Go Back   VietBF > Others (Closed Forums) > Archive - Old News 2006-2011

 
 
Thread Tools
Old 12-06-2011   #1
Hanna
R10 Vô Địch Thiên Hạ
 
Hanna's Avatar
 
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 108
Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Default Rơi vào ván bài nước lớn, Việt Nam lỡ bước

Việt nam đă đi gần đến nơi, nhưng câu chuyện chiến lược đă cản trở. Việt Nam đă t́nh cờ rơi vào ván bài chiến lược của các nước lớn, và lại là một con bài chẳng mấy quan trọng, có thể bị "dập" bất cứ lúc nào.

LTS: Có thể nói trong quá tŕnh b́nh thường hoá và phát triển quan hệ Việt - Mỹ gần 4 thập kỷ qua, ông Lê Văn Bàng là người chứng kiến và tham gia ở các mức độ khác nhau hầu như từ đầu tới cuối.

Từ một chuyên viên theo dơi t́nh h́nh thực hiện Hiệp định Paris, theo dơi báo chí và dư luận Mỹ để báo cáo cho lănh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Chính trị, đến vị trí phụ trách quan hệ của Vụ Bắc Mỹ.

Từ một trưởng pḥng liên lạc, đại biện lâm thời, rồi trở thành đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Mỹ.

Thôi chức thứ trưởng ngoại giao vào đầu năm 2008, ông lại tham gia dự án KX03 về chính sách đối ngoại của Đảng, trong đó phần của ông là quan hệ song phương Việt - Mỹ trong các mối tương quan song phương và đa phương khác.

Kể từ tháng 4. 2011, ở tuổi 64, ông lại tham gia vào một chương tŕnh khác liên quan đến hai quốc gia nhiều duyên nợ này - dự án bệnh viện Việt - Mỹ.

Tuần Việt Nam xin giới thiệu của trao đổi với cựu Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng về những dấu mốc trong tiến tŕnh b́nh thường hoá quan hệ Việt - Mỹ, với cả những nỗ lực xích lại gần nhau và những hiểu lầm, những bước tiến và bước hụt, trong những bối cảnh lợi ích của hai bên tham gia tiến tŕnh này bị tác động, chi phối bởi những lợi ích trong những mối quan hệ khác.

- Nhà báo Huỳnh Phan: Lần đầu tiên ông tiếp xúc với người Mỹ là khi nào?

- Cựu Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng:Đó là khi ông Henry Kissinger vào Hà Nội đầu năm 1973 (10.1-13.1), do ông Lê Đức Thọ mời, trước khi hai bên chính thức kư Hiệp định Paris vào 27.1.1973. Một dịp may bất ngờ đối với một nhân viên ngoại giao mới vào ngành được vài tháng như tôi (ông Lê Văn Bàng vào Bộ Ngoại giao tháng 10.1972, sau khi tốt nghiệp đại học ở Cuba, chuyên ngành tiếng Anh - TG).

Đoàn của ông Kissinger đến Nội Bài vào buổi tối. Khi đó, sân bay Nội Bài c̣n tung toé hết lên, chỉ được mỗi cái đường băng là tử tế. Tôi được giao toàn bộ nhóm phi công chuyên cơ, khoảng 20 người, làm hướng dẫn và phiên dịch cho họ.

Tuy vậy, tôi vẫn có hai kỷ niệm đáng nhớ về ông Kissinger.

Kỷ niệm thứ nhất là khi dẫn cả đoàn ông Kissinger đến thăm Bảo tàng Mỹ thuật (ở đường Nguyễn Thái Học), nhân dân nghe tin có Kissinger đến, họ tập trung rất đông dưới sân bảo tàng biểu t́nh phản đối. Nhiều người c̣n cầm đá, cầm gạch, bịt chặt cửa không cho đoàn ra.

Tôi cảm thấy căng quá. Hà Nội vừa mới trả qua đợt tàn phá kinh khủng của B52 Mỹ suốt 12 ngày đêm mà. Tuy nhiên, cuối cùng, chúng tôi cũng dẫn được đoàn Kissinger ra ngoài theo lối cửa sau, ra đường Cao Bá Quát.

Kỷ niệm thứ hai là khi dẫn ông tới Bảo tàng Lịch sử. Khi nghe dịch cái biển ghi 4 câu thơ "Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tuyệt nhiên định phận tại Thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư", ông ấy nói luôn: "Đây là Điều khoản 1 của Hiệp định Paris (khẳng định độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của Việt Nam)".


Cựu Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng

Ấn tượng của ông về ông Kissinger?

Trước đó, tôi cũng đọc nhiều về Kissinger, và, khi gặp, tôi cảm nhận ông quả là một người giỏi giang, uyên bác, và có nhiều mưu mẹo. Hơn nữa, đối đầu được với ông Lê Đức Thọ trên bàn đàm phán suốt 4 năm ṛng chắc hẳn không phải tay vừa.

Ư ông muốn nói đến việc ông Kissinger đă khéo léo "đẩy" cam kết cụ thể phía Mỹ trong viện trợ giúp hàn gắn vết thương chiến tranh và tái thiết thời hậu chiến ở Việt Nam (3,25 tỷ USD viện trợ không hoàn lại trong 5 năm và khoảng 1-1,5 tỷ USD viện trợ lương thực và hàng hoá), như ông Lê Đức Thọ đă kiên quyết đ̣i hỏi, sang bức công hàm của Tổng thống Richard Nixon gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng (ngày 1.2.1973)?

Hơn nữa, trong bức công hàm này, Tổng thống Nixon c̣n gài thêm rằng "mỗi thành viên thực hiện theo những quy định của Hiến pháp của ḿnh". Theo qui định của Hiến pháp Mỹ, có viện trợ không và viện trợ bao nhiêu là do bên lập pháp quyết định, chứ không phải bên hành pháp.

Đúng vậy. Và không ngờ đó lại là chỗ nghẽn trong đàm phán b́nh thường hoá giữa Việt Nam và Mỹ trong những năm sau đó.

Trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, phía Việt Nam đă chiến thắng khi buộc Mỹ phải kư hiệp định hoà b́nh và rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, tiếp nhận một đất nước bị tàn phá vào thời điểm thống nhất đất nước, cộng với kinh tế ngày càng khó khăn những năm sau đó, yêu cầu kiên quyết của phía Việt Nam là Mỹ viện trợ để tái thiết, theo điều khoản 21 của hiệp định, là hoàn toàn hợp lư.

Tuy nhiên, kể từ khi Tổng thống Jimmy Carter của Đảng Dân chủ lên nắm quyền (đầu năm 1977), và thể hiện mạnh mẽ mong muốn b́nh thường hoá quan hệ với Việt Nam, ông ta lại vấp phải một thách thức rất lớn từ phái Cộng hoà trong Quốc hội.

Khi thấy vấn đề MIA/POW (người mất tích trong chiến tranh và tù binh) của Mỹ bị phía Việt Nam gắn với điều 21 của Hiệp định, và cả bức thư hứa hẹn của Tổng thống Nixon, những nghị sĩ Cộng hoà đă phản ứng rất mạnh. Đỉnh điểm là đầu tháng 5.1977, khi Mỹ và Việt Nam bắt đầu đàm phán b́nh thường hoá ở Paris, Hạ viện Mỹ đă bỏ phiếu cấm bất kỳ viện trợ nào cho Việt Nam.

Có phải đó là lư do, trong chuyến đi một số nước châu Á vào tháng 7.1978, Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền đă tuyên bố với báo chí quốc tế là Việt Nam không yêu cầu thực hiện điều 21 của hiệp định nữa, hay không? Bởi trong ba ṿng đàm phán trong năm 1977 ở Paris, do chính ông Phan Hiền làm trưởng đoàn, Việt Nam luôn coi việc thực hiện điều 21 là điều kiện tiên quyết để b́nh thường hoá.

Tôi nghĩ c̣n có thêm một lư do quan trọng khác nữa. Đến lúc đó, lănh đạo Việt Nam đă nhận thức được t́nh h́nh đă thay đổi quá nhiều, nhất là sự căng thẳng với Trung Quốc, với việc cắt viện trợ và rút chuyên gia về nước, và Campuchia, khi chính quyền Khmer Đỏ đă có các cuộc xâm phạm biên giới phía Tây Nam, lên tiếng đ̣i xem lại vấn đề phân định lănh thổ giữa hai nước, cũng như cắt đứt quan hệ ngoại giao.

Việt Nam, lúc đó, đă đồng ư vào COMECON (Hội đồng Tương trợ Kinh tế), chuẩn bị kư một hiệp ước đồng minh với Liên Xô, và cho phép hải quân của họ sử dụng Cảng Cam Ranh. Đổi lại, Liên Xô cam kết tăng viện trợ cho Việt Nam.

Tức là đến thời điểm đó, lănh đạo Việt Nam đă có sự chuyển hướng chiến lược. Và, như vậy, nhu cầu tái thiết từ viện trợ của Mỹ không c̣n quan trọng như trước nữa.

Tức là chính sức ép từ phía Bắc, và phần nào đó từ phía Tây Nam, đă khiến lănh đạo Việt Nam quyết định phải nhanh chóng b́nh thường hoá vô điều kiện với Mỹ?

Đúng vậy. Trước sức nóng chủ yếu từ phương Bắc, nếu khộng có luồng gió ôn hoà từ phía Tây th́ căng lắm. Và, v́ vậy, vào tháng 9.1978, Việt Nam cử một trưởng đoàn mới là Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch sang đàm phán kín với Trợ lư Ngoại trưởng Mỹ Holbrooke, chấp nhận b́nh thường hoá vô điều kiện.

Thoả thuận xong với ông Holbrooke, ông Thạch chờ suốt mà không có câu trả lời từ Bộ Ngoại giao Mỹ. Sự nhượng bộ của Việt Nam đă quá muộn, bởi, trong thời gian đó, đă có những biến chuyển mạnh mẽ của t́nh h́nh thế giới, và Mỹ không thể ứng xử như cũ. B́nh thường hoá quan hệ với Trung Quốc lúc đó là ưu tiên hàng đầu của Mỹ.

Mike Morrow, người đầu tiên phỏng vấn được ông Nguyễn Cơ Thạch khi ông lên nhậm chức Bộ trưởng Ngoại giao năm 1980, có kể rằng, trong cuộc phỏng vấn đó, ông Thạch tiết lộ rằng ông đă nói thẳng với người đồng cấp Holbrooke rằng Mỹ không cần phải lựa chọn giữa Trung Quốc và Việt Nam. Tức là có thể b́nh thường hoá quan hệ với Trung Quốc, rồi sau đó với Việt Nam.

Việc Vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ Trần Quang Cơ, người sang New York cùng ông Thạch hồi tháng 9.1978, c̣n cố chờ sang cả tháng 1.1979, tức là sau khi Mỹ đă kư thoả thuận xong với với Trung Quốc, càng khẳng định cho quyết tâm "c̣n nước c̣n tát" này của phía Việt Nam.

Đúng là Việt Nam đă thực sự hy vọng sẽ b́nh thường hoá được với Mỹ trong thời gian đó. Tôi c̣n nhớ là đă được Bộ Ngoại giao cử vào biên chế đại sứ quán tương lai, phụ trách mảng văn pḥng. Tuy đại sứ chưa chọn, nhưng biên chế sứ quán th́ đâu vào đấy. Tháng 12.1978, Bộ Ngoại giao Mỹ c̣n chuyển cho phía Việt Nam ảnh chụp toà đại sứ ở Washington D.C. của chính quyền Sài G̣n cũ nữa.

Tức là chúng ta đă tính đến việc lập ngay sứ quán khi thoả thuận b́nh thường hoá được kư kết.


Tổng thống Mỹ Bin Clin-tơn tiếp Đại sứ Lê Văn Bàng tại Lễ tŕnh Quốc thư.

Phóng viên kỳ cựu của hăng AP là Peter Arnett, người đă tháp ṭng đoàn nghị sĩ Mỹ vào Hà Nội mùa hè năm 1976, đă nói rằng dưới thời Tổng thống Carter, Mỹ muốn cải thiện quan hệ của ḿnh ở Trung Mỹ với việc trả kênh đào Panama cho nước này quản lư. Ông đă tập trung nhiều công sức và thời gian để thuyết phục Quốc hội phê chuẩn hiệp ước mà ông kư với Tướng Omar Torrijos vào tháng 9.1977, và v́ vậy đă sao nhăng phần nào câu chuyện b́nh thường hoá với Việt Nam.

Ông có ư kiến ǵ về nhận định đó?

Tôi nghĩ ông ta hoàn toàn chính xác khi nói tới nỗ lực của Tổng thống Carter trong việc lấy lại h́nh ảnh và ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Mỹ, và Mỹ La tinh nói chung. Bởi, sau Việt Nam, Mỹ thất thế cả về uy tín lẫn kinh tế, và Liên Xô đă tranh thủ mở rộng ảnh hưởng, rất mạnh. Họ vươn tay tới Angola, Mozambique, hay Ethiopia ở châu Phi, và nhất là Nicaragua - một quốc gia nằm ngay "sân sau" của Mỹ.

Nhưng quan trọng hơn, Mỹ đă phải tập trung vào "con bài" Trung Quốc, dựa trên cơ sở sự bất đồng sâu sắc giữa Liên Xô và Trung Quốc, nhằm thay đổi cán cân quyền lực trên thế giới giữa Mỹ và Liên Xô.

Đến thời điểm lănh đạo Việt Nam thực sự mong muốn b́nh thường hoá ngay với Mỹ, phía Mỹ lại chưa muốn. Bởi, như vậy, họ khó thúc đẩy b́nh thường hoá và cải thiện quan hệ với Trung Quốc được.

Tóm lại, Việt nam đă đi gần đến nơi, nhưng câu chuyện chiến lược đă cản trở. Việt Nam đă t́nh cờ rơi vào ván bài chiến lược của các nước lớn, và lại là một con bài chẳng mấy quan trọng, có thể bị "dập" bất cứ lúc nào.

Khi Việt Nam đưa quân vào Campuchia cuối năm 1978, mọi mối tiếp xúc hầu như bị cắt đứt. Ngay cả vấn đề MIA/POW, một trong những lời hứa của ông Jimmy Carter với hiệp hội những gia đ́nh có người Mỹ mất tích trong chiến tranh khi tranh cử, Mỹ cũng chẳng quan tâm nữa.

Thậm chí đến năm 1981, khi chúng tôi đă chuẩn bị rất kỹ một chuyến thăm cho ông Andrew Young, cựu Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc và cựu cố vấn của Tổng thống Carter, Bộ Ngoại giao Mỹ dưới thời Tổng thống Ronald Reagan vẫn không chấp thuận cho họ sang Việt Nam.

Mọi chuyện phải chờ đến năm 1985, Mỹ mới quay lại Việt Nam...

(C̣n tiếp...)
Vef
Hanna_is_offline  
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	110710ha45_1323078777.jpg
Views:	31
Size:	28.1 KB
ID:	340334  
Old 12-06-2011   #2
5com
R7 Tuyệt Đỉnh Cao Thủ
 
Join Date: Jan 2007
Posts: 7,182
Thanks: 1,808
Thanked 681 Times in 369 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 107 Post(s)
Rep Power: 25
5com Reputation Uy Tín Level 6
5com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 65com Reputation Uy Tín Level 6
Default

Tổng thống Mỹ Bin Clin-tơn, mới đọc tưởng là Bin laden
5com_is_offline  
 
User Tag List


Facebook Comments


Phim Bộ Sốt Nhất 1 Tháng qua

Phim Bộ Sốt Nhất 2 Tháng qua

Phim Bộ Sốt Nhất 3 Tháng qua

Phim Bộ Sốt Nhất 6 Tháng qua

Phim Bộ Sốt Nhất 1 Năm qua
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

Society News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.