Ngày 7/8, Viện Y tế và Chăm sóc sức khỏe quốc gia của Anh (Nice) cho biết đă phê duyệt loại thuốc mới Abaloparatide để sử dụng điều trị bệnh loăng xương.
Theo kế hoạch, Abaloparatide sẽ có sẵn trong ṿng 3 tháng tới để Cơ quan y tế quốc gia (NHS) sử dụng tại vùng England. Abaloparatide do hăng dược phẩm Theramex sản xuất và được bán dưới tên thương hiệu Eladynos. Thuốc này có công dụng làm tăng mật độ xương bằng cách kích thích các tế bào tạo xương mới.
Abaloparatide được khuyến nghị sử dụng cho những bệnh nhân có nguy cơ găy xương cao. Loại thuốc này được đóng gói theo dạng bút tiêm và bệnh nhân có thể tiêm tại nhà mỗi ngày.
Giáo sư Jonathan Benger, Giám đốc y khoa và Phó giám đốc điều hành Nice, cho biết Abaloparatide có hiệu quả về điều trị lâm sàng và chi phí đối với việc giảm nguy cơ găy xương, giúp người dùng hoạt động độc lập và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Hiệp hội Loăng xương Hoàng gia (ROS) đă hoan nghênh thông báo trên của Nice. Theo Giám đốc điều hành ROS Craig Jones, việc thiếu các phương pháp điều trị mới trong hơn 10 năm qua là nguyên nhân gây lo ngại lớn đối với t́nh trạng găy xương phổ biến ở phụ nữ trên 50 tuổi và mức độ tàn tật do găy xương gây ra. Do đó, việc có loại thuốc mới điều trị bệnh loăng xương cho phụ nữ măn kinh có nguy cơ găy xương cao nhất sẽ giúp thay đổi cuộc sống của hàng ngh́n người theo hướng tốt đẹp hơn không chỉ ở vùng England mà c̣n trên cả nước.
Bệnh loăng xương làm xương yếu đi và ảnh hưởng đến 3,8 triệu người ở Anh. Bệnh này đặc biệt ảnh hưởng đến những phụ nữ lớn tuổi v́ trong thời kỳ măn kinh, estrogen - loại hormone quan trọng để duy tŕ mật độ xương - bị giảm và mật độ xương cũng giảm. Điều này có thể dẫn đến chứng loăng xương, khiến xương dễ bị găy hơn. T́nh trạng này liên quan đến hơn 500 ca găy xương mỗi năm ở Anh, tiêu tốn hơn 4,5 tỷ bảng Anh (5,7 tỷ USD).
Găy xương có thể gây đau đớn và hạn chế khả năng độc lập của con người, đồng thời liên quan đến nguy cơ tăng tỷ lệ tử vong. Đến nay, phụ nữ măn kinh bị loăng xương có nguy cơ bị găy xương rất cao đang được điều trị bằng thuốc romosozumab hoặc teriparatide và nhóm thuốc ngăn ngừa giảm mật độ xương như acid alendronic. Tuy nhiên, một số bệnh nhân không đáp ứng hoặc không thể dung nạp những loại thuốc này.