![]() |
• Khi đọc báo thấy có nhiều người bất hạnh nghèo đang bệnh tật cần tiền mua thuốc hay làm phẩu thuật, những vùng nghèo cần xây dựng hay thiếu thiết bị cho trường học. Nếu có khả năng chúng ta nên giúp ngay, đừng để cơ hội qua đi, để rồi đánh mất một cơ hội sống thương yêu. Đức này là đức hiếu sinh bố thí.
• Có ai nhờ giúp việc gì thì đang bận hay tính làm việc gì cũng dời lại làm sau. Khi có ai nhờ làm việc gì là người đó tin tưởng mình, hy vọng vào sự giúp đỡ của mình, vậy chúng ta hãy sống thương yêu và đừng làm cho người khác thất vọng. Người có lòng thương yêu luôn sẵn sàng vui vẻ giúp người mà không bao giờ nghĩ rằng người khác lợi dụng lòng tốt của mình. Đây là đức hoan hỷ bố thí. • Có khi chúng ta cho ai đó mượn tiền hay mượn đồ vật mà trả chậm thì chúng ta cũng vui vẻ, đừng hối thúc hay hỏi họ. Ai cũng có lúc khó khăn, mình cũng có lúc như vậy thì chớ nên làm khó người. Nếu ai cho mượn tiền hay mượn vật gì thì nên nhớ rằng nếu chẳng may người mượn vì lý do nào đó không trả được thì mình cũng sẵn lòng cho họ luôn. Còn không tính được chuyện này thì thà không cho mượn vì khi gặp chuyện không may xảy ra thì tình cảm sẽ bị mất, kể cả anh em, bạn bè, vợ chồng, cha mẹ và con cái. Có thể mình không nói ra nhưng người mượn cũng cảm thấy khó chịu. Đức này là đức tỉnh giác bố thí. • Sống biết yêu thương mọi người và các loài vật sống xung quanh mình. Loài vật nào cũng cần có sự sống, loài vật nào cũng phải kiếm ăn hằng ngày. Kiếm ăn rất khổ cực. Mình đây cũng phải khổ cực đi làm hằng ngày kiếm tiền mua thức ăn thì mọi người, mọi loài vật đều như vậy. Nếu có dư đồ ăn thì mình chia sẻ cho người khác, cho loài vật khác. Như vừa rồi trên TV có thống kê số tiền thu nhập của tổng thống Mỹ Obama trong đó ông có nhận 1.4 triệu đô cho giải Nobel, số tiền này ông tặng cho các quỹ từ thiện, ngoài ra còn một phần thu nhập của ông cũng đã làm từ thiện. Đức này là đức hiếu sinh bố thí. • Khi sống với đức bố thí người bố thí nên biết cám ơn người nhận bố thí. Có thể câu nói này hơi lạ, xin các bạn đọc mẫu chuyện này. Thành La Phiệt thời Đức Phật có ông Hoàng rất hung bạo. Thêm vào đó quyền thế và địa vị của ông có thể giúp ông thủ tiêu tội án trước pháp luật, chưa một lời phải nào, một đạo giáo nào cảm hóa được ông. Một hôm ông gặp Phật. Đức Phật dạy cho ông niệm Phật: “Hãy tưởng niệm Phật đà, hãy từ bi thương người, hãy hùng lực cứu người”. Đêm hôm ấy, ông suy nghĩ mông lung, ông nghĩ: “Nhớ Phật phải nhớ đến người nghèo khổ, tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ. Rồi mới sáng, ông đi tìm Phật. Giữa đường ông gặp một người hành khất ốm liệt bên vệ đường. Không suy nghĩ ông đến ân cần hỏi han và dốc hết tiền trong túi ra cho. Người ấy e sợ cám ơn rối rít. Nhưng ông chỉ bảo: Vì tưởng nhớ Phật nên tôi giúp anh. Anh nhận tiền này khiến tôi được phước, thế là tôi ơn anh chứ nào anh ơn gì tôi? Người hành khất nghe thế, lấy làm lạ vì không lạ gì tính nết của ông và uy danh của đức Phật nữa. Bỗng nhiên người ấy cất tiếng niệm: “NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT” (kính lễ đấng giác ngộ). Ông Hoàng cũng bất giác niệm theo và đi mau tìm Phật. Khi gặp được Ngài, ông thuật rõ đầu đuôi mọi việc. Nghe xong đức Phật mỉm cười hiền từ bảo : Phải! Niệm Phật ông phải tưởng niệm người nghèo khó là để giúp đỡ họ. Tưởng niệm người nghèo khó, để giúp đỡ họ là tưởng niệm Phật đó. Qua câu chuyện trên chúng ta thấy dù một người hung bạo, bảo thủ, kiêu mạn đến đâu cũng có tấm lòng thương yêu. Chính lòng thương yêu sẽ thay đổi tâm tánh của họ. Một vấn đề nữa chính là Phật dạy niệm Phật chính là sống như đời sống của Phật biết yêu thương mọi người, biết sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ các loài vật, đó chính là niệm Phật. Niệm Phật như vậy mới đúng là có ý nghĩa, là có trí tuệ. Chính điều này mới thực tế, mang đến hạnh phúc thật sự. Đức Phật thường nói: “Trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì trí tuệ ở đó, giới luật làm thanh tịnh trí tuệ, trí tuệ làm thanh tịnh giới luật” Giới luật của đạo Phật chính là đạo đức, là đức hạnh của con người. Ai sống có đạo đức, chính người đó có trí tuệ. Đức này là đức bố thí khiêm tốn và đức minh mẫn. (Theo blog Chánh Kiến) |
Họa Phúc Tương Sinh
Đừng được phúc vội mừng, gặp họa vội bi quan bởi vì trong cái may có cái rủi, trong cái rủi có cái may! Cám ơn tác giả bài viết. Họa và phúc tương sinh với nhau và sự chuyển hóa này khó mà lường trước được. Họa là gốc của Phúc, Phúc là gốc của Họa. Họa – Phúc luân chuyển và tương sinh. Dưới đây là một vài câu chuyện nói về điều này. Có một vị quốc vương, khi ra ngoài đi săn không may bị đứt một ngón tay, mới hỏi vị đại thần thân cận nên làm thế nào? Đại thần nói với giọng lạc quan, nhẹ nhõm: “Đây là việc tốt!” Quốc vương nghe vậy giận lắm, trách ông hí hửng khi thấy người khác gặp nạn, vì thế ra lệnh nhốt ông vào đại lao. Một năm sau, quốc vương lại ra ngoài đi săn, bị thổ dân bắt sống, trói vào đàn tế, chuẩn bị tế thần. Thầy phù thủy đột nhiên phát hiện quốc vương khuyết mất một ngón tay, cho rằng đây là vật tế không hoàn chỉnh, bèn thả quốc vương ra, thay vào đó viên đại thần tùy tùng làm vật hiến tế. Trong niềm vui thoát nạn, quốc vương nghĩ tới viên đại thần vui vẻ từng nói rằng mất ngón tay là việc tốt, liền ra lệnh thả ông, và xin lỗi vì đã vô cớ bắt ông chịu nạn 1 năm trong ngục tối. Vị đại thần này vẫn lạc quan nói: “Cái họa 1 năm ngồi tù cũng là việc tốt, nếu như tôi không ngồi tù, thì thử nghĩ vị đại thần theo người đi săn mà bị lên đàn hiến tế kia sẽ là ai?” Bởi vậy, việc tốt chưa chắc đã tốt hoàn toàn, việc xấu cũng chưa chắc đã hoàn toàn xấu. Đạo Phật dạy “vô thường”, mọi chuyện có thể thành tốt, mọi chuyện có thể nên xấu. Người bi quan mãi mãi nghĩ đến mình chỉ còn một triệu đồng mà buồn lo, người lạc quan vẫn cảm thấy hạnh phúc vì mình vẫn còn mười ngàn đồng. Khi Tô Đông Pha bị giáng về đảo Hải Nam, sự cô tịch, hoang vu trên đảo so với thời kỳ đầu ông mới được thăng chức vùn vụt đúng là hai thế giới khác nhau một trời một vực. Nhưng sau đó, Tô Đông Pha nghĩ, giữa vũ trụ này, sống trên hòn đảo cô độc này thực ra không chỉ có một mình ông. Trái đất cũng là một hòn đảo cô độc giữa biển cả, giống như con kiến giữa chậu nước, khi leo lên một phiến lá, đây cũng là một hòn đảo mồ côi. Vì thế, Tô Đông Pha cảm thấy chỉ cần biết hài lòng là có thể vui vẻ. Ở trên đảo, mỗi lần ăn một món hải sản địa phương, Tô Đông Pha lại thấy mình thật may mắn vì đã được đến đảo Hải Nam này. Thậm chí, ông nghĩ nếu trong triều có vị đại thần nào đến đây sớm hơn ông, ông làm sao có thể được tự mình nếm những món ăn ngon lành như thế ? Họa là gốc của Phúc, Phúc là gốc của Họa. Họa – Phúc luân chuyển và tương sinh. Sự biến đổi ấy không thể nhìn thấy được, chỉ thấy cái kết quả của nó. Hai điều họa phúc cứ xoay vần với nhau, khó biết được, nên khi được Phúc thì không nên quá vui mừng mà quên đề phòng cái Họa sẽ đến; khi gặp điều Họa thì cũng không nên quá buồn rầu đau khổ mà tổn hại tinh thần. Việc đời, hết may tới rủi, hết rủi tới may, nên cần giữ sự thản nhiên trước những biến đổi thăng trầm trong cuộc sống. |
Như trường hợp của một anh bạn trước đây không lâu: công việc kinh doanh của anh đang đà tuột dốc, biết là vậy nhưng anh cứ loay hoay không biết phải làm sao. Thời cuộc thay đổi kéo theo nhu cầu thị trường cũng đổi thay. Tiếp tục làm thì thua lổ, chấm dứt để đổi sang cái mới thì lại tiếc công sức đã bỏ ra, lại cũng lo khi chuyển việc mới thì cần có vốn, phải xây dựng lại thị trường từ đầu liệu có hơn được không?
Giữa lúc phân vân như vậy thì biến cố ập đến, cơ sở của anh bị thưa kiện vì tiếng ồn, hạn phải đóng cửa hoặc di dời trong vòng 30 ngày. Lúc đó quả thật thấy anh chỉ muốn điên, sau vài ngày đắn đo suy nghĩ anh đã đi đến quyết định đóng cửa ; Anh gọi cho các khách hàng, bạn bè trong giới tuyên bố thanh lý toàn bộ cơ sở, vừa bán vừa cho để giải quyết tất cả công nợ. Chỉ trong vòng 2 tuần anh đã trở về con số O. Liên tiếp bao đêm sau đó anh không ngủ được, đầu óc suy nghĩ miên man chỉ một câu thôi: “Làm cái gì để sống?”. Mọi người cũng sốt ruột thay cho anh, mỗi người đưa ra một lời khuyên, cuối cùng “cái khó ló cái khôn” anh đã quyết chọn một hướng đi mới và sau một thời gian nỗ lực thành công đã đến vượt quá cả mong ước. Vậy cái biến cố lúc đó là phúc hay hoạ? Nếu không có nó liệu anh ta có dứt khoát từ bỏ cái sự nghiệp đang lụi tàn để làm lại từ đầu hay không? Phải mất một thời gian sau ta mới nhận ra là họa hay phúc. Duy trì sự cân bằng và tinh thần lạc quan giữa cuộc sống hiện đại nhiều cạnh tranh và áp lực Chắc chắn những câu chuyện họa và phúc còn diễn ra nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, bạn sẽ có được nhiều điều giá trị trong cuộc sống, đôi khi không chỉ về mặt vật chất. Luôn duy trì sự cân bằng và tinh thần lạc quan giữa cuộc sống hiện đại, nhiều cạnh tranh và áp lực bạn sẽ giữ được tâm bình, sự thản nhiên và sáng suốt trước những xoay vần trong cuộc đời. Sưu tầm |
Dị Hóa" Tiếng VIệt
Tiếng Việt đã bị ‘dị hoá’ “Mother ui, hum n4i kon hk zia, kon f4i 0 l4i hok th3m.” Đó là một câu trong đề thi Việt văn mà học sinh phải phân tích. Tiếng Việt đây sao? Thoạt đọc câu này, tôi không hiểu đó là cái gì, cho đến khi đọc được câu đã được ‘dịch’ ở trong ngoặc ('Mẹ ơi, hôm nay con không về, con phải ở lại học thêm'). Đề thi là: "Bạn trẻ trong tình huống trên đã sử dụng ngôn ngữ chat, ngôn ngữ teen để nói chuyện với mẹ. Nhận xét về từ ngữ xưng hô và cách sử dụng từ Tiếng Việt. Từ đó em rút ra bài học gì trong giao tiếp?" Nếu tôi phải phân tích đề văn này, tôi sẽ nói ngay, đó không phải là tiếng Việt! Và thật là hỗn láo nếu con cái nói chuyện với cha mẹ bằng thứ ‘tiếng lạ’ kia (trừ từ ‘mother’, mà trong giao tiếp thì trẻ con bên này hay gọi Mẹ là ‘Mom’, hoặc ‘Mami’). Và tất nhiên, không cần phải phân tích làm gì thứ ngôn ngữ lạ ấy. Trong khi đó một bộ phận cộng đồng mạng ở VN lại ủng hộ, hưởng ứng cách ra đề thi như vậy vì nó theo chủ trương của Bộ Giáo dục VN là ‘đổi mới phương thức ra đề’ Một phụ huynh đọc xong đề thi, nói:”Hết chuyện dạy rồi hay sao mà kêu học sinh phân tích ngôn ngữ ‘chat’?” Theo thạc sĩ ngôn ngữ học Lý Thơ Phúc, giảng viên Trường ĐH Phú Yên, ngôn ngữ “chat” dựa vào sự tiện lợi, ngắn gọn nên học sinh rất thích và sử dụng thành phong trào. Điều lo ngại nhất là thứ ngôn ngữ này đã tràn vào trường học, đặc biệt là các trường phổ thông, ở lứa tuổi học sinh đang hoàn thiện nhân cách cũng như vốn tiếng Việt. Mà thế hệ sau này, không phải ai cũng có vốn tiếng Việt hoàn chỉnh. Ngay cả trong làng báo, rất nhiều phóng viên-những người được xem là ‘giỏi chữ nghĩa’, song vẫn viết những câu ...khó hiểu, dùng từ sai nghĩa, bỏ dấu lung tung, nhất là dấu hỏi, dấu ngã. Những cuộc chat của giới trẻ 8X, 9X nhằm nói theo cách vui nhộn những thông tin riêng tư đồng thời muốn khẳng định mình, sẽ dẫn tới thứ ngôn ngữ chat lạ hóa tiếng Việt, mà xã hội đặc biệt quan tâm và lo lắng chúng làm biến dị tiếng Việt. Lạ hoá tiếng Việt bình thường theo cách: a) dùng xen tiếng nước ngoài; b) dùng phương ngữ tuỳ tiện; c) dùng những ký tự lạ, biến đổi tuỳ tiện con chữ; d) thay đổi, rút gọn tuỳ tiện âm đầu, thanh điệu, nguyên âm, âm cuối trong một vần. Như: “Pùn nhủ mún chít mà zẫn fải học” (Buồn ngủ muốn chết mà vẫn phải học); “Tua^n` naizz` hum~ koa’ gi` dang’ ke^~… hum~ lum` dc gi` hit” (Tuần này hổng có gì đáng kể… hổng làm được gì hết)… Cha mẹ có con trong lứa tuổi teen, vì không hiểu chúng nói gì, nên phải học ‘ngôn ngữ’ của chúng, lâu ngày cũng...xài luôn một cách vô thức. Điển hình là trên các trang mạng xã hội, người ta có thể dễ dàng đọc được những comment của người lớn, dùng ngôn ngữ chat. Ngôn ngữ chat thay đổi hẳn Việt văn: Nguyên âm "ô" được thay đổi bằng âm "u", nguyên âm "ê" thay bằng nguyên âm "i", nguyên âm "ă" thay bằng "é" ví dụ: "một" được viết là "mụt", "chết" viết là "chít", "thôi chết rồi" được viết là "thui chít rùi", "lắm" được viết là "lém". Với các từ có nhiều nguyên âm thì âm "ô" hay "ê" sẽ bị cắt bớt đi, ví dụ: từ "luôn" viết là "lun"; từ "suốt" viết là "sút", "biết" viết là "bít". Một số vần như vần "ây" chỉ viết là "i"; vần "yêu" viết là "iu", ví dụ: "bây giờ" được viết là "bi giờ" hay "bi h", "em yêu" được viết là "em iu". Phụ âm cũng bị ...cắt bớt, như "xong" chỉ viết là "xog", từ "lủng củng" chỉ viết là "lủg củg" từ "mình" chỉ viết là "mìn", từ "rồi" viết là "òi"...Và nhiều kiểu câu chữ... dị dạng khác. Chỉ với vài kiểu ‘chế biến ngôn ngữ’ như trên, đã thấy lỗi chính tả Việt văn hiện nay đang ở mức báo động. Vẫn biết, người lớn dung từ ngữ tuổi teen để...vui là chính, nhưng với lứa tuổi học sinh phổ thong, khi mà tiếng mẹ đẻ của chúng còn chưa rành, đã bị thâm nhập tiếng quái lạ, sau này, văn chương của chúng chắc cũng thuộc dạng ‘quái thai’. Bởi, ngôn ngữ chat không phải là tiếng Việt. Ảnh hưởng của ngôn ngữ chat đã xảy ra. Trong bài viết "Tràn lan bài thi viết sai lỗi chính tả" đăng trên Tạp chí Giáo dục thủ đô số 10+11 tháng 10/2010 tác giả Lê Nhung đã viết: "Ví dụ, trong kỳ thi vào lớp 10 THPT, có bài làm văn của học sinh như sau: “Bài thơ “Nhớ rừng” của nhà thơ Thế Lữ đã diễn tả rất xâu xắc tâm trạng của tầng lớp thanh niên chí thức lúc bấy giờ”. Hoặc ngay trong bài nghị luận về vấn đề “Học phương pháp học”, một học sinh lớp 12 đã viết: “Em sẽ cố gắng thay đổi cách học bài, dù có pùn ngủ mún chit cũng phải giải quyết hết bài tập...” (!!) Trong tiếng Anh, cũng có tiếng lóng của giới học sinh (schoolboy slang), nhưng đã viết thành chữ, thành văn, thì không được dùng những từ lóng này. Tôi là ông giáo về hưu, thấy điều chướng tai gia mắt về chuyện giáo dục xảy ra ở quê nhà thì không chịu được. Tôi tin rằng các cháu nhỏ sinh sống tại Mỹ không bị ảnh hưởng thứ tiếng quái dị này, vì đa số các cháu chỉ biết nói, chứ ít cháu nào biết viết. Nhưng nếu gia đình nào muốn dạy các cháu viết tiếng mẹ đẻ, cũng nên biết đã có hiện tượng này, để mà tránh xa. Lâm Nguyễn (Seattle) |
Chuyện Đạo
Đạo bất khả tu du ly dã. (Không thể rời xa Đạo dù chỉ trong tíc tắc.) Trung Dung Đây là chuyện tôi nghe: Có thầy nọ sống đời tu hành rất mực thánh thiện. Không kể những lúc bắt buộc phải nhín chút thời gian dành cho các sinh hoạt cần thiết của đời thường, thầy luôn cố gắng thu xếp tối đa thời gian trong ngày để cầu nguyện, tụng kinh, ngồi thiền, v.v… Đầu óc thầy hầu như không còn chỗ nào trống trải cho các tà niệm sái quấy có thể thừa cơ len lỏi vào. Sau nhiều năm dài tu hành tinh nghiêm, cẩn mật như thế, thầy thấy mãn nguyện trước sự tiến bộ tâm linh.Thế rồi khuya hôm nọ, sau khi xong cữ thiền giờ Tý, thầy đi ngủ và mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng. Trong lúc chủ tiệc chưa ra tiếp khách, mọi người lần lượt được rước tới bàn ăn rất to và dài. Ai cũng có chỗ ngồi trang trọng theo đúng thứ bậc vì chủ tiệc đã gắn sẵn trên mặt bàn những tấm thẻ nhỏ ghi họ tên từng thực khách. Thầy thấy mình được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú.Sáng hôm sau, thầy tìm tới tiệm tạp hóa, lựa một góc và nhẫn nại đứng quan sát rất lâu. Tiệm không lớn lắm nhưng lúc nào cũng có khách hàng vào ra nườm nượp. Chủ tiệm chẳng hở tay bán hàng, thu tiền, thối tiền… vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã… Tuyệt nhiên không thấy chủ tiệm có cử chỉ, động tác đặc biệt gì tỏ ra ông đang tĩnh tâm hay cầu nguyện. Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn nói: “Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay. Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá. Đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Lát nữa sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.” Thầy chiết dầu vừa xong thì đúng lúc chủ tiệm được ngơi tay bán hàng. Ông ta bước tới hỏi: “Nãy giờ cắm cúi lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời tới Phật không?” Thầy bẽn lẽn: “Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi. Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật Trời!”Chủ tiệm cười hiền: “Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng, thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non đong thiếu. Khi chiều chuộng khách hàng tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị. Gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy. Huệ Khải |
Monday, January 27, 2014
Gai Hoa Hồng Ông đúng là ông già khó chịu! – Becky nói với ông già khi cô đi ra khỏi phòng bệnh của ông ta ở bệnh viện nhân đạo, nơi mà cô đã làm việc hơn một năm nay. Bệnh nhân mới này ở đây được khoảng hai tuần và ông ta làm cho cuộc sống của tất cả các y tá trở thành địa ngục. Ông ta chửa rủa, quát, đá tất cả những ai lại gần ông ta. Đó là còn chưa kể việc ông ta cố tình đổ thức ăn ra giường để y tá phải đến dọn, và để ông ta có thể nguyền rủa thêm. Becky không nghĩ là ông ta có người thân vì chẳng có ai đến thăm ông, ít nhất là trong khoảng thời gian cô phải chăm sóc ông ta. Một hôm, một tổ chức phụ nữ đến thăm bệnh viện. Họ hát và đem hoa hồng đến, tặng mỗi bệnh nhân một bông hoa đỏ thắm. Ông già khó tính nhìn bông hoa được cắm tử tế trong lọ thủy tinh trên bàn, lấy mu bàn tay gạt cái lọ. Cái lọ rơi xuống, vỡ tan tành. Mọi người chỉ đứng nhìn ông ta vẻ kỳ lạ. Ông trở mình quay mặt vào tường xoay lưng lại những người từ tổ chức phụ nữ đến thăm. Một người bắt đầu dọn những mảnh vụn của cái lọ. Becky nhặt bông hoa lên, cắm nó vào một cái cốc nhựa và đặt lên tủ đầu giường của bệnh nhân già kia. Khi người của tổ chức phụ nữ đã đi về, Becky quay lại phòng ông bệnh nhân khó chịu, cầm bông hoa hồng và ngắt từng cánh một, ném vào thùng rác bên cạnh. Ông già nhìn thẳng cô y tá, cho đến khi cô ngắt đến cánh cuối cùng. Còn lại cuống hoa, cô cắm trả lại cốc nhựa. Vừa khi cô định quay đi thì ông bệnh nhân già làu bàu: -Sao cô lại làm thế? -Tôi chỉ muốn ông thấy những gì ông đã làm? – Becky đáp – Ông đã phá vỡ những mối quan tâm của chúng tôi với ông như là ngắt bỏ từng cánh hoa một, kể từ khi ông đến đây. Rồi Becky đi ra. Sáng hôm sau, khi đến bệnh viện thì các bác sĩ bảo Becky đến dọn phòng ông bệnh nhân già. Ông đã mất vào đêm hôm trước. Khi Becky thu khăn trải giường đi giặt, cô nhìn thấy bông hoa hồng vẫn còn nguyên vẹn trong cái cốc nhựa. Những cánh hoa đã được đính vào cuống hoa bằng băng dính một cách vụng về. Becky cũng thấy ở dưới gối của ông lão có một quyển Kinh thánh. Khi cô nhấc quyển sách lên, trong đó rơi ra một tờ giấy, có ghi: "Không phải tôi muốn mọi người ghét tôi. Tôi chỉ không muốn tất cả mọi người sẽ quên tôi. Tôi đã là một đứa trẻ mồ côi và tôi chẳng bao giờ có một người thân." Là một đứa trẻ mồ côi từ nhỏ, Becky hiểu rằng người bệnh nhân già đó không phải là một ông lão khó chịu. Chỉ vì không có ai trên thế giới này quan tâm đến ông ấy. Vì ông thấy mọi người đều quên ông ấy, ngay cả khi ông ấy vẫn còn sống. Và tất cả những gì ông lão muốn chỉ là có ai đó nhớ tới ông... Khuyết danh |
Wednesday, January 29, 2014
Cuộc Sống Và Tôi Tôi nói với cuộc sống rằng hãy lấy đi lòng tự trọng của tôi, nhưng cuộc sống từ chối. Cuộc sống nói với tôi rằng cuộc sống không thể lấy đi lòng tự trọng của tôi, nhưng tôi có thể từ bỏ tự trọng của mình khi tôi muốn. Tôi nói với cuộc sống rằng hãy làm cho đứa con tật nguyền của tôi được lành lặn, nhưng cuộc sống từ chối. Cuộc sống nói với tôi rằng tâm hồn đứa con của tôi thật hoàn hảo, và thân thể chỉ là tạm thời mà thôi. Tôi nói với cuộc sống hãy ban cho tôi sức chịu đựng, nhưng cuộc sống từ chối. Cuộc sống nói với tôi rằng sự chịu đựng có được một phần do những đau khổ gây nên – và sự chịu đựng không phải là một đặc ân ban tặng – chịu đựng là một bản năng sống. Tôi nói với cuộc sống hãy mang đến cho tôi niềm hạnh phúc, nhưng cuộc sống từ chối. Cuộc sống nói sẽ mang đến những điều may mắn cho tôi và hạnh phúc sẽ khởi nguồn từ chính bản thân tôi. Tôi nói với cuộc sống hãy làm giảm đi những nỗi đau trong tôi, nhưng cuộc sống từ chối. Cuộc sống nói rằng sự chịu đựng giúp tôi thoát khỏi những lo lắng vật chất và mang tôi đến gần cuộc sống hơn. Tôi nói với cuộc sống hãy giúp tôi luôn chín chắn, nhưng cuộc sống từ chối. Cuộc sống nói với tôi rằng tôi phải biết tự trưởng thành, nhưng cuộc sống sẽ tô điểm thêm vào những năm tháng trong đời tôi với những lần vấp ngã giúp tôi có thêm những kinh nghiệm sống. Và khi tôi nói với cuộc sống rằng hãy giúp tôi có thể yêu một người nào đó nhiều như người đó đã yêu tôi, cuộc sống nói với tôi rằng cuối cùng tôi cũng hiểu ra vấn đề rằng cuộc sống không là một phép màu để cầu xin, cuộc sống là cơ hội để tôi được yêu thương và biết yêu thương. Cuộc sống không cố ý muốn làm chúng ta e dè sợ hãi, mà chỉ muốn chúng ta hiểu và sống mà thôi. Khuyết danh |
Luật Nhân Quả Trong Cuộc Sống Xã Hội Và Khoa Học - Bác Sĩ Thái Minh Trung
Luật Nhân Quả là một cuộc cách mạng tâm linh Khi không hiểu luật nhân quả, con người sống trong sự sợ hãi mê tín mù mờ. Họ giải thích những hiện tượng thiên nhiên qua sự mê tín dị đoan. Thí dụ khi hạn hán mất mùa, họ nghĩ là vì ông thần đất đai giận nên phải hối lộ ông ta bằng cách cúng kiến mới có được trời mưa. Mới đầu thì tế lễ bằng con gà không có hiệu quả, rồi đến con bò, đến khi sự cuồng tín lên cao có thể dẫn đến giết một em bé hay một trinh nữ để tế thần như dân tộc Incas đã từng làm. Ngoài ra trong cuộc sống hàng ngày, đi đứng làm cái gì quan trọng thì phải coi ngày giờ tốt như vậy để tránh cái sợ hãi của những điều xấu xảy ra bất thần chớ không hẳn là tránh được những điều xấu. Nếu quả thật có như vậy thì thế giới này không có sự đau khổ vì mọi sự đều như ý con người muốn. Ông vua dù có mướn thầy địa lý giỏi nhất nước để xây cung điện nhưng nếu không thương dân, lấy thuế cắt cổ, lúc hết thời thì ngai vàng vẫn bị mất như thường. Nói về hành động cá nhân, nếu không nhận thức có luật nhân quả thì không có gì ngăn cản con người làm việc ác miễn sao trốn tránh được cặp mắt của luật pháp là được, cho nên xã hội rất bấp bênh. Nếu vua và dân hiểu được luật nhân quả thì đất nước dễ thanh bình và dân sẽ được hạnh phúc. Khi Đức Phật giác ngộ thì Ngài nhận ra luật nhân quả là nền tảng của thế giới tâm linh và vật chất. Mọi hiện tượng từ tâm lý đến vật chất đều có những sự liên quan vô hình rất chặt chẽ, đó là luật nhân quả. Luật nhân quả là sợi dây vô hình nối liền hai biến cố xuyên qua thời gian và không gian. Cho nên khi hiểu luật nhân quả, ta có thể thay đổi biến cố đó theo chiều thuận cho ta, thay vì phải lo sợ hối lộ hoặc cầu khẩn một vị thần linh tưởng tượng nào đó phù hộ cho ta hoặc thỏa mãn điều ta mong ước. Sự mê tín cuối cùng sẽ đưa đến sự thất vọng và mặc cảm tội lỗi (ta có tội nặng quá vị thần không giúp được). Luật nhân quả rất đơn giản, nếu muốn có một kết quả tốt thì ta phải tạo nhân lành. Thí dụ như khi ta nuôi dưỡng một ý nghĩ hận thù thì ta không thể vui cười hồn nhiên được. Khi ta gạt gẫm người khác thì tối về ngủ không yên giấc vì sợ bị phát hiện. Khi ta gieo hạt lúa thì không bao giờ được cây cổ thụ. Khi con người bắt đầu hiểu được như vậy thì họ lấy về được một phần sức mạnh của những vị thần linh. Họ bắt đầu làm chủ được tương lai của họ và lấy lại định mệnh của họ từ tay các vị thần. Hiểu và tin được luật nhân quả là một cuộc cách mạng tâm linh (spiritual revolution) vì sự nhận thức đó sẽ phá tan gông cùm của sự mê tín và giúp con người làm chủ được cuộc sống của họ. Luật Nhân Quả và khái niệm không gian thời gian Khi đi từ thế giới tâm linh qua thế giới vật chất thì sự thể hiện của luật nhân quả thay đổi từ rõ đến mờ. Sự thể nghiệm ở thế giới tâm linh rất nhanh và rõ nhưng khi qua cái màn nặng nề của thế giới vật chất thì luật nhân quả bị loãng ra vì phải trải qua nhiều thời gian mới hiện ra rõ được. Cũng vì thế mà khi con mắt bị vật chất làm mờ rồi rất khó mà nhận thức luật nhân quả. Thí dụ như kẻ trộm thành công một vài lần rất khó nhận thức rằng mình sớm muộn gì sẽ vào tù. Nếu kẻ trộm đó nhận thức rằng mình cần phải thay đổi lòng tham của mình (thế giới tâm lý) thì trong tức khắc có khả năng thay đổi được chiều hướng cuộc sống mình bằng cách học nghề và làm ăn lương thiện. Ngược lại, nếu anh ta cứ tiếp tục hành nghề bất lương, lòng tham càng lớn và ăn trộm càng táo bạo hơn, thì một thời gian sau đó anh bị bắt vào tù và sẽ hối hận (thế giới vật chất). Như vậy, khi nhận thức ở tâm linh thì chuyển nghiệp (karma) rất nhanh, đợi khi nó thể hiện ở cõi vật chất rồi thì cái thời gian thay đổi rất chậm chạp, khó khăn, phức tạp và khổ sở. Với đời sống con người có giới hạn thời gian, sự nhận thức có được khi hoàn cảnh xấu xảy ra đôi lúc quá trễ. Con người có thể không còn đủ thời giờ để cải thiện. Ngoài ra khi họ tiến quá sâu trong hoàn cảnh xấu, trở lại điểm ban đầu rất là gian nan. Thí dụ như anh trộm khi ra tù muốn học lại thì tuổi cao, kiến thức đổi khác nhiều, bạn bè cùng lứa đã có sự nghiệp thành công hết. Anh ta phải khuất phục sự chậm chạp của tuổi cao và lòng mặc cảm để đi học lại. Mặc dù như thế, anh ta sẽ khó mà ngang hàng với các bạn được vì mất khoảng thời gian quá lâu trong tù. Khi hiểu được luật nhân quả thì câu hỏi có định mệnh (destiny) hay không là tùy nơi con người. Định mệnh có thật khi ta để lực (force) nhân quả lôi cuốn và thụ động để cái nhân ở tâm lý biến thành cái quả ở thế giới vật chất. Định mệnh không có khi ta chủ động biến chuyển những tư tưởng (nhân) xấu thành tốt và theo đó diễn biến (quả) tốt lành sẽ đến với ta. Đôi lúc cái nhận thức nhân quả ở thế giới vật chất rất khó khăn vì có người làm lành mà sao lại gặp ác, rồi họ đâm ra chán nản và cho rằng không có luật nhân quả. Sở dĩ như vậy vì con mắt phàm không thể nhìn thấu được quá khứ và không hiểu được những khúc mắc của nghiệp. Nhưng nếu có người nào đó giữ được tâm hồn tha thứ buông xả thì mặc dù biến cố xấu đến với họ đó, nhưng cái tác động trên tâm lý tạo sự đau khổ giảm đi rất nhiều. Thì đó chẳng qua là một điều lành trong một biến cố dữ. Hiểu được luật nhân quả ở tâm thì ta nhận thức rõ hơn và ta sẽ thấy sự thay đổi nhanh hơn. |
Nhân-Duyên-Quả
Nghiệp (karma) là những biến cố vui buồn xảy ra trong đời người. Nghiệp, dòng sông nhân quả trong cuộc đời con người, rất là phức tạp. Nghiệp không phải đơn giản như một cái máy, ta bấm nút (nhân) thì máy hoạt động (quả). Nghiệp có thể ví như một dòng sông và nhân quả là những phân tử (molecule) nước lưu chuyển, tác động lẫn nhau trong dòng sông đó. Ngoài nhân-quả ra còn yếu tố duyên nữa. Duyên là những yếu tố ở không gian và thời gian giúp nhân trở thành quả hoặc ngược lại ngăn cản hoặc đình trệ sự nối liền của nhân quả, làm giảm sức mạnh của quả. Sự sống đa dạng và sáng tạo là nhờ duyên. Như vậy duyên đóng vai trò điều chỉnh (modulation) nhân-quả. Thí dụ dễ hiểu là khi ta gieo hạt lúa (nhân) trong đồng ruộng ẩm ướt phì nhiêu (duyên), vài tháng ta sẽ có những cọng lúa xanh mượt (quả). Nếu có người lữ hành băng qua sa mạc và làm rơi một hạt lúa thì ngàn năm sau hạt lúa đó vẫn là hạt lúa (nghịch duyên). Nếu hạt lúa đó được gió thổi rơi vào một nơi ẩm ướt trên sa mạc thì hạt lúa sẽ mọc thành cọng lúa nhưng rất yếu ớt vì thiếu phân bón. Như thế ta thấy rằng cùng một nhân, qua nhiều duyên khác nhau sẽ cho ta kết quả khác nhau. Thực tế nhân quả không đơn giản như trên mà hoạt động như một mạng lưới nhện (web). Một nhân có thể là khởi đầu của một chuỗi phản ứng (chain of events). Những yếu tố duyên tác động lên chuỗi phản ứng đó để cho ra nhiều kết quả ở nhiều từng lớp khác nhau. Thí dụ: Có một người vì lòng tham (nhân) phá rừng bán gỗ làm lợi nhuận cho riêng mình. Trời mưa, không có rễ cây hút nước (duyên) nên tạo thành lụt (quả), loài chim mất môi sinh (duyên) dời đi nơi khác (quả). Không có chim ăn (duyên) nên sâu bọ lan tràn đồng ruộng (quả). Không có cây hút thán khí (CO²) nên từ đó khí hậu bị ô nhiễm. Một nhân thiếu sáng suốt sẽ gây ra rất nhiều hậu quả tai hại về sau mà ta khó có thể lường trước được. Giới luật là nhằm biến đổi cái duyên để cho cái nhân tham, sân và si không có cơ hội để biến thành quả dữ (tham-ăn trộm, sân-giết chóc, si-đau khổ). Xuất gia là tránh xa những duyên có thể dẫn đến quả dữ và gần gũi với những duyên khuyến khích quả lành được biểu hiện. Tuy nhiên thay đổi duyên ở thế giới vật chất không bền vững lắm. Thí dụ lòng tham tiền có thể biến thành tham chùa mình được đẹp nhứt, sân (giận) có thể biến thành bực bội khi đệ tử quên chấp tay xá mình, và si là chấp vào thời gian tụng kinh mà không hiểu ý kinh tạo ra sự tranh chấp hơn thua. Cho nên vào cảnh tịnh mà còn giữ mầm mống tham, sân, si thì cảnh tịnh đó sẽ trở nên cảnh ưu phiền. Thiền tông chú trọng đến cái duyên ở tâm là tư tưởng. Tham, sân, si mà không có tư tưởng để nuôi dưỡng chúng thì dần dần sẽ tự tiêu mòn. Cho nên giữ giới nơi tâm thì hiệu nghiệm hơn là giữ ở thân hay cảnh. Nếu tâm ta nuôi dưỡng sự bực dọc mà miệng thì tụng kinh thì khó có thể mà ta có được hạnh phúc vì càng tụng kinh, càng mệt mỏi thì sự bực dọc càng nhiều hơn nữa. Một trong những phương pháp thiền là ta nhận thức sự bực bội và từ bi hỷ xả phóng sanh nó ra theo từng hơi thở nhẹ nhàng rồi dần dần sự bực bội đó sẽ tan biến. Đó là một cách “tụng kinh sống” hữu hiệu nhứt. Tụng kinh sống là tụng ý (thay vì chữ) kinh trong từng hơi thở, trong lúc đi, đứng, nằm và ngồi. Nói một cách khác, thiền hay tụng kinh sống là khi ta ý thức không tạo cái duyên nuôi dưỡng tham, sân, si trong tâm ta. Nếu ta không nuôi chúng thì tự động chúng sẽ rời bỏ ta. Rồi ta sẽ trở về sống với con người hạnh phúc của ta. Nhân quả và Thiên Chúa giáo Mặc dù Thiên Chúa giáo không đề cập nhân quả một cách trực tiếp nhưng tất cả những câu chuyện trong Thánh kinh đều khuyên răn con chiên hãy củng cố lòng tin Chúa, thương người, giúp đỡ xã hội thì sẽ được cuộc sống hạnh phúc trong vĩnh cửu. Nói một cách khác Chúa khuyên con chiên tạo nhân lành (lòng tin, thương người, tha thứ), tạo duyên lành (xây dựng một xã hội lấy nền tảng là sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau, truyền đạo cho nhiều người được nhận thức) thì kết quả cuộc sống hạnh phúc sẽ dễ được thực hiện trên thế gian này và nếu tất cả mọi người làm được thì sẽ được hạnh phúc trong vĩnh cửu. Tuy nhiên có nhiều con chiên quá cuồng tín dùng sức mạnh áp đặt niềm tin lên kẻ khác và kết quả là hận thù và chiến tranh. Điều dễ hiểu là vì cái nhân là tham (muốn cá nhân mình được nhiều phước khi dẫn người khác vào đạo), sân (bực tức khi người ta không theo đạo mình) và si mê (ngạo mạn coi đạo mình trên tất cả các đạo khác) thì kết quả sẽ là chiến tranh và đau khổ. Vấn đề này không hẳn xảy ra ở đạo Chúa mà còn gặp ở nhiều tôn giáo khác hoặc ngay cả ở đạo Phật (phái này chê bai phái khác). Đó là vì con người mê lầm không chữa trị cái tham, sân si nơi chính mình mà muốn thay đổi thế gian. Muốn cái quả khác cái nhân thì không bao giờ có được. Nếu có kẻ nào nói làm được hẳn là họ tự gạt chính họ, sống trong ảo tưởng u mê. Tôn giáo cũng như thuốc, trị đúng bịnh thì thuốc hay, dù có thuốc quý mà dùng sai bịnh thì thuốc quý có thể thành độc dược. Vì thế không thể nói thuốc này hay hơn thuốc kia được. Đạo Phật có thí dụ ngón tay (phương tiện) chỉ mặt trăng, nếu ta ở nhiều nơi khác nhau thì ngón tay sẽ chỉ nhiều hướng khác nhau, nhưng khi nhìn thấy mặt trăng (cứu cánh) thì chỉ có một. Tác động trên tâm lý của Thiên Chúa giáo là dùng tình thương người và sự tha thứ tạo cái duyên lành làm giảm bớt ảnh hưởng của hoàn cảnh xấu (quả). Nếu ta tin vào một Thượng Đế công bằng bác ái ở bất cứ mọi nơi và mọi lúc, thì ta giao phó cho Ngài xử phạt những bất công trong cuộc đời ta. Như thế ta không mất ngủ bực tức tìm cách trả thù hay tìm những lời nói đâm thọc xỏ xiên. Với lòng tin đó ta sẵn sàng tha thứ kẻ muốn ám hại ta, tâm ta được an ổn và ta gieo rắc sự an ổn đó cho những người chung quanh ta. Làm được như vậy, mặc dù ta không mở miệng truyền giáo nhưng sẽ có rất nhiều người theo vì họ mến ta. Như thế lời cầu nguyện hữu hiệu nhứt phát xuất từ tư tưởng tha thứ thương yêu chớ không phải từ miệng nói tiếng thương yêu trống rỗng. Giáo đường chân thật của một linh mục hay mục sư là sự an ổn của con chiên khi họ cảm nhận được tình thương và sự tha thứ chân tình qua hành động của vị mục sư đó, chớ không phải cái giáo đường bằng ngói, bằng gạch. Cái giáo đường vật chất không bao giờ làm ấm được lòng người. Ta không thể nào gieo rắc sự an lành chung quanh ta nếu ta không có cái nhân của sự an lành đó trong tâm ta. Ta có thể dối chính ta chớ không thể dối với Thượng Đế và luật nhân quả được. |
Nhân quả và y khoa
Tuy nhân quả xuất xứ từ Phật giáo nhưng không hạn chế ở phạm vi tôn giáo. Hiểu được nhân quả giúp ta rất nhiều trong việc phòng ngừa bịnh tật. Trong Đông Y có câu người y sĩ giỏi trị bịnh lúc mà bịnh chưa phát triển. Y khoa hiện đại cũng đồng ý với vấn đề ngưà bịnh hơn là chữa bịnh. Cách tốt nhứt cho con người về vấn đề sức khỏe và xã hội về vấn đề tài chánh là thay đổi cuộc sống để ngừa bịnh. Muốn ngừa bịnh (quả) ta phải hiểu cho ra lẽ những yếu tố gây ra bịnh (nhân), tìm cách làm suy giảm những nguyên nhân gây ra bịnh, tìm cách không tạo duyên xấu để cho hậu quả bịnh dễ xảy ra và củng cố những duyên lành để ngăn ngừa bịnh. Bây giờ ta hiểu nguyên nhân của nhiều chứng bịnh là do vi trùng (bacteria) và vi khuẩn (virus) có kích thước nhỏ hơn vi trùng gây ra. Để làm suy giảm những nguyên nhân tạo ra bịnh, những nhà thuốc sáng chế ra các loại thuốc trụ sinh. Sự ỷ y có thuốc trụ sinh để trị bịnh mà không cần phòng ngừa hoặc dùng thuốc trụ sinh một cách không phân biệt đưa đến sự ra đời của những siêu vi trùng (“super bugs”) có sức kháng trụ sinh. Về phần bịnh nhân phải ráng ăn ở vệ sinh để không tạo cái duyên cho những loại vi trùng xâm chiếm cơ thể họ. Vaccine (chích ngừa) là cách phòng ngừa bịnh bằng cách dùng bộ kháng nhiễm (immune system) để chống lại bịnh. Vaccine là một cách thay đổi duyên làm cơ thể không thuận cho sự phát triển của bịnh. Một cách ngừa bịnh khác nữa là ta ăn ở vệ sinh, tìm cách tránh những nơi dễ gây ra bịnh tật là góp phần vào sự củng cố những duyên không thích hợp cho bịnh phát triển. Thực tế, ta không thể nào diệt trừ được tất cả những nhân tạo bịnh mà cách dễ dàng nhất là biến đổi cái duyên không thuận cho bịnh-quả phát triển. Con đường trị bịnh bằng cách diệt trừ nhân một cách hoàn toàn rất nguy hiểm vì có thể đưa đến sự mất cân bằng môi sinh và có thể tạo nhiều mối hiểm nguy khác. Thí dụ như khi ta đi du lịch ở những nước khác dễ bịnh tiêu chảy vì ở điều kiện ta sống không có loại vi trùng đó (nhân bị diệt) nên cơ thể ta không có chất miễn nhiễm, dễ sanh ra bịnh. Đứng trên phương diện năng lượng (sức lực, thời gian, tài chánh), dùng duyên để phòng ngừa quả là áp dụng năng lượng một cách hữu hiệu nhứt. Nhân quả và tâm lý học Stress, sự căng thẳng tinh thần, là vấn đề lớn của thời đại. Stress có thể coi như cái cửa mở cho nhiều bịnh tật vào thân thể ta. Những triệu chứng khởi đầu của stress là lo âu, bực bội và mất ngủ. Ngoài ra nhức đầu, buồn nôn, mất ăn, cao máu với nhịp tim đập nhanh cũng có thể là một triệu chứng của stress nữa. Thuở xưa, Đức Phật có cho một thí dụ rất thích hợp với stress ngày nay. Thí dụ rằng có một người bị mũi tên bắn bị thương. Người đó lo âu muốn biết mũi tên này từ đâu tới, ai bắn, lý do nào bắn, rồi lo sợ cho tính mạng, không biết vết thương như thế nào, ..., người đó cứ mải lo mà quên tìm cách tháo gỡ mũi tên ra. Tính chất của lo âu là nó không bao giờ chịu dừng ở hiện tại mà lại có chiều hướng lẩn quẩn ở quá khứ hoặc tương lai. Chính vì vậy mà sự lo âu ngày càng tăng vì khi tư tưởng lẩn quẩn ở quá khứ và tương lai thì ta sẽ không giải quyết được vấn đề và tình trạng vô định đó tạo nên cái duyên làm cho lo âu càng lớn dần. Một khoa tâm lý trị liệu (psychotherapy) trị stress là Cognitive behavioral psychotherapy, tạm dịch là tâm lý trị liệu qua nhận thức. Ta nhận thức ta có những tư tưởng sai lầm dẫn đến sự lo âu đau khổ (1), quán xét kỹ càng rằng những tư tưởng đó không có liên hệ ở thực tế (2), sau cùng thay thế vào đó những tư tưởng thích hợp với thực tại hơn (3). Khi nhận thức thích hợp với thực tại thì ta sẽ tìm được biện pháp giải quyết vấn đề một cách hữu hiệu và từ đó nhẹ gánh lo âu. Thí dụ anh A có triệu chứng hay lo (general anxiety disorder). Khi bị chủ sở phê bình, anh về ngủ không được, liên tưởng đến ngày mai mình sẽ mất việc, không có tiền trả tiền nhà, vợ anh sẽ bực bội bỏ anh (1)... Qua khâu tâm lý trị liệu, anh kiểm duyệt lại thực tế thì không thấy có dấu hiệu nào chủ sở sẽ đuổi anh, chủ anh chỉ muốn anh sửa khuyết điểm nhỏ mà thôi, vợ chồng lúc nào cũng hòa thuận (2)... Khi nhận thức như vậy, anh cảm thấy yên tâm và hiểu rằng mình có phản ứng quá đáng (3). Khi nhìn ở khía cạnh nhân duyên quả, thì khi anh nhận thức rằng cái nhân sai lầm không quan trọng lắm, không để những tư tưởng lo âu thổi phồng sự thật (nghịch duyên), và anh tìm cách học hỏi trau giồi nghề nghiệp thì kết quả sẽ tốt đẹp. Như thế hiểu được nhân quả thì cuộc sống ta sẽ nhẹ gánh lo âu. Tóm lại Nhân quả không phải là một khái niệm tôn giáo (dogma) mà là một quy luật thiên nhiên (natural law) ảnh hưởng thế giới nội tâm và thế giới vật chất. Nhân quả còn là một lực (force) gắn liền hai biến cố với nhau qua không gian và thời gian. Ta khó có thể thay đổi nhân ở quá khứ, nhưng điều dễ làm là thay đổi duyên ở hiện tại để quả xấu khó có thể biểu hiện được. Ở thế giới vật chất, duyên lành là bạn tốt, nơi chốn yên tịnh (chùa, nhà thờ, học đường...). Ở thế giới tâm lý, duyên lành là ý muốn học hỏi, trau giồi trí tuệ, cố giữ lòng nhân từ, bác ái và tha thứ. Gần duyên lành thì quả xấu khó thể hiện hoặc thể hiện một cách yếu ớt hơn. Nếu ta còn giữ tâm tham, sân, si (làm nhân) và nuôi dưỡng những tư tưởng tham, sân, si (ác duyên) thì không bao giờ biến đổi được cuộc sống hay xã hội một cách tốt lành được (quả). Cảnh lúc nào cũng hiện theo tâm. Người mang tâm xấu lên thiên đàng sớm muộn gì cũng biến cảnh thiên đàng thành địa ngục. Hiểu được nhân quả thì ta nắm giữ được chìa khóa mở cửa tự do trong đời ta và giúp ta làm chủ lấy cuộc đời. Không hiểu nhân quả thì ta sẽ sống trong mê tín dị đoan hay trong sự lo âu của cuộc sống vô định, bấp bênh. Hiểu được nhân quả giúp ta định hướng dễ dàng và có một hướng đi và một quan niệm sống vững chắc trước mọi hoàn cảnh khó khăn. Bác sĩ Thái Minh Trung at 5:54 PM |
"Lịch trình" Lão Hóa Của Các Bộ Phận Trong Cơ Thể
Theo thời gian, cơ thể con người sẽ bị lão hóa, thể hiện bằng những biến đổi về hình thái và chức năng của các bộ phận của cơ thể. Quá trình lão hóa không diễn ra đột ngột, mà đến từ từ. Vậy hãy xem lịch trình lão hóa của các bộ phận trong cơ thể như thế nào nhé. Tim: Lão hóa từ tuổi 40 Ở tuổi 40, mạch máu dần mất đi sự đàn hồi, động mạch cũng có thể trở nên cứng hoặc bị tắc, nguyên nhân gây ra sự thay đổi này là do chất béo tích tụ ở động mạch vành. Điều này làm cho hiệu quả truyền máu của tim tới toàn bộ cơ thể cũng bắt đầu giảm xuống. Do đó, để giữ cho trái tim khỏe mạnh, tốt nhất bạn không nên ăn quá nhiều chất béo bão hòa. Phổi: Lão hóa từ tuổi 20 Dung tích của phổi bắt đầu giảm dần từ tuổi 20. Ðến tuổi 40, một số yếu tố như lồng ngực biến dạng, các khớp bị cứng, nhu mô phổi giảm đàn hồi... kết hợp với sự xơ cứng ở cơ bắp và xương sườn buồng phổi có thể khiến cho nhiều người bị khó thở. Hoạt động của phổi gặp khó khăn, đồng nghĩa với việc không khí sau khi hít thở sẽ lưu lại trong phổi nhiều hơn dẫn tới khó thở. Da: Lão hóa từ khoảng tuổi 25 Cùng với sự giảm tốc của quá trình tạo collagen, da bắt đầu lão hóa tự nhiên từ tuổi 25. Các tế bào da chết sẽ không biến mất một cách nhanh chóng, trong khi lượng tế bào da mới có thể giảm đi chút ít. Kết quả là da sẽ xuất hiện nếp nhăn và trở nên mỏng hơn, ngay cả khi dấu hiệu lão hóa da ban đầu có thể đến tận tuổi 35 mới xuất hiện. Ngực: Lão hóa từ tuổi 35 Phụ nữ đến tuổi 35, các mô vú và chất béo trong ngực bắt đầu mất dần, kích cỡ và sự căng đầy cũng giảm xuống. Từ tuổi 40, ngực phụ nữ bắt đầu chảy sệ, quầng vú (khu vực xung quanh đầu vú) bị thu hẹp mạnh. Cơ quan sinh sản: Lão hóa từ tuổi 35 Cơ quan sinh sản của các chị em bắt đầu suy giảm sau tuổi 35. Nội mạc tử cung có thể trở nên mỏng hơn, khiến việc thụ tinh gặp khó khăn hoặc tạo thành môi trường kháng tinh trùng. Khả năng sinh sản của đàn ông cũng bắt đầu suy giảm ở độ tuổi này. Sau tuổi 40, chất lượng tinh trùng giảm xuống, nên khả năng có con của nam giới cũng có dấu hiệu suy giảm. Cơ bắp: Lão hóa từ tuổi 30 Sau tuổi 30, tốc độ lão hóa của cơ bắp còn nhanh hơn cả tốc độ phát triển. Ở độ tuổi này, hầu hết chúng ta có xu hướng tích trữ chất béo nhiều hơn và đốt cháy lượng calo ít hơn nên cơ bắp dần bị mất đi. Qua tuổi 40, tốc độ lão hóa cơ bắp của con người càng tăng nhanh hơn. Thường xuyên luyên tập có thể giúp ngăn chặn sự . Xương: Lão hóa từ tuổi 35 Sau tuổi 35, xương bắt đầu mòn và rơi vào quá trình lão hóa tự nhiên do các tế bào xây dựng xương hoạt động kém hơn. Xương của phụ nữ mãn kinh mòn nhanh hơn và có thể gây ra bệnh loãng xương. Kích thước và sự suy giảm mật độ xương có thể làm giảm chiều cao của bạn. Răng: Lão hóa từ tuổi 40 Khi chúng ta già đi, lượng nước bọt tiết ra cũng ít đi. Nước bọt có thể rửa sạch vi khuẩn, nếu nước bọt ít đi, răng và nướu của chúng ta dễ bị hôi. Sau khi các mô nha chu mất dần, nướu răng sẽ bị thu hẹp, đây là triệu chứng thường gặp ở người lớn trên 40 tuổi. Thính lực: Lão hóa từ khoảng tuổi 55 Hơn một nửa số người trên 60 tuổi có thể bị giảm thính lực do lão hóa . Triệu chứng này gọi là điếc lão hóa, là do sự thiếu “các tế bào lông” gây ra. Tế bào lông cảm quan trong tai có thể tiếp nhận sự rung động của âm thanh và truyền âm thanh tới não bộ. Theo TTVN |
Cứ 40 Giây Lại Có Một Người Tự Tử, Nhiều Hơn Số người Chết Do Chiến Tranh
Trên thế giới, cứ 40 giây lại có một người tự tử. Thực tế là, chúng ta có nhiều người chết vì tự tử hơn là do chiến tranh. Đây là tin tức mới nhất từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) được thông báo hôm thứ Hai (ngày 9/9). Theo thống kê của WHO, treo cổ, đầu độc và dùng súng là những phương pháp phổ biến nhất mà nhiều người sử dụng để tự tử. Thông cáo viết: “Tự tử là một vấn đề sức khỏe cộng đồng toàn cầu. Mọi lứa tuổi, mọi giới tính và các khu vực trên thế giới đều bị ảnh hưởng”. Tự tử là nguyên nhân lớn thứ 2 gây tử vong ở giới trẻ trong độ tuổi từ 15 đến 29. Trên thế giới, mỗi năm có khoảng 800.000 người chết vì tự tử – nhiều hơn số nạn nhân chết vì sốt rét hay ung thư vú hoặc chiến tranh. Cũng theo báo cáo, tại các quốc gia giàu có, số vụ tự tử của nữ giới gần gấp 3 lần nam giới. Trong khi tại các quốc gia có thu nhập thấp, tỷ lệ này gần ngang nhau. Ảnh: Chabad Nguyên nhân Khi nghiên cứu về các tác nhân có nguy cơ cao dẫn đến hành vi tự tử, các nhà tâm lý học đã nhận ra nhiều căn nguyên như sau. Nhân tố quan trọng nhất và dẫn đến nguy cơ tự tử cao nhất là các chứng bệnh về tâm lý, những rối loạn tinh thần, chẳng hạn: tâm thần phân liệt, trầm cảm nặng, chứng rối loạn lưỡng cực (lúc thì vui đến phát cuồng, lúc thì buồn đến mức suy sụp tinh thần) hoặc sang chấn tâm lý mạnh. Tiếp theo là những nguyên nhân do các chứng bệnh về sinh lý, như bị mắc phải các chứng bệnh nan y, bị khuyết tật hoặc bị mất khả năng vận động do tai nạn đột ngột gây ra… Não bộ bị thương tổn, hoạt động kém hiệu quả ở một vài chức năng nào đó cũng dễ dẫn đến việc tự tử. Những thương tổn sinh lý này gây ra thiểu năng trong quá trình nhận thức và ảnh hưởng đến các hoạt động sống, các quan hệ xã hội của người bệnh. Chúng tác động ngược trở lại tới xúc cảm, tình cảm, tâm trạng… của người bệnh, khiến nguy cơ tự tử của người bệnh tăng cao. Và cuối cùng là những tác nhân thuộc về môi trường xã hội. Các nghiên cứu và thống kê cho thấy, có những trường hợp tự tử xảy ra do những tác nhân, sự kiện bên ngoài, chẳng hạn như bị người yêu chối bỏ, bị thầy cô giáo phạt, bị bạn bè trêu chọc, bị quấy rối, bị lạm dụng tình dục, bị cưỡng hiếp, bị cha mẹ trách mắng, bị mất cha hay mẹ, cha mẹ ly hôn, bị mất việc, bị sạt nghiệp, bị vỡ nợ, bị phản bội… Đôi khi, nhiều thanh thiếu niên tự tử vì một nguyên nhân rất lạ đời, như thần tượng của họ chết hoặc tự tử, dẫn đến việc họ quyết định chết theo. Giải pháp Theo ông Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tổng giám đốc của WHO nói: “Các vụ tự tử có thể ngăn cản được”. Hiện có nhiều bằng chứng quốc tế cho thấy các quy định cấm sử dụng thuốc trừ sâu có mức độ nguy hiểm cao có thể giúp giảm tỷ lệ tự tử ở các quốc gia. Điển hình là Sri Lanka, quốc gia ban hành một loạt lệnh cấm dẫn đến giảm 70% số vụ tự tử và ước tính 93.000 người được cứu sống trong giai đoạn 1995-2015. Tại Hàn Quốc, nơi mà thuốc diệt cỏ được sử dụng nhiều nhất trong các vụ tự sát trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, lệnh cấm thuốc diệt cỏ vào năm 2011-2012 đã giúp giảm 50% số ca tử vong. Tuy nhiên, trên đây mới chỉ là biện pháp cứng thay đổi từ bên ngoài. Đa phần các trường hợp tự tử đều do vấn đề tâm lý tiêu cực, tuyệt vọng của nạn nhân trong môi trường sống hiện đại. Vậy nên, để giải quyết vấn đề này cần đi từ gốc, chính là thay đổi lối tư duy, nhân sinh quan của mỗi người. Vậy làm sao chúng ta có thể thay đổi? Thực hành lối sống vừa đủ: Cuộc đời có quá nhiều thứ khiến ta truy cầu; khi cố gắng tranh đấu cả đời mà không được, người ta dễ tuyệt vọng và chán nản. Vậy nên, rèn luyện tư duy vừa đủ giúp người ta không ham muốn quá nhiều mà lại biết cách hưởng thụ cuộc sống hiện tại. Ảnh: Uyplifestyle Thực hành thiền định: Từ xa xưa, thiền định đã giúp con người có được sự cân bằng tâm lý và nhận thức đúng đắn, đủ tỉnh táo và nhanh nhạy để giải quyết những vướng mắc trong cuộc sống. Thiền định còn là một liệu pháp thư giãn rất hiệu quả, giúp giải tỏa căng thẳng, không để những cảm xúc tiêu cực tích tụ trong thân tâm gây ra những hệ lụy đáng tiếc. Hành thiện tích đức và sống chân thành: Khi chúng ta chân thành và luôn đối xử tốt với người khác, cuộc đời sẽ trở nên an yên và đầy ý nghĩa. Cũng nhờ vậy, đau khổ tuyệt vọng tự khắc sẽ rời xa. |
Khoa Học Chứng Minh Sự Tồn Tại Của Linh Hồn
(Ảnh: Pinterest) Thể xác chết đi, nhưng linh hồn bất diệt. Nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh được sự tồn tại của điều này. Con người có tồn tại linh hồn? (Ảnh: Adobe Stock) Câu chuyện của những người có trải nghiệm cận tử Rất nhiều người đã từng nghe nói đến trải nghiệm cận tử (NDE), là trải nghiệm khi linh hồn (nguyên thần theo cách gọi của văn hóa phương Đông) của một người rời khỏi thân thể trong trạng thái cận kề cái chết hoặc chết lâm sàng (tim ngừng đập, não ngừng hoạt động), sau đó được cứu sống trở lại. Hiện tượng này xuất hiện khá nhiều trong các ghi chép cổ đại. Nhà triết học cổ đại người Hy Lạp Plato đã miêu tả lại cảnh tượng một người lính Hy Lạp qua đời, sau đó hồi phục và kể lại những trải nghiệm khi tiến nhập sang thế giới bên kia. Ở phương Tây, hiện tượng này đã trở nên khá phổ biến sau khi cuốn sách bán chạy nhất của Tiến sĩ Raymond A. Moody “Life after Life (tạm dịch: Sự sống tiếp diễn sau khi chết)” được xuất bản vào năm 1975. Gần đây, hiện tượng này cũng nhận được sự quan tâm của giới y học chính thống. Cuốn sách Vũ trụ toàn ảnh (The Holographic Universe) xuất bản năm 1991 của Michael Talbot cũng đã trích dẫn một số trường hợp được Bác sĩ Moody thu thập. Trong một ví dụ, một phụ nữ đã rời cơ thể trong quá trình phẫu thuật, linh hồn cô bay lơ lửng trên không, tiến vào sảnh tiếp tân của bệnh viện, và nhìn thấy cô con gái nhỏ đang quàng lệch một chiếc khăn. Sau này cô biết được rằng do người bảo mẫu đã khá sốc trước tin cô nhập viện, nên đã quàng lệch chiếc khăn khi thay đồ cho con cô mà không hay biết. Người bảo mẫu này đã rất chấn động khi được mẹ cô bé kể lại chuyện này, vì chỉ có duy nhất cô và đứa bé ở nhà ngày hôm đó. Một trường hợp khác, một người phụ nữ đã ly thể (linh hồn ly thể) vào thời khắc cận kề cái chết rồi bay đến hành lang bệnh viện. Cô nghe thấy người anh rể đang than thở với bạn rằng anh sẽ phải hủy chuyến công tác để thay vợ làm hậu sự cho em vợ. Khi người phụ nữ hồi tỉnh, cô đã trách anh rể vì nói ra những lời xui xẻo đó, anh rể cô khi nghe thấy đã vô cùng sửng sốt bàng hoàng. (Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ) Cuốn sách “Life at Death (tạm dịch: Sự sống khi chết)” của Kenneth Ring, một giáo sư tâm lý học từ Đại học Connecticut (Mỹ), xuất bản năm 1980, là một cuốn sách khác đề cập đến các nghiên cứu xoay quanh trải nghiệm cận tử. Giáo sư Ring phát hiện ra rằng, những người có trải nghiệm cận tử thường rơi vào thế giới của những dòng chảy không ngừng. Ở đây, không hề tồn tại khái niệm không gian và thời gian. Và họ sẽ gặp gỡ những sinh mệnh tỏa ra luồng ánh sáng trí huệ. “Vũ trụ toàn ảnh” cũng trích dẫn phát hiện của một số nhà nghiên cứu rằng, những người có trải nghiệm cận tử thường miêu tả linh hồn bản thân khi ly thể giống như một chùm năng lượng, và linh hồn này có thể biến hình tùy theo ý muốn. Sau khi ly thể, họ có thể nhìn lại quá khứ bản thân trong một không gian ba chiều. Mỗi chi tiết, mỗi cảm giác đều hiển hiện một cách tức thì, và mọi thứ đều rất sống động. GS Kenneth Ring. (Ảnh: one-mind-one-energy.com) Tương lai mỗi người đã được định sẵn? Không chỉ quá khứ của một người được ghi lại trọn vẹn trong một không gian khác, mà rất có thể tương lai của họ cũng đã được định sẵn rồi. Nhiều người có trải nghiệm cận tử kể lại rằng, khi đến nơi kia họ được bảo rằng thời điểm của họ chưa đến nên họ phải quay trở lại thế giới này và tiếp tục sống. Dựa vào đây Giáo sư Ring nhận định rằng con người đều có số mệnh, và tương lai – ở một khía cạnh nào đó – đã được định trước rồi. Điều đó lý giải vì sao một số người có thể nhìn thấy trước tương lai của mình, cũng như của người khác, thậm chí của nhân loại. “Vũ trụ toàn ảnh” đã trích một trường hợp được ghi nhận bởi bác sĩ Ring. Trong trải nghiệm cận tử, một đứa trẻ đã được phép nhìn thấy một vài chi tiết trong tương lai của mình, bao gồm việc cậu sẽ kết hôn ở tuổi 28, rồi sẽ có hai đứa con. Cậu thậm chí còn có thể nhìn thấy mình lúc trưởng thành, khi đó đang ngồi chơi với đứa con trong tương lai, và có một vật gì đó kỳ lạ trên tường. Sau đó cậu bé hồi phục và xuất viện. Đáng ngạc nhiên, tương lai mà cậu nhìn thấy trong trải nghiệm đó đã trở thành hiện thực, từng cái một. Cậu lớn lên, kết hôn lúc 28 tuổi và có 2 con. Một ngày nọ, câu bất giác nhận thấy chính mình đang đứng ở trong khung cảnh năm xưa: cậu ngồi trong một căn phòng với đứa con, khung cảnh tái hiện giống hệt như đúc, và thứ kỳ lạ trên tường cậu nhìn thấy khi đó, chính là chiếc máy sưởi cao áp thời hiện đại – thứ còn chưa được phát minh lúc cậu có trải nghiệm cận tử!!? |
Một trường hợp khác. Một phụ nữ có trải nghiệm cận tử kể lại rằng, một sinh mệnh ở không gian khác đã cho cô xem chân dung và tên tuổi của Bác sĩ Moody; cô được bảo rằng khi thời cơ đến, cô sẽ kể với bác sĩ Moody trải nghiệm này của mình. Đó là vào năm 1971, lúc đó sách của BS Moody còn chưa xuất bản, và tất nhiên khi đó ảnh và tên tuổi của BS Moody không có bất kỳ ý nghĩa gì đối với cô. Bốn năm sau, gia đình BS Moody chuyển đến khu phố nơi cô sống. Trong ngày lễ Halloween năm đó, con trai của Moody đến nhà cô xin kẹo (phong tục ngày Halloween). Khi biết tên đứa trẻ, cô vội bảo cậu bé rằng cô có việc cần gặp bố cậu bé – BS Moody.
Baba Vanga là một nhà tiên tri đại tài. Bà có thể tiên đoán nhiều biến động lớn xảy ra trong tương lai của nhân loại. (Ảnh: Tinh Hoa) Linh hồn có thực sự tồn tại? Ngoài trải nghiệm cận tử, “Vũ trụ toàn ảnh” cũng ghi nhận một số trường hợp hồn lìa khỏi xác – giới chuyên môn gọi là trải nghiệm ngoài cơ thể (Out of Body Experience, OBE). Linh hồn một số người có thể rời thân thể, đến một nơi cách xa hàng ngàn dặm, thậm chí tiến nhập vào một không thời gian khác. Hiện tượng này (giới tu luyện gọi là “nguyên thần ly thể”) đều được ghi chép trong các trường phái tu luyện Phật gia và Đạo gia ở Trung Quốc. Trên thực tế, hiện tượng “nguyên thần ly thể” chỉ là một phần rất nhỏ trong một bức tranh rộng lớn hơn. Đó là bức tranh của sự luân hồi. Trong những năm gần đây, giới y học phương Tây đã làm rất nhiều nghiên cứu để kiếm chức hiện tượng này. Phương pháp phổ biến nhất là khiến con người rơi vào trạng thái thôi miên, mê mê tỉnh tỉnh như trong phương pháp thiền định của Đạo gia hoặc Phật gia, để họ có thể nhìn thấy từng đời từng kiếp trước của mình, thậm chí cả quá trình trung gian trước khi luân hồi chuyển thế. Đây được gọi là phương pháp thôi miên hồi quy tiền kiếp. Phương pháp thôi miên hồi quy tiền kiếp. (Ảnh: Tinh Hoa) Các nhà nghiên cứu phát hiện rằng con người có xu hướng chuyển sinh theo từng nhóm, bởi họ có một mối quan hệ nhân duyên nào đó với nhau, những mối liên hệ đan xen trùng điệp…. để rồi trong những năm tháng dài đằng đẵng nơi nhân thế họ sẽ dần dần hoàn trả những gì đã mắc nợ. Đó là “duyên – nợ” mà người ta thường nhắc đến. Trước khi chuyển sinh, cuộc đời một người đã được sắp đặt một cách tổng quan về cơ bản, bao gồm cả những biến cố quan trọng mà dường như chỉ ngẫu nhiên xảy ra trong đời, thứ chúng ta gọi là “định mệnh”. Nhiều người cho rằng chết là hết và không tin rằng linh hồn con người là bất diệt. Thực ra, cơ thể con người chỉ như tấm áo choàng khoác lên linh hồn, khi thân thể chết đi, chiếc áo sẽ được cởi bỏ, nhưng linh hồn thì vẫn còn ở đó. Tất nhiên, rất nhiều người không tin vào sự tồn tại của linh hồn (hay nguyên thần), bởi vì họ chỉ tin vào những gì mắt thấy tai nghe. Có lẽ điều này cũng đã được hữu ý định trước như vậy, bởi vì chỉ có ở trong mê và đau khổ, người ta mới có thể tôi luyện ý chí của mình, và trân quý hơn giá trị của cuộc sống. Mặc dù vật lý hiện đại chưa tìm ra bằng chứng cho sự tồn tại của linh hay các không gian khác, nhưng họ cũng không hề phủ nhận điều này. Trên thực tế, lý thuyết M và lý thuyết siêu dây đã chỉ ra khả năng tồn tại của không gian khác. Vật lý lý thuyết đã chỉ ra khả năng tồn tại của không gian khác. (Ảnh: world2day.net) Trong biểu đồ phân tử hóa học trong sách giáo khoa, nguyên tử được mô tả giống như những quả cầu nhỏ, nén chặt để kết nối các vật chất thành phần với nhau. Nhưng trên thực tế, thế giới vi quan còn xa mới có thể biểu thị bằng một biểu đồ đơn giản như vậy. Cấu trúc nguyên tử ngoài đời thực liệu có đơn giản như thế này? (Ảnh: thaydungdayhoa.com) Lấy ví dụ, một hạt electron có thể đồng thời đâm xuyên qua hai khe hở cùng lúc, và chuyển động của các hạt siêu nhỏ có thể được chồng lên nhau như các sóng nước. Bí ẩn của nó quả vượt quá sức tưởng tượng của con người. |
Người Bắc Nghĩ Gì Về Người Nam? - Từ Đức Minh
Tôi sinh ra , lớn lên và học tập dưới mái trường XHCN nơi đất Bắc. Nói như vậy để mọi người hiểu rõ về bản thân tôi là người Bắc kỳ “ xịn “ 75. Trưởng thành rồi , qua vài mối quan hệ khiến tôi hiểu rõ người Nam hơn . Nhất là hàng ngày nhờ phương tiện Facebook , biết bao nhiêu tin tức & hình ảnh đã giúp mình có sự so sánh những khác biệt giữa người Nam và người Bắc . Tôi tôn trọng cũng như khâm phục người miền Nam nhất là ở sự Tử Tế . Thật vậy , sự Tử Tế của người miền Nam theo mình nghĩ nó không phải tự nhiên mà có . Hoặc đó không phải là do “ tập quán địa phương , vùng miền tính “ . Mà chính xác hơn nó thừa hưởng từ sự giáo dục còn xót lại thời chế độ cũ VNCH . Điều này được thể hiện qua cách sống , cách xưng hô , nói chuyện , giao tiếp ứng xử & lòng nhân đạo . Những ví dụ cũng như những bằng chứng cho chúng ta thấy sự Tử Tế của người miền Nam là những hình ảnh những quán cơm , nước giải khát từ thiện cho người nghèo . Những nơi tập kết quần áo cũ rồi phát miễn phí cho những hoàn cảnh khó khăn . Hay trân trọng hơn nữa là những hội đoàn từ thiện y tế nhân đạo do các Việt kiều người Nam ở Úc , Mỹ , Canada góp quỹ , tổ chức theo đoàn về Việt Nam chữa bệnh cứu giúp người nghèo khó ... Còn riêng ngoài Bắc nói chung , mà điển hình là ở Hà Nội thì những sự Tử Tế thì càng trở nên quá hiếm hoi . Rất khó để thấy những hình ảnh có tình người như người miền Nam . Nơi đây vắng hẳn những quán cơm , thùng nước giải khát từ thiện . Thiếu hẳn những nơi giúp đỡ người nghèo về vật chất cũng như tinh thần . Thiếu hẳn những hội đoàn của những đám “ Vịt kiều “ gốc Bắc về giúp đỡ bà con . Thay vào đó là sự lạnh nhạt , kiêu hãnh của đám nhà giàu quan chức . Những tiếng Địt Mẹ , Đéo .v.v. phun ra khắp nơi cửa miệng . Những ánh mắt lột tiền của con người đối với con người . Những sự hỡm hĩnh , huyênh hoang đến khốn nạn của đám “ Vịt kiều “ Bắc 75 từ Canada , Pháp , Úc ,Nga , Đức .v.v. mang tiền về Vn tiêu xả láng rồi cụp đuôi cút thẳng . Có người biện minh rằng lý do là người Bắc tính lạnh lùng , tẻ nhạt . Riêng tôi thì nghĩ khác . Tôi cho rằng yếu tố gây nên cái bản chất khốn nạn ích kỷ của số đông người Bắc là do bị tiêm nhiễm quá nhiều sự giáo dục của chế độ Cộng Sản . Nơi sự lừa dối , hận thù , chém giết làm chủ nghĩa ... * cảm nghĩ vài dòng , về người Nam & người Bắc . Nếu ai đó nói tôi “ Phân Biệt Vùng Miền & Gây Chia Rẽ “ thì tôi chịu vậy . Điều tôi muốn là chúng ta nên phân biệt TRẮNG - ĐEN rõ ràng. Tôi muốn rằng sự tử tế cần được nhân rộng . Cái ích kỷ , vô tâm , tàn ác, khốn nạn phải bị lên án và đẩy lui. |
Những Tảng Đá Kỳ Lạ Nhất Thế Giới
Nhìn những khối đá dưới đây, không ít người đã tỏ ra rất bất ngờ trước độ chênh vênh kỳ lạ và tự hỏi tại sao chúng có thể giữ thăng bằng được trong hàng ngàn năm. Thiên nhiên vẫn luôn tạo ra những điều thú vị như vậy thách thức sự tìm tòi của con người. Khối đá có độ thăng bằng rất cao này nằm ở Brimham Moor, khu vực thuộc Bắc Yorkshire, Anh. Theo thời gian, nước và gió là yếu tố chính khiến nó bị xói mòn, trong đó phần dưới cùng phải chịu những tác động mạnh mẽ nhất. Hình ảnh chúng ta thấy ngày nay là một khối đá đồ sộ cân bằng trên chóp của một hòn đá rất nhỏ bên dưới. Cột đá kỳ lạ này nằm ở Digby, Nova Scotia, Canada. Sự chênh vênh của nó khiến người ta có cảm giác tốt nhất nên tránh xa vì nó sẽ đổ bất cứ lúc nào. Tảng đá sa thạch khổng lồ trong bức ảnh nằm trên đỉnh một mỏm đá tại khu vườn của các vị thần (Garden of the Gods park) gần Colorado Springs, bang Colorado, Mỹ. Khu đồi Matobo của Zimbabwe được cấu tạo hoàn toàn từ đá granite, thiên nhiên đã ban tặng cho chúng những hình thù hết sức thú vị, chẳng hạn như khối đá cân bằng được đặt tên là “Mẹ và con” ở trên. Được tìm thấy tại khu vực “Sa mạc trắng” của Ai Cập, tảng đá vôi (còn được gọi là đá nấm) trong bức ảnh trên được hình thành qua quá trình hàng ngàn năm bị gió làm cho xói mòn với tốc độ mạnh nhất ở đoạn giữa bệ đá. Hòn đá Yeager nặng 440 tấn tọa lạc trên cao nguyên Waterville, Washington khoảng 13.000 năm trước đây bên trong dải băng Cordillera. Tảng đá có hình dáng như bây giờ khi băng bắt đầu tan chảy. Xuất hiện tại công viên quốc gia Yosemite ở California nhờ quá trình vận chuyển của một dòng sông băng từ rất nhiều năm về trước, tảng đá kỳ lạ vẫn đứng vững trong tư thế không thể cân bằng hơn. Đây là một trong những tảng đá đặc biệt tại sa mạc Moab thuộc tiểu bang Utah (Mỹ). Chỉ cần một trận động đất là có thể khiến khối đá cân bằng này lung lay, cho nên sự hiện diện của chúng cho thấy đây là khu vực có cấu tạo địa chất khá ổn định. “Krishna's butterball” là hòn đá được di chuyển do băng xuất hiện từ thời kỳ băng hà và hiện nằm trên một sườn đồi gần khu vực Mamallapuram, Ấn Độ. |
Một Cội Đôi Cành - Nguyễn Văn Tới
Tôi tình cờ biết tin nó và gia đình, vợ 3 con, đang sống ở miền Bắc California, nơi bốn mùa mưa nắng thuận hòa và hoa cỏ xinh tươi. Tôi, vợ 2 con, vùng sa mạc nắng cháy da người, quê hương của những trận bão cát mù trời. Như một định mệnh, gia đình tôi và gia đình nó thường ở xa nhau, dù chúng tôi là anh em cô cậu ruột. Tôi xin người quen số phone của nó vì dầu sao nơi đất lạ quê người, tình anh em cũng là một giọt máu đào hơn ao nước lã. Lần đầu nói chuyện qua phone, tôi nhận ra ngay giọng nói quen thuộc của thằng em cô cậu mình, nó không biết tôi là ai mãi cho đến khi tôi phải nói rõ tên tuổi và quan hệ giữa hai gia đình. Nó mới bật lên tiếng ồ ngạc nhiên như vừa khám phá ra điều gì mới mẻ lắm. Nó cho biết gia đình qua Mỹ theo diện con lai. Tôi hỏi: - vợ chú lai à? Nó nói: - không, em có mua một đứa con lai. Tôi vẫn phục anh em nó vì họ luôn nhanh nhậy nắm bắt thời cơ trong bất cứ chuyện gì, trong khi tôi lù khù nên cam phận tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. Anh em hỏi thăm nhau về gia cảnh, về những gì đã xảy ra trong thời gian hai gia đình giữ liên lạc rất là rời rạc kể từ năm 1975. Nó cho biết ba má và ba người anh của nó đều đã qua đời do trọng bệnh. Trong suốt buổi nói chuyện, tôi cảm nhận có một cái gì đó vô hình vẫn ngăn cách chúng tôi như sự cách biệt giàu nghèo của hai gia đình từ những ngày xưa. Tuy vậy, năm nào tôi cũng là người gọi phone chúc tết gia đình nó vào những ngày đầu năm mới. Nó và tôi sinh ra cùng một năm, một tháng, nhưng khác ngày. Ba tôi là anh ruột má nó. Nó con nhà giàu, tôi con nhà nghèo. Nhà nó ở một tỉnh miền Trung đất đỏ, bụi mù nhưng buôn bán sầm uất, việc làm ăn gặp thời, tiền bạc vô như nước. Gia đình gồm 4 đứa con trai mà ba nó thường khoe là tứ quý, tất cả được gởi đi học những trường tư, lớn thì ở Sài Gòn, nhỏ thì các trường ma sơ trong tỉnh. Gia đình chúng tôi sống ở một vùng trù phú lúa gạo miền Tây, trôi nổi theo đời lính của ba tôi trong những trại gia binh của đơn vị. Gia đình chúng tôi gồm 9 anh chị em, cuộc sống không dư dả, nhưng thuận hòa hạnh phúc. Tuổi thơ chúng tôi trải dài với những cánh đồng xanh ngát, những đàn cò trắng ven con đường quốc lộ liên tỉnh dẫn đến trường mỗi buổi sáng. Rồi ba tôi xuất ngũ, vốn tính thật thà, không biết buôn bán, đang lay hoay không biết làm gì để nuôi đàn con 9 đứa thì một người cháu họ xa, đi công tác ghé ngang nhà thăm, nói sao chú không lên Pleiku làm ăn? Trên đó chú thím L. làm ăn phát tài lắm, phải mướn người mà việc làm vẫn không xuể. Má tôi mua vé, bay lên đó để coi tình hình. Tháng sau, cả gia đình khăn gói, từ giã khu gia binh, lên xe đò, tìm đến thành phố núi mù sương miền cao nguyên đất đỏ. Một ngày nọ, nó gọi phone cho tôi, dễ cũng khá lâu kể từ ngày tôi gọi nó. Bằng giọng run run lo lắng, nó hỏi liền: - “Anh có biết luật sư di trú nào người Việt mình không? Tôi hỏi để làm chi? Nó trả lời: - “Em bị chính phủ Mỹ điều tra về đám cưới giữa em và cô em vợ. Mấy tháng nay ăn ngủ không yên”. Biết tôi không hiểu, nó vội giải thích rằng nó và vợ đã ly dị giả để nó về Việt Nam cưới cô em vợ, cũng ly dị giả, rồi đem cô sang Mỹ. Sau này, qua người cháu, tôi mới hiểu như sau: Nó và vợ, thực ra vẫn sống chung với nhau đề huề cùng với các con dưới một mái nhà, cả hai giả vờ ly dị để vợ nó có thể xin được bảo hiểm sức khỏe, phụ cấp tiền nhà, và phiếu thực phẩm hằng tháng cho gia đình trong khi vợ chồng nó vẫn đi làm chui lãnh tiền mặt. Nhân việc ly dị giả, vợ nó nghĩ ra cách giúp cho em gái mình bằng cách để nó về Việt Nam làm đám cưới giả đem cô em qua Mỹ. Khi có thẻ xanh, sẽ ly dị “anh rể”, cô em vợ sẽ về nước để cưới lại ông chồng cũ và bảo lãnh cả gia đình qua đoàn tụ. Sự việc trở nên xấu đi vì vợ nó dính líu tới một đường dây kết hôn giả vừa mới bị bể ra cách đây không lâu ở một tiểu bang khác với vai trò là một người trung gian mai mối. Vì thế, chính phủ “sờ gáy” hai vợ chồng nó vì họ tình nghi tình nghi đây cũng là một vụ kết hôn giả để đi Mỹ. Gia đình nó giờ ăn không ngon, ngủ không yên. Nó như kẻ chết đuối, thấy bất cứ phao nào, cũng muốn bám vào. Tôi là người cuối cùng mà nó gọi để trút nỗi niềm |
Ngày trước, nhà nó cũng là nơi cuối cùng anh em tôi muốn đến. Mỗi khi ba má sai chúng tôi qua nhờ vả công chuyện, chúng tôi thường rụt rè đứng ở góc nhà, không dám lên tiếng cho đến khi ba nó nhìn thấy chúng tôi và lừ mắt hỏi có chuyện gì không? Lúc đó chúng tôi mới dám thưa chuyện. Chúng tôi sợ ông lắm vì ánh mắt ông sắc lạnh, không chút tình cảm.
Một buổi sáng, ba tôi về nhà với tâm trạng bất an và bực bội, mấy ngày không ngủ được. Má gặng hỏi mãi, ba mới kể. Sáng hôm đó, trên đường đi nhà thờ, gặp ba nó ra chợ, ông hỏi ba tôi: “Bác đi lễ mỗi ngày, thế Chúa có ban cho bác tiền bạc gì không?”. Quá bất ngờ, ba tôi không biết trả lời sao, chỉ lặng lẽ bỏ đi mang theo nỗi ấm ức trong lòng. Nhưng tôi nhớ và mang ơn nó vì đã cho tôi tất cả đồ cũ mà nó không muốn mặc nữa: Xong bậc tiểu học, tôi may mắn thi đậu vào một trường Pháp của các cố đạo Tây. Khỏi phải nói, ba má tôi tự hào và hãnh diện lắm. Mỗi khi ra chợ, bà đều khoe với các bạn và khách hàng là có thằng con sắp sửa đi học trường Tây. Má kêu tôi sang bên đó xin quần áo của nó để sang năm nhập học có cái mà mặc. Má đã nói chuyện với cô chú rồi. con cứ qua. Bước vào nhà, tôi lủi thủi đứng ở góc phòng khách rộng thênh thang, mê mệt nhìn nó đang chơi những chiếc xe chạy bằng pin với cặp mắt thèm khát. Khi chơi chán, nó mới kéo tôi vô phòng và chỉ đống quần áo, giày dép trên giường và nói cho mày đó. Tôi vội nhét tất cả vào một cái bao mang theo và chạy bay về nhà. Mùa nhập học đầu tiên ở trường Pháp, tôi cũng có quần áo bảnh bao, áo bỏ vô thùng, hợp thời trang, ủi thẳng nếp, cùng với đôi giầy nâu sáng bóng không thua gì các bạn con nhà giàu khác. Từ đó, năm nào tôi cũng được hưởng “sái nhì” từ những đồ cũ mà nó loại ra nhưng đối với tôi còn khá mới. Hôm nay, tôi thực sự cũng không biết làm gì để giúp nó trong lúc khó khăn này ngoài những câu an ủi chân tình. Khi hoạn nạn mới thấy tình anh em thật là cần thiết, những lời động viên tích cực như những liều thuốc an thần giúp nó phần nào lấy lại sự bình an trong tâm hồn. Tôi cũng hứa sẽ tìm kiếm thêm thông tin trên mạng và từ những bạn bè quen coi có thể giúp nó được gì không? Tôi tự hỏi đã hơn 40 năm tôi chưa gặp lại nó, không biết bây giờ có còn nhận ra nhau không? Còn nhớ những ngày khốn cùng sau năm 1975, khi tôi còn đang đổ mồ hôi bạc trắng lưng áo, chèo ghe đi chặt củi đước vùng rừng Sác thì nghe nói nó làm nghề phân kim, thu mua tất cả những gì có thể rồi phân chất để lựa ra vàng, đồng thời cũng buôn bán, trao đổi vàng chui nên gia đình vẫn làm ăn khấm khá, ăn no mặc ấm hơn nhiều người xung quanh trong cái xã hội ăn độn lúc bấy giờ. Ba tôi kể, lúc đang chạy giặc trên tỉnh lộ 7B về Tuy Hòa, ông có gặp ba nó. Chú ấy không xách theo hành lý gì ngoài một bao cát đựng vàng lá được gói kỹ trong những bộ quần áo. Trong trại tạm cư, chú không bao giờ rời cái bao cát mà tối ngủ ông dùng để gối đầu. Vợ con thì ông đã cho bay về Sài Gòn với của cải, bạc vàng, trước khi quân đoàn II di tản chiến thuật. Sau 75, gia đình nó trở lại thành phố cũ vì cơ ngơi nhà cửa, tuy bị trộm phá cửa khuân sạch đồ đạc, nhưng xác nhà vẫn còn nguyên. Giờ đây hai anh em đều đang sống trên đất Mỹ, chỉ cách nhau hơn 10 giờ lái xe, hy vọng có ngày sẽ lại gặp nhau |
Ngày trước, nhà nó cũng là nơi cuối cùng anh em tôi muốn đến. Mỗi khi ba má sai chúng tôi qua nhờ vả công chuyện, chúng tôi thường rụt rè đứng ở góc nhà, không dám lên tiếng cho đến khi ba nó nhìn thấy chúng tôi và lừ mắt hỏi có chuyện gì không? Lúc đó chúng tôi mới dám thưa chuyện. Chúng tôi sợ ông lắm vì ánh mắt ông sắc lạnh, không chút tình cảm.
Một buổi sáng, ba tôi về nhà với tâm trạng bất an và bực bội, mấy ngày không ngủ được. Má gặng hỏi mãi, ba mới kể. Sáng hôm đó, trên đường đi nhà thờ, gặp ba nó ra chợ, ông hỏi ba tôi: “Bác đi lễ mỗi ngày, thế Chúa có ban cho bác tiền bạc gì không?”. Quá bất ngờ, ba tôi không biết trả lời sao, chỉ lặng lẽ bỏ đi mang theo nỗi ấm ức trong lòng. Nhưng tôi nhớ và mang ơn nó vì đã cho tôi tất cả đồ cũ mà nó không muốn mặc nữa: Xong bậc tiểu học, tôi may mắn thi đậu vào một trường Pháp của các cố đạo Tây. Khỏi phải nói, ba má tôi tự hào và hãnh diện lắm. Mỗi khi ra chợ, bà đều khoe với các bạn và khách hàng là có thằng con sắp sửa đi học trường Tây. Má kêu tôi sang bên đó xin quần áo của nó để sang năm nhập học có cái mà mặc. Má đã nói chuyện với cô chú rồi. con cứ qua. Bước vào nhà, tôi lủi thủi đứng ở góc phòng khách rộng thênh thang, mê mệt nhìn nó đang chơi những chiếc xe chạy bằng pin với cặp mắt thèm khát. Khi chơi chán, nó mới kéo tôi vô phòng và chỉ đống quần áo, giày dép trên giường và nói cho mày đó. Tôi vội nhét tất cả vào một cái bao mang theo và chạy bay về nhà. Mùa nhập học đầu tiên ở trường Pháp, tôi cũng có quần áo bảnh bao, áo bỏ vô thùng, hợp thời trang, ủi thẳng nếp, cùng với đôi giầy nâu sáng bóng không thua gì các bạn con nhà giàu khác. Từ đó, năm nào tôi cũng được hưởng “sái nhì” từ những đồ cũ mà nó loại ra nhưng đối với tôi còn khá mới. Hôm nay, tôi thực sự cũng không biết làm gì để giúp nó trong lúc khó khăn này ngoài những câu an ủi chân tình. Khi hoạn nạn mới thấy tình anh em thật là cần thiết, những lời động viên tích cực như những liều thuốc an thần giúp nó phần nào lấy lại sự bình an trong tâm hồn. Tôi cũng hứa sẽ tìm kiếm thêm thông tin trên mạng và từ những bạn bè quen coi có thể giúp nó được gì không? Tôi tự hỏi đã hơn 40 năm tôi chưa gặp lại nó, không biết bây giờ có còn nhận ra nhau không? Còn nhớ những ngày khốn cùng sau năm 1975, khi tôi còn đang đổ mồ hôi bạc trắng lưng áo, chèo ghe đi chặt củi đước vùng rừng Sác thì nghe nói nó làm nghề phân kim, thu mua tất cả những gì có thể rồi phân chất để lựa ra vàng, đồng thời cũng buôn bán, trao đổi vàng chui nên gia đình vẫn làm ăn khấm khá, ăn no mặc ấm hơn nhiều người xung quanh trong cái xã hội ăn độn lúc bấy giờ. Ba tôi kể, lúc đang chạy giặc trên tỉnh lộ 7B về Tuy Hòa, ông có gặp ba nó. Chú ấy không xách theo hành lý gì ngoài một bao cát đựng vàng lá được gói kỹ trong những bộ quần áo. Trong trại tạm cư, chú không bao giờ rời cái bao cát mà tối ngủ ông dùng để gối đầu. Vợ con thì ông đã cho bay về Sài Gòn với của cải, bạc vàng, trước khi quân đoàn II di tản chiến thuật. Sau 75, gia đình nó trở lại thành phố cũ vì cơ ngơi nhà cửa, tuy bị trộm phá cửa khuân sạch đồ đạc, nhưng xác nhà vẫn còn nguyên. Giờ đây hai anh em đều đang sống trên đất Mỹ, chỉ cách nhau hơn 10 giờ lái xe, hy vọng có ngày sẽ lại gặp nhau |
Theo luật di trú Mỹ (1), nếu một người công dân kết hôn giả để đem người ngoại quốc vào Mỹ là phạm trọng tội, có thể bị án tù ở tối đa 5 năm, bị phạt tiền tối đa $250,000.00. Người phối ngẫu giả sẽ bị trục xuất và cấm vĩnh viễn không được trở lại Mỹ vì bất cứ lý do gì. Tôi thương nó quá mà không biết phải làm sao vì chính bản thân tôi cũng mù mờ về luật pháp nước Mỹ. Bao năm định cư ở đây, tôi chỉ biết vừa học vừa làm để ổn định đời sống. Khi ra trường, tôi đi làm chăm chỉ như một con ong, làm tròn bổn phận công dân và đóng thuế như mọi người, chứ chưa hề nghĩ có một ngày mình phải bận tâm đến pháp luật.
Tôi hỏi thăm nhiều đồng nghiệp về chuyện này, đa số đều không biết gì, chỉ khuyên nên mướn một luật sư. Sau nhiều tháng ngày trăn trở, nó đồng ý sẽ phải nhờ đến một văn phòng luật sư. Ở xứ này, mướn luật sư rất tốn tiền mà chưa chắc đã xong việc. Lần cuối nó cho hay luật sư báo cho biết vẫn chưa có ngày ra tòa cụ thể, sẽ cho biết sau. Cha mẹ đã dạy chúng tôi từ nhỏ, nếu thấy chuyện gì kiếm tiền quá dễ dàng mà lỗi đức công bằng, thì đừng làm. Sau bao dâu biển trong đời, tôi nghiệm ra nếu muốn có một giấc ngủ yên lành không mộng mị, không phải trăn trở rồi thở dài trong bóng đêm, tôi phải suy nghĩ, đắn đo thật kỹ, không phải bảy lần, mà bảy mươi lần bảy. Tương lai ta nằm trong tầm tay ta, trong những việc làm của ngày hôm nay. Biết làm sao được khi anh em mỗi người mỗi ngã, mỗi cuộc sống khác nhau, tuy cùng một cội nguồn. Một cội mà đôi cành, một bên hưởng trọn ánh nắng mặt trời, bên kia bị che tối bởi một vách đá mà ánh sáng khó có thể rọi soi đến được. Bên có nắng thì lá xanh tươi mạnh mẽ và sáng hơn, còn bên kia, lá sẫm màu và thiếu sức sống. Tôi chỉ biết cầu nguyện ơn trên ban phước, che chở, và giữ gìn gia đình nó cho khỏi mọi bóng tối của cuộc đời. Nếu qua được cơn hoạn nạn này, mong sao nó nhìn lại đoạn đường đã đi qua mà định hướng lại cuộc đời trên vùng đất vẫn đang rộng mở vòng tay đón những người nhập cư lương thiện. |
All times are GMT. The time now is 06:20. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.