ đứng trên bờ sẽ quan sát kỹ lưỡng về điểm này. Để kiểm soát chu đáo, một nhân viên chiến hạm có sáng kiến là cho tiểu đỉnh chạy quanh tàu trước khi tàu tiến vào băi để xem c̣n sót ánh đèn nào ló ra không. Nhờ vậy tránh được nhiều khuyết điểm mà đứng trên tàu không thấy được. Điểm đặc biệt là những “tủ” này do nhân viên các cấp, các ngành t́m ra. Do đó chúng tôi “khám phá” một điều là: Dân Việt-Nam không biết có thông minh hơn các dân tộc khác hay không, nhưng chắc chắn là “khôn vặt” hơn. Khi hoàn tất giai đoạn huấn luyện, chúng tôi mới thấy thấm mệt. Có nhiều ngày liên tiếp chúng tôi phải dậy thật sớm để tập từ trước khi mặt trời mọc, rồi thức đến khuya để tập đổ bộ ban đêm. Nhiều đêm chỉ ngủ độ năm tiếng, rồi ngày làm việc khoảng mười sáu tiếng, mà vẫn tỉnh táo, nếu không là dễ xảy ra tai nạn. Sang giai đoạn sửa chữa và tiếp liệu, chúng tôi mới nghĩ tới chuyện đi bờ, giải trí, mua sắm, nghỉ ngơi. Tuy nói là “nghỉ ngơi” nhưng chúng tôi cũng rất bận rộn trong việc sửa chữa và tiếp liệu; v́ phải hoàn tất trước ngày khởi hành hồi hương. Không những chiến hạm cần có đủ vật liệu và thực phẩm cho một hải tŕnh dài một phần ba ṿng trái đất, trong khoảng 50 ngày, mà c̣n phải dự pḥng đồ tiếp liệu, nhất là cơ phận thay thế, về lâu dài; v́ đây là Dương-Vận-Hạm đầu tiên của Hải-Quân Việt-Nam cho nên Trung-Tâm Tiếp-Liệu chưa có đủ vật liệu riêng cho loại tàu này. Có hai điều khó: Một là số lượng nói trên vượt ra ngoài cấp số quy định. Hai là kho tiếp liệu địa phương không đủ để cung cấp kịp thời những vật liệu mà tàu xin cấp. Với sự giúp đỡ của toán huấn luyện lưu động, chúng tôi tạm thỏa măn được nhu cầu bằng cách này hay bằng cách khác. “Cách khác” ở đây có nghĩa là ra ngoài thể thức hợp lệ của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Hai lối thông dụng nhất là “midnight requisition” (tạm dịch là xin cấp phát nửa đêm) và “ngoại giao”. “Xin cấp phát nửa đêm” là t́m cách lấy vật liệu mà không theo đúng thủ tục cấp phát hoặc không được phép. Nói nôm na là “thuổng” hay “cầm nhầm”. Cần phải nói ngay là thuổng cho chiến hạm dùng chứ không phải làm của riêng. Mặc dầu vậy, lúc đầu chúng tôi cũng không dám làm v́ sợ bị túm th́ mang tiếng. Nhưng sau, chính toán huấn luyện lưu động khuyến khích và “huấn luyện” chúng tôi, v́ cách này cũng rất thịnh hành trong Hải-Quân Hoa-Kỳ. (Nếu vị nào không tin, xin xem phim Operation Pettycoat, do Tony Curtis đóng vai một sĩ quan có biệt tài về “xin cấp phát nửa đêm”) Chẳng hạn như chiến hạm có bốn LCVP mà không có bệ đặt để tu bổ, mặc dù theo cấp số có thể xin Hải-Quân Công-Xưởng thực hiện. V́ quá cận ngày, không thể làm kịp, toán huấn luyện lưu động đă xúi chúng tôi lấy ngay bệ có sẵn của Hải-Quân Công-Xưởng San Diego để trên cầu tàu. Họ “đạo diễn” như sau: Khoảng nửa đêm, chờ cho xe của sĩ quan trực Hải-Quân Công-Xưởng vừa đi tuần qua, nhân viên điện khí lên tắt đèn cầu tàu, nhân viên vận chuyển khuân bệ xuống chiến hạm, nhân viên giám lộ đứng trên cao canh chừng. Phương pháp “ngoại giao” được thực hiện bằng ngân khoảng tiếp tân của chiến hạm và cũng được toán huấn luyện lưu động cổ vơ. Những buổi tiếp tân hoặc bữa ăn thân mật được tổ chức để cảm ơn toán huấn luyện lưu động đă giúp đỡ chiến hạm, nhưng các giới chức có thẩm quyền về sửa chữa hoặc tiếp liệu cũng được mời. Nhờ vậy, nhiều thủ tục cấp phát hoặc thực hiện công tác được dễ dàng và mau chóng hơn nhiều. Chúng tôi gọi đây là “hối lộ hợp pháp”. Cũng nhờ phương pháp này chúng tôi chiếm cảm t́nh của các sĩ quan một chiến hạm bên cạnh và họ đă “đáp lễ” bằng một cầu thang nhẹ bằng nhôm mà nhân viên vận chuyển từng mơ ước; v́ khiêng nhẹ hơn và đỡ nguy hiểm hơn những cầu thang bằng sắt. Một trong những chuẩn bị quan trọng cho chuyến hồi hương là hàng hải. Thái-B́nh-Dương là đại dương lớn nhất và không một ai trong chúng tôi có nhiều kinh nghiệm về các bến và vùng biển này. Với đoạn đường hơn 8,000 hải lư và với tốc độ trung b́nh non mười hải lư một giờ, cộng với thời gian ghé bến ba lần, hải tŕnh sẽ dài hơn một tháng rưỡi. Khởi hành gần cuối tháng Sáu, chúng tôi sẽ tới miền Tây Thái-B́nh-Dương vào hạ tuần tháng Bảy, đúng vào mùa băo lớn ở vùng biển này. Huấn thị hải hành và khí tượng về đoạn đường sắp đi là một chồng sách dày cộm mà tôi biết sẽ không đủ thời giờ đích thân ngồi đọc từng chi tiết và nhiều chi tiết không thể bỏ qua được. Và đây là lúc thấy sự lợi ích của sự phân nhiệm. Theo thường lệ trên chiến hạm, nội vụ và quân kỷ là phần nhiệm của Hạm-Phó. Hải hành được giao cho sĩ quan đệ tam. Biết khả năng của mỗi sĩ quan tôi thấy cần vượt ra ngoài thông lệ đó. Anh Du, Hạm-Phó, là một trong những “cây” hải hành cao thủ của Hải-Quân; trong khi đó tính “đại từ bi” của anh có lẽ không hợp với nhiệm vụ “ông Ác” của trưởng ban nội vụ. Do đó, anh Du và anh Rắc vui vẻ hoán chuyển chức vụ trưởng ban hải hành và trưởng ban nội vu với nhau. Cả hai tỏ ra xuất sắc trong chức vụ mới này. * * * Đoạn đường San Diego – Pearl Harbor dài mười một ngày với thời tiết và biển khá đẹp. Trước khi khởi hành, chúng tôi nhận được chỉ thị phải báo cáo nếu trông thấy loé sáng trên trời đêm khi tới gần Hạ-Uy-Di. Tuy chỉ thị không nói rơ, nhưng tôi biết lúc đó Hoa-Kỳ đang trắc nghiệm những vụ nổ nguyên tử trên thượng tầng khí quyển. Những vụ nổ này có thể chận đứng sự truyền luồng sóng điện trong một thời gian. Một đêm, tôi đang ngủ trong pḥng ngủ hải hành (sea cabin) ngay dưới đài chỉ huy, th́ anh Rắc, sĩ quan đương phiên, báo cáo là thấy ánh sáng lóe trên trời về hướng Tây Nam. Khi tôi lên đến đài chỉ huy th́ chỉ c̣n thấy một đóm sáng nhỏ, nhưng cả nền trời bắt đầu chuyển sang màu cam giống như ráng chiều, mặc dù lúc là khoảng hai giờ sáng. Chúng tôi thấy có một cảm giác lạ lùng và rùng rợn! Sau này, khi anh Rắc qua đời v́ bệnh ung thư máu, tôi mới nhớ lại vụ thấy ánh sáng nguyên tử và thắc mắc không rơ có phải v́ ảnh hưởng phóng xạ nguyên tử hay không! Theo lệnh hải hành, chiến hạm chỉ ghé Pearl Harbor ba ngày. Nhưng bơm nhớt của tàu bị nóng, cần sửa chữa ngay. Lúc đó là đầu tháng Bảy, tài khóa cũ đă hết mà ngân khoản sửa chữa dành cho tài khóa mới chưa được chấp thuận, cho nên Hải-Quân Công-Xưởng Pearl Harbor đề nghị chúng tôi ở lại thêm ba hoặc bốn ngày nữa. Vậy là chúng tôi được nghỉ tại Hạ-Uy-Di một tuần lễ. Trong thời gian chúng tôi ở Hạ-Uy-Di, cụ Mai Thọ Truyền, hội trưởng Hội Phật-Giáo Việt-Nam, có ghé qua trên đường công du. Chúng tôi mời Cụ tới thăm chiến hạm và dùng cơm chay. Khi nghe nói lễ trao chiến hạm tại San Francisco, ngoài vị Tuyên-Úy Công-Giáo c̣n có một Tu-Sĩ Phật-Giáo tới làm lễ, Cụ không tán thành, cho rằng việc cầu an cho chiến hạm, tức là một chiến cụ, không thích hợp với giáo lư của đạo Phật. Chúng tôi phải giải thích rằng đây là lễ cầu an cho thủy thủ đoàn chứ không phải cho chiến hạm. Sau bảy ngày xả hơi, chúng tôi rời thiên đường hạ giới để tiếp tục hải tŕnh hồi hương với chặng đường dài nhất. V́ thấy đoạn đường tương đối dài, tôi phân vân không biết có nên theo đường trực hành để tới Guam cho đỡ dài, hay theo đường tà hành cho giản tiện, nghĩa là cứ theo đúng một hướng, th́ có lệnh phải đi chếch lên phía Tây Bắc, tới gần quần đảo Midway rồi hăy đổi hướng để trực chỉ Guam. Chỉ thị này được ban hành có lẽ để chiến hạm tránh xa vùng thử bom nguyên tử ở phía Nam Midway. May thay, hải tŕnh này lại rất gần đường trực hành, cho nên tuy phải đi ṿng mà đường lại ngắn hơn. (Xin lỗi quư vị không quen thuộc với khoa hàng hải, v́ phải đọc những lư luận lẩm cẩm này của dân đi biển). Đối với hầu hết chúng tôi, đoạn đường Hạ-Uy-Di – Guam, mười bảy ngày, có lẽ là đoạn đường dài nhất trong cuộc đời lênh đênh của ḿnh. Nếu Hải-Quân giúp chúng tôi học được đức kiên nhẫn th́ đây là bài học dài nhất. Để phá tan sự nhàm chán và buồn tẻ của cuộc sống hằng ngày, không trông thấy ǵ khác hơn là chân trời phẳng lặng bốn phía, ngoài việc trực phiên hải hành và tu bổ chiến hạm, chúng tôi phải kiếm ra những việc khác. Hữu ích nhất là việc học. Các sĩ quan và hạ sĩ quan thâm niên chia nhau huấn luyện nhân viên về chuyên môn cũng như văn hóa. Anh văn và toán là hai môn mà nhiều nhân viên muốn học. Nhờ sàn tàu rộng, có nhiều tṛ giải trí và thực phẩm đầy đủ cho nên cuộc sống cũng dễ chịu. Môn giải trí đặc biệt có tính cách truyền thống Hải-Quân là lễ xuyên-nhật-đạo. Chiến hạm vượt qua đường đổi ngày vào khoảng một phần ba đoạn đường đi Guam. (Lịch thêm một ngày khi tàu vượt qua đường đổi ngày) Trên sàn chính có căng một sợi giây tượng trưng cho nhật đạo, hai bên có một số nhân viên hóa trang làm binh cua, lính cá của Đại-Hải Long-Vương. Nhân viên nào chưa hề qua đường đổi ngày – bằng tàu chứ không phải bằng máy bay – sẽ bị đám binh cua, lính cá xịt nước đầy ḿnh rồi rắc bột và đẩy cho chui qua giây nhật đạo giữa tiếng reo ḥ của bạn bè. Sau đó mỗi người được cấp một bằng xuyên-nhật-đạo do Đại-Hải Long-Vương ban. Lễ này có lẽ đă phỏng theo lễ xuyên-xích-đạo mà Hải-Quân các nước thường làm. Đây là những thành tích mà thủy thủ thường tự hào. Ngoài nhật đạo và xích đạo, người ta c̣n ghi thành tích khi vượt qua ba mũi đất cực Nam (tức mũi Hảo-Vọng ở Phi-Châu, mũi Horn thuộc Nam Mỹ và mũi Tây Nam ở Úc) khi tới Nam Cực bằng tiềm thủy đỉnh lặn dưới lớp băng. Ban hải hành, các sĩ quan trực phiên và tôi có môn giải trí là hàng hải thiên văn. V́ hải hành xa bờ và dụng cụ hải hành điện tử hơi thô sơ, chúng tôi tin vào hải hành bằng tinh tú hơn. Hằng ngày, đều đặn như một nghi lễ, chúng tôi định vị trí rạng đông, vị trí mặt trời, vị trí hoàng hôn và một đôi khi vị trí đêm bằng mặt trăng. Làm điểm rạng đông và hoàng hôn tương đối chính xác nhất và cũng thơ mộng nhất; v́ đây là lúc chúng tôi đo và ngắm trăng sao. Các nhà thiên văn quan sát tinh tú bằng con mắt khoa học; các văn nhân, thi sĩ ngắm sao bằng con mắt lăng mạn; dân hải hồ nh́n trăng sao bằng cả hai con mắt đó. Chúng tôi dùng kính lục phân để đo cao độ tinh tú, rồi tính toán và kẻ đường vị trí, trong khi đó vẫn mơ ước lấy được “ngàn sao trên trời, kết thành chuỗi ngọc em đeo”. Khi t́m sao trời trong các nhóm Tiểu-Hùng-Tinh, Song-Nam, Nam-Tào hay các hành tinh, để đo cao độ, chúng tôi thường nghĩ đến cuốn Les Lettres de Mon Moulin với chú mục đồng thả hồn lên bầu trời lấp lánh sao đêm… Chúng tôi nh́n vết bọt trắng sau lái tàu để phỏng tính độ giạt và cũng tưởng tượng đó là những bông hoa biển nở sau gót con tàu. Người thủy thủ không lấy mộng làm thực, hoặc lấy thực làm mộng, nhưng trong tâm trí họ, thực và mộng đă giao duyên với nhau. Một môn giải trí khác được chúng tôi thực tập vài ba ngày một lần là nhiệm sở tác chiến, nhiệm sở pḥng tai – cứu hỏa, cứu thương, cứu thủy – nhiệm sở đào thoát, v. v… Đây vừa là nhu cầu an ninh vừa là một cách làm cho đời sống hằng ngày trên chiến hạm bớt đơn điệu. Cũng để tránh đơn điệu, chúng tôi luôn luôn thay đổi đề tài thực tập và thay đổi giờ tập. Một tṛ tiêu khiển khá phổ thông là đem quà mua được ra ngắm nghía và khoe nhau. Nhiều người cho rằng thủy thủ sống đời giang hồ nên ít chung t́nh. Thật là oan Thị Kính! Cứ nh́n mấy chàng lính biển nâng niu mấy hộp phấn son, quần áo, kể cả…đồ lót nữa, mới thầy rằng “càng đi xa anh càng nhớ em”. Các thủy thủ “bố trẻ con” th́ say sưa chơi thử đồ chơi mua về cho con, say sưa đến độ không biết bố khoái hơn hay con khoái hơn! Nhờ những tṛ giải trí vừa kể, chúng tôi đă vượt qua đoạn đường dài nhất mà không cảm thấy buồn chán. Thời tiết tốt đều, biển khá đẹp, xứng đáng với tên Thái-B́nh-Dương, khiến cho chuyến đi này khá hứng thú. Khi gần tới Guam, thời tiết trở nên xấu. Đây là lúc cần định vị trí thiên văn hơn hết để đáp bờ cho chính xác th́ mây mù đă đuổi trăng sao và mặt trời đi chơi chỗ khác. Mưa rào khắp nơi khiến màn ảnh radar trắng xóa, không c̣n thấy bờ đâu nữa. Hải tŕnh như vậy vào ban đêm, giữa vùng biển lạ, nhiều đảo nhỏ - quần đảo Mariana - và ḍng nước chảy mạnh, quả là vất vả. Kể ra, chúng tôi có thể chạy chậm lại để chờ sáng mới bắt đầu đáp bờ cũng được, nhưng coi bộ ai cũng nóng ḷng tới bến sau một chặng đường khá dài, nên đành chịu khó vận dụng hết kinh nghiệm hải hành chính xác để tiến tới Guam ngay trong đêm đó. Sáng sớm, khi tàu tới ngoại cảnh th́ trời đẹp trở lại. Ở đây hải đồ nội cảng được bỏ trắng v́ lư do an ninh. Khi chiến hạm cặp bến, một đoàn trẻ em thuộc gia đ́nh Hải-Quân Mỹ đón tiếp chúng tôi bằng những chuỗi hoa đeo cổ (lei) và các vũ điệu Hạ-Uy-Di. Họ đón tiếp nồng hậu và đưa chúng tôi đi xem thắng cảnh. Đáng kể nhất là Trung-Tâm Kiểm-Báo miền Tây Thái-B́nh-Dương. Trung tâm này được đặt tại đây v́ vùng này là nơi xuất phát của hầu hết các trận băo tiến về phía Phi-Luật-Tân, Việt-Nam, Trung-Hoa hoặc Nhật-Bản. Nhờ có phương tiện đầy đủ như máy bay, đài radar, hệ thống liên lạc với các đài khí tượng, v .v…Trung tâm phát giác các trận băo mới phát sinh, đặt tên cho chúng, theo dơi, tiên đoán hướng đi, tốc độ và thông báo cho các quốc gia và tàu bè chạy trong vùng. Chính những bản tin khí tượng này đă bảo vệ Hải-Quân chúng ta hằng năm trong mùa băo. Cuộc thăm viếng này được chúng tôi chú tâm đặc biệt, v́ đoạn đường sắp tới nằm trong vùng băo và mùa băo cũng bắt đầu. Chúng tôi đă học hỏi khá nhiều về những trận băo giết người này. Sau ba ngay nghỉ bến, chúng tôi đến Guam với thời tiết đẹp. Nhưng chỉ nửa ngày sau đă được báo tin có một trận băo phát sinh ở phía trước chúng tôi và được khuyến cáo chạy chậm lại một chút để tránh biển xấu. Chính trận băo này đă tàn phá miền Trung Phi-Luật-Tân trước khi chúng tôi tới. Mới chạy chậm được hơn một ngày th́ lại có tin một trận băo khác mới ra đời và theo sau gót chiến hạm. Chúng tôi phải tăng vận tốc để giữ khoảng cách giữa hai trận băo. Sau khi được nghe giảng dẫn tường tận về các trận băo nhiệt đới tại Trung-Tâm Kiểm-Báo với tất cả những ǵ đáng sợ về chúng, để rồi đi vào vùng này, chúng tôi có cảm tưởng như đi đêm vào nghĩa địa sau khi nghe kể chuyện ma! Và bây giờ lại có hai con ma kèm sandwich chúng tôi nữa. Tuy nhiên đây chưa phải là điều đáng sợ. Điều mà chúng tôi e ngại nhất là khi chui qua eo San Benardino để vào nội hải Phi-Luật-Tân mà con ma sau đuổi kịp và con ma trước nằm chềnh ềnh gần đó th́ hết lối chạy. Cũng may, khi chúng tôi tới gần Phi-Luật-Tân th́ trận băo trước đă tan, c̣n trận băo sau đă bye bye, chạy ṿng lên hướng Bắc. Nh́n vết tàn phá của trận băo trước tại Phi, với nhiều tàu bè bị đưa lên cạn hoặc nhận ch́m, mới thấy hú vía. Chiến hạm ghé Subic Bay ba ngày trước khi về Saigon. Đây là chuyến tàu vét cho những ai c̣n nặng nợ với Navy Exchange, cũng như đối với ban tiếp liệu của chiến hạm v́ đây là căn cứ tiếp liệu cuối cùng của Hải-Quân Mỹ trước khi chúng tôi hồi hương. Đoạn đường chót của hải tŕnh hồi hương cũng là đoạn đường ngắn nhất. Tại Subic cũng như trên đoạn đường này chúng tôi phải làm sạch sẽ trong ngoài và sơn phết lại chiến hạm để về Saigon với bộ mặt bảnh bao hơn. Tuy là đoạn đường ngắn nhất nhưng ai nấy đều có vẻ nóng ḷng, hồi hộp chờ mong ngày tới quê nhà, Để mọi người khỏi sốt ruột, anh Du, trưởng ban hải hành hằng ngày thông báo cho mọi người qua hệ thống phóng thanh các chi tiết về vị trí, khoảng đường c̣n lại và ngày giờ phỏng định đến bến. Khi anh báo rằng sắp trông thấy bờ biển Việt-Nam vùng Phan-Thiết, mọi người đều đổ lên sàn chính để canh. Khi mới trông thấy bờ ai nấy đều reo ḥ. Có lẽ ngày xưa, khi Columbus thấy Châu-Mỹ, thủy thủ đoàn cũng chỉ mừng đến thế là cùng! V́ lư do kỹ thuật và thời tiết, chiến hạm về đến Saigon trễ hơn giờ dự trù chừng bốn tiếng, khi cập cầu trời đă tối. Ḍng nước không thuận tiện, mà trong ḷng lại hồi hộp khi thấy thân nhân nóng ḷng chờ đợi trên bờ, chúng tôi cảm thấy khá vất vả. Tuy nhiên trong ḷng ai cũng vui, và người vui nhất có lẽ là tôi, v́ đă trở về sau hơn một năm rưỡi xa nhà. Hải tŕnh dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của chúng tôi chấm dứt với hồi c̣i giải tán nhiệm sở vận chuyển. Tính ra chiến hạm đă vượt qua khoảng chín ngàn hải lư, trong 52 ngày, xuyên qua đại dương lớn nhất, sâu nhất và cũng … thiên đàn nhất. Nhưng đối với tôi, cái nhất…nhất là thủy thủ đoàn và bộ-tham-mưu chiến hạm. Đó là niềm hănh diện của tôi trong suốt thời gian nhận lănh chiến hạm, huấn luyện và hoạt động với Hải-Quân Hoa-Kỳ. Tinh thần trách nhiệm và cầu tiến của nhân viên chiến hạm đă khiến toán huấn luyện Hải-Quân Hoa-Kỳ phải nể v́. Trước khi chia tay tại San Diego, vị sĩ quan trưởng toán huấn luyện lưu động đă nói với tôi: “Ông có thể tự hào là đă có một thủy thủ đoàn học hỏi nhanh và thực hành rất đúng. Thú thật với ông, khi tôi mới gặp họ ở San Francisco, tôi không ngờ là họ lại có thể đạt được kết quả huấn luyện tốt đẹp như vậy.” Lời khen trên được nhắc lại để riêng tặng tất cả nhân viên đă cùng tôi nhận lănh Dương-Vận-Hạm Cam-Ranh, HQ 500, cách nay hơn một phần tư thế kỷ. Giờ đây một số đă vĩnh viễn nằm xuống, một số c̣n kẹt lại quê nhà, và số c̣n lại may mắn thoát ra được hải ngoại. Ước mong chúng ta sớm có ngày tái ngộ trên quê hương thanh b́nh và tự do để cùng nhau ôn lại những kỷ niệm vui buồn trong cuộc đời sông biển |
Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hải-Quân Hoa-Kỳ (United States Naval War College)
1 Attachment(s)
Lời giới thiệu: Cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh, nguyên Tư-Lệnh Hải-Quân V.N.C.H. xuất thân khóa I Hải-Quân Nha-Trang. Ông là một trong số rất ít sĩ quan cao cấp Hải-Quân Việt-Nam c̣n giữ được mối liên lạc mật thiết với Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hải-Quân-Hoa-Kỳ. Bài biên soạn công phu sau đây của cựu Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh sẽ giúp độc giả thấu triệt được nhiều điều hữu ích về ngôi trường quân sự mà hầu hết các cấp lănh đạo Hải-Quân V.N.C.H. đều đă theo học. “Viribus Mare Victoria” (Chiến thắng của con người trên đại dương) là phương châm của một cơ quan huấn luyện cao cấp nhất trong Hải-Quân Hoa-Kỳ: Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến (CĐHC) Hải-Quân Hoa-Kỳ. Trường CĐHC tọa lạc trên bán đảo Coaster Harbor Island của thị xă Newport, nằm trong vịnh Narragansett thuộc Rhode Island, một tiểu bang nhỏ nhất của Hoa-Kỳ. Thị xă Newport, đặc biệt vào mùa Hè, là một địa danh nổi tiếng trong ngành du lịch, nhờ khí hậu tương đối mát mẻ; những băi biển cát trắng, nước trong; và những lâu đài lộng lẫy như The Elms, The Breakers, The Marble House, Chateau-Sur-Mer, Rose Cliff, v. v… Newport cũng là nơi hội ngộ của những tay đua thuyền buồm quốc tế vào những dịp tổ chức America’s Cup. Trường CĐHC có đầy đủ tiện nghi về huấn luyện và tiếp vận cũng như tại hầu hết các Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Hoa-Kỳ. Viện Trưởng là những sĩ quan cấp Đô-Đốc thâm niên, hầu hết sau nhiệm kỳ chỉ huy Trường CĐHC, những vị này đều về hưu. Được thành lập vào năm 1884, Trường CĐHC thoạt tiên được tổ chức để huấn luyện sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ theo học các khóa tham mưu (staff) và chỉ huy (command) dựa trên những căn bản chiến thuật và chiến lược hải chiến để tổ chức những cuộc hành quân Đến năm 1956, Trường CĐHC mở thêm những khóa huấn luyện cho sĩ quan Hải-Quân quốc tế đồng minh của Hoa-Kỳ. Cơ cấu Trường CĐHC được hia thành hai khối: Trường Tham-Mưu Hải-Quân (Naval Staff College) Trường Chỉ-Huy Hải-Quân (Naval Command College – NCC) Riêng về Trường Chỉ-Huy Hải-Quân th́ có hai phần riêng biệt dành cho sĩ quan Hải-Quân Hoa-Kỳ (HQHK) thuần túy (1) và sĩ quan Hải-Quân Đồng-Minh (2). Để có nhiều ư nghĩa liên quan mật thiết với Hải-Quân V.N.C.H., bài này được viết trên căn bản không gian và thời gian của kỷ niên 1965 và đặc biệt chú trọng nhiều hơn về Trường Chỉ-Huy Hải-Quân dành cho sĩ quan Hải-Quân đồng minh tại Trường CĐHC. Trường CĐHC/HQHK huấn luyện những sĩ quan Hải-Quân cấp tá thâm niên, để chuẩn bị cho họ một căn bản chỉ huy dựa trên những lư thuyết chiến thuật và chiến lược quốc tế hiện đại. Khóa học kéo dài 11 tháng, gồm những phần chính yếu như: Thuyết giảng về chiến thuật tác chiến của các quân binh chủng bạn có liên hệ đến hoạt động của Hải-Quân. Lập trận đồ và chỉ huy hạm đội tham chiến (War Games). Đi quan sát các cơ cấu quân sự quốc pḥng thuộc hệ thống pḥng thủ Hoa-Kỳ. Viếng những cơ sở kỹ nghệ chiến tranh trong nước và ngoài nước. (Field trips) Viết một bài luận án theo các đề mục tùy ư về quân sự, kinh tế, ngoại giao, v. v… Khóa sinh đến Trường CĐHC như một sứ giả của quốc gia ḿnh; v́ tất cả khóa sinh đều được hưởng quy chế đặc miễn chính thức dành cho một ngoại giao đoàn quốc tế hợp lệ. Ngoài quyền tự do di chuyển, khóa sinh c̣n được tự do phát biểu ư kiến ngay tại quân trường vào những dịp khóa sinh hội thảo những đề tài trong chương tŕnh huấn luyện và trong những dịp thuyết tŕnh tại các trường trung học địa phương hay tại pḥng Thương Mại Newport mà khóa sinh được Lions Club hoặc Rotary Club mời như một thuyết tŕnh viên danh dự. Những ư kiến mà khóa sinh đă phát biểu trong những dịp hội thảo – kể cả trong luận án – sẽ không được tiết lộ hoặc phổ biến nếu không có sự chấp thuận của tác giả. Trong nhiều cuộc hội thảo chính thức, khóa sinh thẳng thắn chỉ trích chính sách ngoại giao của Hoa-Kỳ, đường lối Hoa-Kỳ viện trợ cho các quốc gia nhược tiểu và chính sách thương mại và trao đổi với quốc tế. Đến khi đàm đạo trong những dịp “trà dư tửu hậu” giữa khóa sinh và sĩ quan cán bộ HQHK, những chỉ trích về phương diện giáo dục và xă hội của Hoa-Kỳ lại được tiếp tục. Ư niệm chung của khóa sinh là: “Chúng tôi đến đây với tư cách là đồng minh của Hoa-Kỳ để hấp thụ những kinh nghiệm quư báu của Hải-Quân Hoa-Kỳ trong những trận thế chiến đă qua; nhưng chúng tôi không hoàn toàn đồng đồng ư trên nhiều vấn đề mà quốc gia của chúng tôi có nhiều ưu điểm hơn.” Mặc dù có nhiều dị biệt tư tưởng giữa khóa sinh đồng minh và sĩ quan huấn vụ, sau cùng t́nh thân hữu ngày càng nẩy nở tốt đẹp suốt khóa học. Tinh thần “Tứ hải giai huynh đệ” bao trùm không khí khóa học, làm cho khóa sinh và sĩ quan huấn vụ quân trường thông cảm và hiểu biết nhau hơn, khắng khít nhau hơn, để sau cùng tạo ra một “Tinh thần Trường Chỉ-Huy Hải-Quân Newport”. (“The Spirit of The Naval Command College). Điểm tế nhị nhất là không hề xảy ra những xung đột hoặc đả kích công khai nào giữa các khóa sinh tụ họp từ bốn phương trời, mang nhiều màu sắc khác biệt, không cùng ngôn ngữ, tuổi tác chênh lệch và đang có những rắc rối về vấn đề chính trị quốc gia. Thật vậy, trong khóa học năm 1964-1965 có bốn quốc gia đang trong t́nh trạng tranh chấp lănh thổ với nhau. Đó là Thổ-Nhỉ-Kỳ với Hy-Lạp và Ấn-Độ với Pakistan. Tuy nhiên, trong suốt khóa học, mặc dầu sự thân t́nh giữa đại diện các quốc gia này không được biểu lộ một cách sâu đậm, nhưng trái lại cũng không hề xảy ra một cuộc đụng chạm nào. V́ thời gian thụ huấn khá dài, khóa sinh thuộc các quốc gia Âu-Châu, Mỹ-Châu và Trung-Đông đem theo gia đ́nh khi đến nhập học. Khóa sinh các nước Á-Châu và Phi-Châu, có thể v́ t́nh trạng kinh tế và chính trị, không đem theo gia đ́nh. Khóa sinh đến tŕnh diện nhập khóa và lập thủ tục tại Luce Hall. Luce Hall là bộ chỉ huy và cũng là cơ quan hành chánh của Trường CĐHC. Tại Trường CĐHC, khóa sinh được theo quy chế ngoại trú, được tự do sinh hoạt nơi nào ḿnh thích, miễn là phải tham dự đầy đủ những giờ thuyết giảng tại Trường hoặc tháp tùng những chuyến đi quan sát xen kẻ trong chương tŕnh huấn luyện. Sự tiếp đón của Trường CĐHC được tổ chức rất chu đáo và có vẻ trịnh trọng ngay từ khi khóa sinh vừa đến phi trường Providence, thủ đô của Rhode Island, để đưa về tạm trú tại BOQ, chờ hoàn tất thủ tục nhập khóa. Sĩ quan thuộc Bộ-Tham-Mưu quân trường được chỉ định làm cố vấn cho mỗi khóa sinh về phương diện huấn luyện cũng như những vấn đề tổng quát khác như thuê nhà, mua xe, mua bảo hiểm, v. v… Khóa học bắt đầu vào giữa tháng Tám. Sinh hoạt của khóa sinh bắt đầu từ giảng đường tại Simms Hall để nghe thuyết giảng về chiến thuật và chiến lược hải chiến. Trưa, sau bữa ăn tại câu lạc bộ sĩ quan là những giờ dành cho việc khảo cứu tài liệu mượn từ thư viện Mahan Hall đem về văn pḥng riêng của mỗi khóa sinh. Những đề tài thuyết giảng chiến thuật và chiến lược rất bao quát và ngoạn mục với phim ảnh do thuyết tŕnh viên tŕnh bày. Trong những dịp hội thảo toàn khóa, một hội trường rộng lớn được xử dụng và trang trí như dành cho một Đại Hội Đồng quốc tế nhóm họp. Mỗi khóa sinh có một bàn riêng, được trưng bày Quốc-Kỳ và bảng tên của ḿnh. Mọi sự sắp xếp đều theo mẫu tự, không có sự phân biệt cấp bậc hoặc quốc gia của khóa sinh. Tại Mahan Hall và Luce Hall, quốc kỳ các quốc gia đồng minh của Hoa-Kỳ được dương cao, trong số đó lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay… Sau nhiều tuần huấn luyện tại Trường, khóa sinh bắt đầu đi quan sát. Phương tiện di chuyển hầu hết là phi cơ của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Những phi cơ này sẵn sàng tại căn cứ Nagaransett Naval Air Station trên đảo Connecticut, bên kia vịnh về hướng Tây. Thời gian 1965, Newport Bridge dài hai miles nối liền bán đảo Newport với đảo Connecticut chưa được xây cất, khóa sinh dùng tiểu đỉnh của Naval Base để sang đảo. Đôi khi Trường lại dùng xe chuyên chở công cộng đưa khóa sinh sang phi trường, nhưng phải dùng chiếc phà Jamestown Ferry để qua đảo Connecticut. Ngày nay Newport Bridge tối tân đă thâu ngắn thời gian di chuyển từ Newport qua đảo Connecticut, nhưng đă vô t́nh xóa đi h́nh ảnh thơ mộng của chiếc phà Jamestown Ferry với đoàn hải âu lượn quanh t́m mồi do hành khách rải xuống biển. Những chuyến đi quan sát thường kéo dài trọn tuần lễ. Nào Bermuda thuộc Anh-Cát-Lợi nằm giữa Đại-Tây-Dương, đến Roosevelt Roads Naval Air Station ở Puerto Rico nằm trong biển Caribbean, rồi trở về Key West Naval Station và Miami thuộc Florida. Có lần sang Ottawa, thủ đô Gia-Nă-Đại rồi trở về miền Trung Bắc Hoa-Kỳ để viếng các xưởng kỹ nghệ sản xuất xe thiết giáp và quân xa đủ loại tại Detroit, Michigan. Tiếp đến là viếng Bộ-Chỉ-Huy Không-Quân Chiến-Lược (Strategic Air Command) đặt sâu trong ḷng núi đá ở Nebraska. Trong chuyến đi miền Tây, đến vùng Bắc California viếng căn cứ chiến thuật Không-Quân với hệ thống tiếp vận tân tiến rồi sang thăm quốc hội California và Thống-Đốc Ronald Reagan tại Sacramento. Đi về miền Nam California th́ viếng những cơ xưởng chế tạo phi cơ tác chiến ở Los Angeles và Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội Thái-B́nh-Dương tại San Diego. Chuyến đi kế tiếp lại sang miền Đông quan sát những cuộc biểu diễn hành quân tại các Căn-Cứ Thủy-Quân Lục-Chiến (Camp Le Jeune) và Lưc-Lượng Đặc-Biệt (Fort Bragg) ở North Caroline; viếng Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội Đại-Tây-Dương đặt ở Norfolk, xưởng kỹ nghệ đóng tàu tại Newport News, nơi chế tạo hàng không mẫu hạm và tiềm thủy đỉnh nguyên tử; viếng Williamsburg, thủ đô đầu tiên của tiểu bang Virginia. Đi dần về miền Đông Bắc, viếng thủ đô Hoa-Thịnh-Đốn với Quốc-Hội và Ṭa Bạch-Ốc, rồi Ngũ-Giác-Đài. Chuyến kế tiếp được viếng Nữu-Ước hoa lệ với ṭa nhà Liên-Hiệp-Quốc, thị trường chứng khoáng Wall Street, tượng Nữ Thần Tự-Do trước khi trở về New London, tiểu ban Connecticut để quan sát Căn-Cứ và Trung-Tâm Huấn-Luyện Tiềm-Thủy-Đỉnh. Khóa sinh được dịp ra khơi bằng Tiềm-Thủy-Đỉnh và quan sát cuộc thực tập tác chiếc có xử dụng ngư lôi. Tại mỗi nơi thăm viếng khóa sinh được tiếp đón nồng hậu và chu đáo. Các vị Thống Đốc, Thị Trưởng, Tư-Lệnh quân chủng hay Chỉ-Huy-Trưởng cơ quan thường có mặt để tiếp đón phái đoàn khóa sinh. Trong những buổi dạ tiệc, quà kỷ niệm, chứng chỉ Công Dân Danh Dự và ch́a khóa vàng của thành phố được trao tặng cho mỗi khóa sinh. Từ năm thành lập cho đến nay (1990), Trường Chỉ-Huy Hải-Quân đă huấn luyện được 35 khóa học liên tiếp, với 1.045 khóa sinh thuộc 70 quốc gia trên thế giới. Trong tổng số khóa sinh có 545 người đă được thăng cấp Đô-Đốc Hải-Quân hoặc Tướng Lănh Lục-Quân và Không-Quân. Hai mươi sáu người giữ chức Tổng Bộ Trưởng trong chính phủ hoặc làm Đại-Sứ. Đặc biệt có một cựu khóa sinh đă trở thành Tổng Thống! Lư thuyết và kinh nghiệm thâu nhận được sau những chuyến đi quan sát và t́nh thân hữu nẩy nở trong khối khóa sinh quốc tế là những điểm son khóa sinh mang về khi hồi hương. Những kỷ niệm vui buồn cũng giúp thêm nhiều màu sắc rực rỡ cho bức tranh kỷ niệm của Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ. Bất cứ một sĩ quan nào đă tu nghiệp tại Trường Chỉ-Huy Hải-Quân đều không thể quên được phương châm đặc biệt của Trường: Populos Mare Jungit. (Con người triền miên với biển cả). 1. Gồm một số sĩ quan Thủy-Quân Lục-Chiến (U.S. Marine Corps), sĩ quan Lục-Quân, Không-Quân và công chức cáo cấp quốc pḥng 2. Gồm một số sĩ quan Lục-Quân và Không-Quân của vài quốc gia đồng minh. Danh sách sĩ-quan Hải-Quân V.N.C.H. từng tu nghiệp tại Trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ Hải-Quân Trung-Tá Trần Văn Chơn 1959-1960 Hải-Quân Trung-Tá Chung Tấn Cang 1960-1961 Hải-Quân Trung-Tá Đặng Cao Thăng 1961-1962 Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Đức Vân 1962-1963 Hải-Quân Trung-Tá Trần Văn Phấn 1963-1964 Hải-Quân Trung-Tá Lâm Ngươn Tánh 1964-1965 Hải-Quân Trung-Tá Đinh Mạnh Hùng 1965-1966 Hải-Quân Trung-Tá Khương Hữu Bá 1966-1967 Hải-Quân Trung-Tá Vũ Đ́nh Đào 1967-1968 Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Hữu Chí 1968-1969 Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Xuân Sơn 1969-1970 Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Xuân Phong 1970-1971 Hải-Quân Đại-Tá Ngô Khắc Luân 1971-1972 Hải-Quân Đại-Tá Bùi Cửu Viên 1972-1973 Hải-Quân Đại-Tá Phan Văn Cổn 1973-1974 Hải-Quân Đại-Tá Dư Trí Hùng 1974-1975 |
All times are GMT. The time now is 12:07. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.